Thứ Ba, 10 tháng 8, 2021

Lý luận và thực tiễn đã bác bỏ âm mưu chống phá cách mạng của các thế lực thù địch


      Những thủ đoạn của các thế lực thù địch dù rất tinh vi, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn. Trên phương diện lý luận, nhà nước và quân đội là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, quân đội mang bản chất giai cấp của nhà nước tổ chức và nuôi dưỡng nó. Không có nhà nước “phi giai cấp”, nên không có quân đội “phi chính trị”. Ở các nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, đảng nào thắng thế sẽ đứng ra lập chính phủ, nên quân đội bao giờ cũng phụ thuộc vào đường lối chính trị của đảng cầm quyền; đồng thời, bất cứ đảng cầm quyền nào cũng tìm cách nắm quân đội. Tuy vậy, khi mà sự tranh giành quyền lực giữa các đảng diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị, thường xuất hiện lời kêu gọi “quân đội không đứng về đảng phái nào”; nhưng trong thực tế, các đảng đều tìm sự hậu thuẫn từ quân đội.

Phòng, chống sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
Cán bộ, chiến sĩ LLVT giúp nhân dân thu hoạch vải thiều tại Lục Ngạn, Bắc Giang. Ảnh: qdnd.vn 

          Đối với các nước XHCN, Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội là nguyên tắc cơ bản về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đây là nguyên tắc được V.I.Lênin đề ra ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười năm 1917 thành công, để tổ chức xây dựng Hồng quân công nông. Nguyên tắc đó bảo đảm cho quân đội luôn giữ đúng định hướng chính trị của Đảng Cộng sản, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với nhân dân, là công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.

          Trên phương diện thực tiễn, ở Liên Xô vào cuối thế kỷ trước, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước mắc sai lầm nghiêm trọng khi tự xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội. Vì thế, quân đội Liên Xô mất phương hướng chính trị, không bảo vệ được Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN; mặc dù, quân số còn gần 4 triệu người với vũ khí trang bị hiện đại.

          Ở Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Chánh cương vắn tắt năm 1930 của Đảng xác định “Tổ chức ra quân đội công nông”, mà quân đội ấy phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 14 năm sau, Đảng tổ chức ra Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với mô hình có chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo. Là người xây dựng, giáo dục và rèn luyện Quân đội ta, lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn yêu cầu “Xây dựng quân đội-một quân đội nhân dân thật mạnh dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và của Đảng”. Người nhiều lần nhấn mạnh: “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội”. Lịch sử gần 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã chứng minh: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội; việc thực hiện nguyên tắc Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội là sự bảo đảm cho Quân đội ta luôn là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là thực tiễn sinh động bác bỏ mọi sự xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội.


Nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi, mục tiêu chống phá cách mạng không thay đổi của các thế lực thù địch


          Nhận thấy không xóa được chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta, nếu không xóa được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Họ cho rằng, “quân đội do nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”. Họ viện dẫn thực tiễn ở các thể chế chính trị tư sản với chế độ đa đảng, quân đội không do đảng nào lãnh đạo. Dựa vào đó, họ phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam”; đòi bỏ quy định “Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng” ở Điều 65, Hiến pháp 2013...

          Mục tiêu nhất quán của những thủ đoạn trên là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm cho quân đội xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò Quân đội ta là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.


Phương pháp kế thừa tri thức nhân loại - Nét đặc sắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin

 

          Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc đồng thời tiếp thu có phê phán, chọn lọc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng là đặc điểm nổi bật trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác.

          Trước Mác, các nhà tư tưởng hoặc là kế thừa một cách rập khuôn, giáo điều hoặc là phủ định sạch trơn, do vậy lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đều có những hạn chế nhất định. Mác và Ăng-ghen đã vượt lên tất cả những hạn chế của lịch sử tư tưởng trước đó bằng cách kế thừa toàn bộ tinh hoa tri thức nhân loại, đồng thời phê phán, phủ định những hạn chế của những tư tưởng đó và sáng tạo ra chủ nghĩa mới mang bản chất khoa học và cách mạng, đó là Chủ nghĩa Mác.

Phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Các Mác - Giá trị lịch sử và thực tiễn sinh động ở Việt Nam
Ảnh minh họa: dangcongsan.vn  

          Trước Mác, Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc đại diện cho hai trường phái triết học đối lập nhau: Hê-ghen là đại biểu cho trường phái duy tâm nhưng “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phương pháp biện chứng cách mạng (phép biện chứng); Phoi-ơ-bắc đại diện cho trường phái duy vật nhưng hạn chế trong triết học của ông là phương pháp siêu hình (phép siêu hình). Mác đứng trên lập trường duy vật cách mạng của Phoi-ơ-bắc nhưng phê phán phép siêu hình của ông ta; Mác cũng phủ định lập trường duy tâm của Hê-ghen nhưng tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phép biện chứng cách mạng. Nhờ đó, triết học Mác có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng: Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật, nó hoàn toàn khác về chất so với chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoi-ơ-bắc. Hơn nữa, trước Mác, các nhà triết học chủ yếu là giải thích thế giới, triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà sứ mệnh cao cả hơn là cải tạo thế giới.  

          Học thuyết về kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học cũng tương tự như vậy. Mác đã kế thừa có phê phán những tư tưởng kinh tế chính trị học cổ điển Anh và tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp... Trên cơ sở đó, ông đã tìm ra quy luật giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

          Trong diễn văn tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga diễn ra ngày 2-10-1920, Lênin đã truyền thụ phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác cho thế hệ trẻ và mong muốn thế hệ trẻ sẽ là người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin nêu hai biểu hiện đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác:

          Một là, Mác đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra. Lênin khẳng định: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào”. Muốn trở thành người cộng sản, nhất là đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải không ngừng học tập, nghiên cứu để có tri thức toàn diện, phong phú và sâu sắc. Lênin nhấn mạnh: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.

            Theo chỉ dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu, đã kế thừa toàn bộ tri thức nhân loại sáng tạo ra, trên cơ sở đó lựa chọn con đường phát triển đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930 và kiên định thực hiện, kể cả khi hệ thống CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, đặt CNXH trước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Trong muôn vàn khó khăn đó, tại Đại hội VII, Đảng ta đã quyết nghị và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991): Khẳng định ý chí sắt đá, không gì lay chuyển nổi mục tiêu CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn tới mục tiêu ấy. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng, phát huy cao độ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, đã chiến đấu hy sinh ròng rã mấy chục năm trời, hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không có lý gì nay lại rẽ sang con đường khác ngược với mục tiêu đã lựa chọn.

Hai là, trên cơ sở phê phán những khuyết điểm, hạn chế, Mác đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri thức nhân loại. Đây là đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác. Lênin nhấn mạnh: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phân tích, phê phán và đã căn cứ phong trào công nhân để kiểm tra lại”. Thật vậy, Mác đã phê phán những hạn chế, khuyết điểm mà tri thức nhân loại đã sáng tạo ra, nhất là những tiền đề lý luận trực tiếp lúc bấy giờ là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và CNXH không tưởng Pháp để xây dựng nên học thuyết mới hoàn chỉnh với ba bộ phận cấu thành gồm triết học, kinh tế chính trị học và CNXH khoa học.

          Con đường tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh động cho phương pháp kế thừa tri thức nhân loại. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ, bởi phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại. Người chọn con đường khác để tìm ra và đi theo Chủ nghĩa Mác, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cách mạng giành độc lập dân tộc, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên CNXH.      

          Con đường đi lên CNXH ở nước ta bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản là sáng tạo đặc sắc của Việt Nam. Bỏ qua ở đây là bỏ qua quan hệ sản xuất bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư, tật xấu của xã hội tư bản. Còn tiếp thu những thành tựu phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, tiếp thu văn minh mà nhân loại đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đồng chí Nguyễn Đức Kiên-Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau và chúng ta lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng CNXH. Ở đây nó sáng tạo ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu của trí tuệ con người để chúng ta đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập để tiến thẳng lên CNXH thì nó chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho người điều hành trực tiếp có động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”.

Những hình ảnh đầu tiên của Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam tại Algeria

Theo thông tin từ Trung tá Hoàng Ngọc Sáng, Đội trưởng Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam tham dự Hội thao Quân sự Quốc tế 2021 (Army Games-2021), rạng sáng 9-8 (giờ Hà Nội), sau hơn 13 giờ bay từ Liên bang Nga, Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam đã đến Algeria.

Khi xuống sân bay, đội thực hiện các thủ tục nhập cảnh và di chuyển đến khách sạn do Ban tổ chức bố trí. Tại đây, các thành viên được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19 và thực hiện cách ly y tế 3 ngày. Sau đó, đội bước vào huấn luyện để sẵn sàng thi đấu tại Army Games-2021. Dưới đây là những hình ảnh đầu tiên của đội tại Algeria.

Rạng sáng 9-8, máy bay quân sự của Liên Bang Nga đưa Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam đến sân bay Algeria. Ảnh: Quang Sáng

Các huấn luyện viên và chó nghiệp vụ Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam tại sân bay của Algeria. Ảnh: Quang Sáng

Các huấn luyện viên Đội tuyển chó nghiệp vụ QĐND Việt Nam được lấy mẫu xét nghiệm Covid-19. 

Nguyễn Hải st

ĐẤU TRANH VƠI “TRUYỀN THÔNG ĐEN”

 

Truyền thông có ảnh hưởng rất lớn đến mọi vấn đề của xã hội. Truyền thông tác động đến nhận thức của công chúng, từ nhận thức sẽ tác động đến hành động và ứng xử của công chúng. Truyền thông có tính chất hai mặt, nếu sử dụng đúng sẽ có hiệu quả tích cực trong công cuộc chống dịch COVID -19, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân, nhưng nếu sử dụng sai sẽ là trở lực rất lớn, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm tổn hại đến sự phát triển của đất nước. Truyền thông các thế lực thù địch, phản động cơ hội chính trị đang sử dụng là một loại “truyền thông đen”. Loại truyền thông này cần phải được nhận diện, đấu tranh và loại bỏ. Theo đó, đối với công tác truyền thông trong nước phải đi trước một bước, tiếp tục phát huy những kết quả đã làm được, tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, đầy đủ, chính xác mọi chủ trương, chính sách, chỉ thị, quy định về phòng, chống dịch COVID -19 đến từng cấp, ngành và nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cộng đồng về những khó khăn, diễn biến phức tạp của dịch COVID -19 và vạch trần âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Qua đó, tạo sự đồng thuận xã hội, đoàn kết, quyết tâm cao nhất với tinh thần “chống dịch như chống giặc”.

 

THÔNG TIN BỊA ĐẶT

 

Sáng 8/8, thông tin bác sĩ Khoa ở TP Hồ Chí Minh trong lúc chữa trị bệnh nhân COVID-19 đã rút ống thở từ chính ba mẹ mình để cứu sản phụ sinh đôi đã gây sốc trên mạng xã hội, lay động tâm thức con người. Song thông tin này cũng nhanh chóng bị lật tẩy - đó chỉ là trò tung tin, hình ảnh ảo. Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy Nguyễn Tri Thức cho biết, tại bệnh viện không có bác sĩ nào tên Khoa với hình ảnh như chia sẻ trên mạng, cũng không hề có trường hợp nào rút ống thở cứu sản phụ như mạng xã hội đưa và đến nay, chưa có luật nào cho phép bác sĩ hay người thân tự rút ống thở của bệnh nhân. Nếu rút ống thở phải thông qua hội đồng chuyên môn quyết định nhưng điều này chưa có quy định ở Việt Nam.

CẢNH GIÁC THÔNG TIN SAI LỆCH, XUYÊN TẠC CỦA KẺ CHỐNG PHÁ

         Hơn 3 tháng qua, Việt Nam đối diện đợt bùng phát thứ tư dịch bệnh COVID-19. Hệ thống chính trị và nhân dân với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, “chủ động tấn công phòng, đi trước chặn đầu dập dịch”, quyết tâm để đẩy lùi, chiến thắng đại dịch. Tuy nhiên, lợi dụng vào tình hình dịch bệnh, một số cá nhân, đối tượng cơ hội chính trị, phản động đã thông tin sai lệch, xuyên tạc gây tâm lý hoang mang, bức xúc với người dân.

Đi ngược tinh thần cả nước chung tay chống dịch, một số đối tượng đã phát tán trên không gian mạng nhiều thông tin sai sự thật, xuyên tạc tình hình dịch bệnh và công tác chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền trong nỗ lực phòng, chống dịch bệnh.

Lợi dụng dịch bệnh để thông tin sai trái, xuyên tạc với mục đích kích động, chống phá hay giật gân, câu view… là hành vi phạm pháp, vô cảm, vô đạo đức trong lúc dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. 

Người dân khi phát hiện những thông tin như vậy cần cảnh giác, không chia sẻ, đồng thời lên án, đấu tranh phản bác, thông tin cho cơ quan chức năng để kịp thời xử lý, ngăn chặn.

 

BÀ LÀ NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM ĐẦU TIÊN MÀ ĐỐI PHƯƠNG VÀ BẠN BÈ QUỐC TẾ KÍNH NỂ, LÀ CON CHÁU BÀ TRƯNG, BÀ TRIỆU THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH!

 ĐÂY MỚI LÀ "NGƯỜI ĐÀN BÀ THÉP"


Thế giới vẫn thường xưng tụng một vị nữ Thủ tướng đầu tiên của một quốc gia hùng mạnh bên phương Tây là "người đàn bà thép"

Tuy nhiên cụm từ NGƯỜI ĐÀN BÀ THÉP xuất hiện đầu tiên trên báo của Thụy Sĩ để mô tả về một người phụ nữ Việt Nam.

Lần đầu thấy bà, báo viết “...chúa ơi, bà ấy quá dịu dàng để làm chính trị gia... công việc giỏi nhất của bà ấy chắc là nấu bếp...”

Sau khi hiệp định được ký kết, vẫn báo ấy viết: “...Việt Nam đúng là đưa đến hội đàm một bà đầu bếp... và bà ấy coi mấy ông đại sứ Mỹ cứ như thể là lọ muối vậy...”

P/s: Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình có một người ông rất nổi tiếng, cụ Phan Châu Trinh./.


Yêu nước ST.

VIỆT NAM ĐƯA THUỐC ĐIỀU TRỊ COVID-19 ĐẦU TIÊN VÀO THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG

 

   Thuốc điều trị Covid-19 Vipder Vir đã được Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Quốc gia, Bộ Y tế đồng ý cho thử nghiệm lâm sàng trên người nhiễm SARS-CoV-2. Đây là loại chế phẩm thuốc y học cổ truyền đầu tiên điều trị Covid-19 của Việt Nam được đưa vào thử nghiệm lâm sàng.

   Sáng 10/8, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam tổ chức họp báo công bố kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng thuốc điều trị Covid-19. Đây là công trình trọng điểm của Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn Lâm Khoa học và công nghệ Việt Nam trong việc tạo ra chế phẩm phòng và điều trị Covid-19 từ nguồn cây thuốc Việt Nam..

   Sản phẩm được Hội đồng Đạo đức quốc gia đánh giá cao, chấp nhận đưa vào thử nghiệm lâm sàng trên người nhiễm SARS-CoV-2.

     Những kết quả ban đầu triển vọng

   PGS, TS, Nghiên cứu viên cao cấp Lê Quang Huấn, Viện Công nghệ sinh học, tác giả của nghiên cứu của thuốc Vipder Vir cho biết, chế phẩm thuốc điều trị Covid-19 từ thảo dược có tác dụng liên kết mạnh với các phân tử liên quan quá trình xâm nhập và tăng sinh của virus SARS-CoV-2.

   Nhóm đã sử dụng công nghệ hiện đại tin sinh học để sàng lọc các hoạt chất chính có trong các thảo dược Việt Nam có ái lực liên kết mạnh với các đích phân tử, là các phân tử liên quan tới quá trình xâm nhập và tăng sinh của virus SARS-CoV-2, phối hợp các tài liệu y văn xưa và nay, các công bố quốc tế gần đây để tạo được tổ hợp các loại thảo dược chứa các hoạt chất đã sàng lọc nhằm tạo ra sản phẩm có hiệu quả điều trị cao nhất trên cơ sở có được sự tương tác cộng hưởng của các hoạt động theo các cơ chế khác nhau.

   Theo đó, loại thuốc này sẽ ngăn cản sự bám dính của virus với tế bào chủ, làm mất khả năng xâm nhập của virus vào trong tế bào chủ. Đồng thời, sẽ ức chế khả năng nhân lên của virus trong tế bào (đối với những hạt virus đã xâm nhập vào bên trong tế bào chủ). Thuốc sẽ kích hoạt các tế bào miễn dịch để chúng nhận biết, phong tỏa và loại trừ các hạt virus.

   Sản phẩm đã được đánh giá độc tính cấp, độc tính bán trường diễn tại Bộ môn Dược lý tại Đại học Y Hà Nội, Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương, đánh giá khả năng ức chế virus H5N1 tại Viện Công nghệ sinh học, ức chế virus SARS-CoV-2 tại Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.

   Kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng đã chứng minh tính an toàn và khả năng ức chế phát triển của virus cũng như tác dụng tăng cường miễn dịch.

   Trong cuộc họp ngày 7/8, Hội đồng Đạo đức đã đánh giá cao kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng và chấp thuận đề cương nghiên cứu lâm sàng trên bệnh nhân Covid-19 với thuốc Vipder Vir. “Đây là cơ sở khoa học quan trọng để chúng tôi đề nghị được tiếp tục nghiên cứu hiệu quả điều trị Covid-19 trên người bệnh ở giai đoạn lâm sàng. Chúng tôi hy vọng thuốc sẽ có đáp ứng tốt trong quá trình thử nghiệm và được cấp phép cho thuốc điều Covid-19, kịp thời góp phần phòng và điều trị bệnh Covid-19”, PGS, TS Huấn nói.

     Kỳ vọng đưa vào sử dụng cuối năm 2021

   TS Nguyễn Ngô Quang, Phó Cục trưởng Cục Khoa học công nghệ và đào tạo, Bộ Y tế chúc mừng các nhà khoa học của Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có bước đầu nghiên cứu phát triển từ dược liệu y học cổ truyền có thể đưa ra sản phẩm là thuốc phục vụ công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe người dân, phòng chống đại dịch Covid-19.

   "Đây là một trong những minh chứng sinh động về việc các bộ, ngành trong đó có Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chính phủ và đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ trong ưu tiên mọi nguồn lực để phát triển những khoa học công nghệ phục vụ công tác phòng, chống dịch. Đây là một trong những hình ảnh minh họa rõ nét về sự phối hợp giữa 4 nhà, có được sản phẩm phục vụ cho người dân trong đó có nhà khoa học (khối nghiên cứu cơ bản, các nhà khoa học khối lâm sàng), các nhà sản xuất, nhà tài trợ, nhà quản lý", ông Quang nói.

   Bộ Y tế đang chỉ định cho Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương, Bệnh viện Đống Đa và Bệnh viện Đức Giang tham gia tuyển đối tượng nghiên cứu. Theo ông Quang, hiện nay F0 thể nhẹ và vừa tại Việt Nam rất nhiều nên việc tuyển đối tượng nghiên cứu khá thuận lợi trong thời điểm hiện nay. Ưu Việt của sản phẩm là thuốc y học cổ truyền mà người dân hiện nay mong muốn có sản phẩm tương tự trong điều trị.

   Hội đồng Đạo đức Quốc gia đã đánh giá tính an toàn trên người tình nguyện khi sản phẩm sử dụng thảo dược nên cho phép triển khai ngay giai đoạn 2, 3 trên đối tượng đích là bệnh nhân.

   Giai đoạn 2 sẽ triển khai thử nghiệm trên 60 đối tượng để dò liều tối ưu, chỉ định liều thuốc điều trị. Có 2 nhóm có đối chứng tham gia nghiên cứu gồm 1 nhóm điều trị phác đồ nền theo Bộ Y tế, 1 nhóm điều trị theo phác đồ nền với sản phẩm nghiên cứu.

   Kết thúc giai đoạn 2, sau khi đánh giá an toàn, khả năng giảm tải lượng virus của các liều và chọn liều tối ưu, Hội đồng Đạo đức Quốc gia cho phép chuyển sang giai đoạn 3 với khoảng 200 người để đánh giá so sánh giữa 2 nhóm./.

MỸ CHỈ TRÍCH HÀNH ĐỘNG CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG TẠI LIÊN HỢP QUỐC


   Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken hôm 9/8 lên tiếng chỉ trích các hành động bắt nạt ở Biển Đông và cảnh báo Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc rằng một cuộc xung đột “sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trên toàn cầu đối với an ninh và thương mại”.

   “Xung đột ở Biển Đông, hoặc ở bất kỳ vùng biển nào, sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trên toàn cầu đối với an ninh và thương mại. Nếu một quốc gia không phải đối mặt với hậu quả nào khi phớt lờ những quy tắc này, thì sẽ tạo ngoại lệ và bất ổn lớn hơn ở mọi nơi”, ông Blinken phát biểu tại cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về an ninh hàng hải hôm 9/8..

   Ngoại trưởng Mỹ cho biết đã chứng kiến nhiều cuộc va chạm nguy hiểm giữa các tàu thuyền trên biển và các hành động gây hấn nhằm thúc đẩy các yêu sách hàng hải phi pháp, đồng thời nhấn mạnh Washington lo ngại về các hành động “đe dọa và bắt nạt các quốc gia khác tiếp cận hợp pháp các nguồn tài nguyên hàng hải của họ”.

   Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên hợp quốc Đới Binh đưa ra những cáo buộc gay gắt về việc Mỹ đã  “tuỳ tiện đưa tàu và máy bay quân sự hiện đại vào Biển Đông như một hành động khiêu khích và công khai tìm cách gây bất đồng giữa các quốc gia trong khu vực”.

   Đáp lại, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken cho biết không chỉ các nước có yêu sách đối với các đảo và vùng biển ở Biển Đông, mà mọi quốc gia khác đều phải có trách nhiệm bảo vệ các quy tắc mà họ đã đồng ý tuân theo để giải quyết các tranh chấp trên biển một cách hòa bình.

   Biển Đông hiện là một trong những điểm nóng trong quan hệ Mỹ - Trung. Washington gần đây tiếp tục lên tiếng bác bỏ yêu sách lãnh thổ phi pháp của Bắc Kinh ở vùng biển này./.

CHIẾN LƯỢC VACCINE VÌ SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG


   Trước tình hình diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19, Việt Nam đã triển khai chiến dịch tiêm chủng vaccine lớn nhất trong lịch sử với mục tiêu đạt được miễn dịch cộng đồng. Khẳng định của đại diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam cho biết tất cả các loại vaccine Covid-19 được Việt Nam lựa chọn sử dụng đều được tổ chức này phê duyệt, đảm bảo an toàn và hiệu quả.

   Tuy nhiên, bất chấp sự thật đó, thời gian qua trên mạng xã hội và một số cơ quan truyền thông nước ngoài vẫn xuất hiện nhiều ý kiến công kích chính sách vaccine của Việt Nam, xuyên tạc hiệu quả một số loại vaccine, gây hoang mang dư luận nhằm mưu đồ phá hoại quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đẩy lùi dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe của nhân dân là trên hết, trước hết, nhanh chóng đưa đất nước trở lại bình thường, phát triển..

   Dịch bệnh Covid-19 với biến chủng mới tiếp tục hoành hành dữ dội trên toàn cầu, các ca mắc mới và tỷ lệ tử vong tăng cao, hệ thống y tế ngày càng quá tải khiến nhiều quốc gia phải đối mặt với khủng hoảng chưa từng có. Nhu cầu vaccine Covid-19 trên thế giới trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, khiến nguồn cung vaccine ngày càng khan hiếm. Với tầm nhìn xa là tìm giải pháp căn cơ để đưa đất nước thoát khỏi dịch bệnh nên ngay khi dịch bùng phát, lan rộng tại nhiều nước, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã quyết tâm thực hiện chiến lược vaccine. Chiến lược vaccine được đặc biệt chú trọng với định hướng cụ thể là: tiếp cận nguồn vaccine từ bên ngoài; tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ và sản xuất vaccine; sớm tổ chức nghiên cứu, sản xuất vaccine trong nước.

   Để chiến lược vaccine được triển khai trong thời gian sớm nhất, bảo đảm an toàn và có hiệu quả cao nhất, nhiều chủ trương, chính sách cụ thể đã được ban hành. Bên cạnh tập trung nhiều biện pháp như tăng cường đàm phán, huy động tài chính để mua, nhập khẩu vaccine. Chính phủ Việt Nam cũng đã thành lập Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 kêu gọi sự ủng hộ từ đồng bào trong và ngoài nước, doanh nghiệp và bạn bè quốc tế. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã không câu nệ cách thức thực hiện, dù quan hệ ngoại giao song phương hay đa phương, dù tiếp xúc trong nước hay ngoài nước, dù điện đàm hay viết thư gửi lãnh đạo các nước,… thì nội dung kêu gọi hỗ trợ, cung cấp vaccine cho Việt Nam đều được đặt ra.

   Cùng với đó là sự vào cuộc tích cực của các bộ, ban, ngành, cơ quan chức năng, các đại sứ, trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, cũng như sự tham gia của nhiều tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước nhằm có được nguồn vaccine nhanh nhất, nhiều nhất có thể. Sự nhạy bén của Việt Nam trong thực hiện chiến lược vaccine, đặc biệt là “ngoại giao vắc-xin”, đã giúp chúng ta tiếp cận nhanh chóng và hiệu quả nhất các nguồn vaccine từ cơ chế COVAX cũng như sự hỗ trợ quý giá của nhiều quốc gia như Nhật Bản, Mỹ, Nga, Trung Quốc, Australia, Anh, Đức, Ấn Độ,... qua các hình thức khác nhau. Đó cũng là cơ sở quan trọng để ngày 5/8 mới đây, Bộ Y tế cho biết, Việt Nam đã ký hợp đồng mua 31 triệu liều Pfizer và đang làm thủ tục mua tiếp 20 triệu liều.

    Với chiến lược vaccine đúng đắn, kịp thời, triển khai theo cả chiều sâu và chiều rộng, Việt Nam đã tiếp nhận nguồn cung vaccine tương đối dồi dào, giúp thực hiện mục tiêu hết quý I/2022 sẽ có 70% dân số được tiêm phòng Covid-19, tương đương 150 triệu liều vaccine.

   Phát biểu tại hội nghị trực tuyến “Đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế phục vụ thực hiện mục tiêu kép trong 6 tháng cuối năm 2021” tổ chức ngày 29/7 với 96 đại sứ, trưởng cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã đánh giá: Điểm sáng nhất của ngoại giao kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2021 là ngoại giao vaccine, đã góp phần vào kết quả chung của đất nước trong việc vận động, tiếp nhận hơn 14 triệu liều vaccine mặc dù nguồn cung vaccine trên thế giới khan hiếm và Việt Nam thực hiện chống dịch hiệu quả nên không thuộc quốc gia được ưu tiên vaccine.

   Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng về nhiều mặt, từ đối nội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đến kinh tế - xã hội. Mục tiêu trong 6 tháng cuối năm là tiếp tục đẩy mạnh ngoại giao vaccine theo cả hình thức viện trợ, bán và chuyển giao công nghệ, cũng như đẩy mạnh nguồn cung trang thiết bị, vật tư y tế; tập trung theo dõi, phát hiện các xu hướng mới trong và sau đại dịch Covid-19 để thông tin, tham mưu giúp Chính phủ trong triển khai các chiến lược, định hướng phát triển đất nước...

   Đánh giá chính sách “ngoại giao vắc-xin” của Việt Nam, bà Bích Trần, Trợ lý Chương trình Đông Nam Á thuộc Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (trụ sở tại Washington, Mỹ) cho biết: “Điểm sáng chính là chính sách đối ngoại của Việt Nam, khi đã tặng khẩu trang và trang thiết bị y tế cho các nước khác từ khi mới bắt đầu đại dịch. Nhờ vào vị thế và mối quan hệ tốt đẹp mà Việt Nam đã xây dựng, các quốc gia trên thế giới đều sẵn lòng trợ giúp Việt Nam bằng việc chia sẻ nguồn vaccine”.

   Hiện nay người dân trên cả nước, nhất là vùng có dịch bệnh diễn biến phức tạp, đang được đẩy mạnh tiêm vaccine Covid-19. Tuy nhiên vì số lượng vaccine hiện tại chưa thể đủ cung cấp cho tất cả mọi người nên Chính phủ, Bộ Y tế và các cơ quan chức năng đã có sự phân bổ hợp lý, khoa học cho các địa phương, cũng như đối tượng cần tiêm, được tiêm. Việc ưu tiên vaccine cho người dân ở vùng tâm dịch của Chính phủ cũng được người dân và chính quyền các địa phương hết sức đồng tình, ủng hộ. Không chỉ ưu tiên dành vaccine cho các điểm nóng về dịch bệnh, nhiều địa phương, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp cũng như người dân trên cả nước còn chung sức, đồng lòng, tích cực đóng góp nhân lực, trang thiết bị y tế, lương thực thực phẩm,… nhằm góp phần chia sẻ khó khăn với những nơi đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh.

   Đáng tiếc là trong bối cảnh đó lại xuất hiện một số cá nhân với tiếng nói lạc điệu, thiếu tinh thần hợp tác, xây dựng đã đưa ra thông tin thiếu chính xác, nhằm xuyên tạc, bịa đặt về tình hình dịch bệnh, gây hoang mang, kích động và chia rẽ xã hội. Đặc biệt, kể từ khi Chiến dịch tiêm vaccine phòng Covid-19 năm 2021 - 2022 được triển khai, một số người đã sử dụng mạng xã hội để công kích, chống phá chính sách vaccine, trong đó có cả một số người nổi tiếng, khiến dư luận rất bất bình.

   Bằng việc đưa lên mạng xã hội các thông tin không chính xác hoặc không thể kiểm chứng về hiệu quả của một số loại vaccine, số người này công khai kích động, phản đối chính sách của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống dịch bệnh, thậm chí kêu gọi tẩy chay loại vaccine mà họ tùy tiện gọi là “đống phế phẩm”, “tồi tệ, không chỉ mang đến khả năng bảo vệ kém cỏi mà còn có thể dẫn đến sự xuất hiện của các biến thể virus mới”, rồi vu cáo “chính quyền coi thường mạng sống, sức khỏe của người dân”! Đó là cách phát ngôn vô trách nhiệm, lừa dối dư luận, bất chấp thực tế đã được đại diện WHO cũng như kết quả thực tế triển khai tại nhiều nước trên thế giới khẳng định.

   Những vaccine hiện được Việt Nam sử dụng đều đã được tổ chức WHO phê duyệt, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang sử dụng các loại vaccine này và đạt kết quả tích cực trong phòng, chống Covid-19. Vì thế, việc làm của một số tổ chức, cá nhân cực đoan, thiếu thiện chí không chỉ gây khó khăn cho công tác phòng, chống dịch đang hết sức căng thẳng mà còn ảnh hưởng tới các quan hệ quốc tế. Thậm chí các thế lực thù địch còn coi đây là cơ hội để vu cáo Nhà nước Việt Nam, kích động thù hằn dân tộc, âm mưu chống phá, lật đổ chế độ.

   Để bảo vệ sức khỏe của cộng đồng, việc tiêm vaccine vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi người dân. Do đó người được ưu tiên tiêm phòng cần hợp tác, nghiêm túc thực hiện theo hướng dẫn, phân bổ của cơ quan chức năng. Chần chừ, so đo, kén chọn vaccine không những dẫn đến nguy cơ bỏ qua cơ hội bảo vệ sức khỏe cho bản thân và gia đình mà còn khiến dịch bệnh ngày càng khó kiểm soát; đồng thời là công dân có trách nhiệm không nên phụ họa theo luận điệu kỳ thị loại vaccine này, cổ xúy loại kia để tránh rơi vào mưu đồ của những kẻ nhỏ nhen, ích kỷ, thiếu thiện chí.

   Chứng kiến sự việc đáng buồn này, độc giả Khôi Nguyên bày tỏ: “nhìn lên sẽ là lựa chọn vaccine này, vaccine nọ, nhưng ngó xuống mới thấy còn vài chục triệu người chờ được tiêm vaccine trong khi virus cứ thầm lặng tấn công chẳng chừa một ai”. Độc giả Nguyên Khánh chia sẻ: “Trong những ngày ở nhà vì giãn cách xã hội, không có thu nhập vì công ty cũng ngừng hoạt động, tôi chưa bao giờ thèm được đi làm đến thế. Trong khi mọi người bàn tán xôn xao vaccine nào mới về, thì tôi chỉ có một suy nghĩ: Loại nào cũng được, chỉ cần được tiêm là mừng lắm rồi. Tôi tin vào sự kiểm chứng của WHO, của những bác sĩ và chuyên gia dịch tễ hàng đầu thế giới”.

   Chính phủ Việt Nam luôn giữ quan điểm nhất quán trong việc tạo điều kiện bình đẳng cho mọi người dân tiếp cận vaccine. Nguồn vaccine chúng ta có được là kết quả từ nỗ lực to lớn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, cũng như nhiều tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.

   Dù là vaccine loại nào, do đâu sản xuất khi nhập về Việt Nam đều được thẩm định kỹ lưỡng, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế nhằm phục vụ kịp thời cho mục tiêu tiêm chủng trên toàn quốc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Việc triển khai tiêm vaccine đến từng cá nhân là phụ thuộc vào lô vaccine nhập về ở thời điểm tiêm, không có sự phân biệt đối xử.

   Những ngày này, việc tiêm phòng vaccine Covid-19 đang được tăng tốc tại nhiều địa phương. Đây là cuộc đua khó khăn để chống lại dịch bệnh nguy hiểm, và luôn cần sự ủng hộ, đoàn kết, đồng lòng của cả dân tộc. Vì như đánh giá của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, đến thời điểm này, chúng ta vẫn kiểm soát được tình hình và nhất định chúng ta sẽ tiếp tục kiểm soát được tình hình nếu cả nước thực hiện nghiêm túc các giải pháp mà Trung ương đã yêu cầu, trong đó có việc thực hiện chính sách vaccine. Sự chậm trễ vì bất cứ lý do nào đều có thể gây ra những hậu quả khó lường, thậm chí chúng ta không có cơ hội để hối tiếc./.

Chiêu bài thông tin của các thế lực thù địch


Hiện nay trên không gian mạng có rất nhiều luồng thông tin khác nhau, đưa người nghe, đọc hiểu những thông tin nhanh, dật gân làm cho một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân dễ lầm tưởng là sự thật và đưa người ta suy nghĩ theo 1 chiều hướng nội dung suy diễn, xuyên tạc từ một số vấn đề có thật trong xã hội; với âm mưu cơ bản xuyên suốt của các thế lực đối với cách mạng nước ta không hề thay đổi: xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Thế nhưng, để biến âm mưu ấy trở thành hiện thực, các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện việc kết hợp “Diễn biến hoà bình” với hậu thuẫn và sự tăng cường liên kết với các lực lượng phản động, chống đối chính trị trong và ngoài nước, triển khai, thực hiện nhiều kế hoạch, hoạt động chống phá, thúc đẩy Việt Nam cải cách theo hướng dân chủ hoá về chính trị, tự do hoá về kinh tế...

Do vậy khi vào môi trường không gian mạng tiếp xúc với nhiều luồng thông tin, thì mỗi chúng ta cần bình tĩnh, suy nghĩ thấu đáo để nói lên tiếng nói xây dựng và chống lại những luận điệu suy diễn, xuyên tạc với mục đích, dụng ý xấu của các thế lực thù địch.

                                                                             TRƯỜNG TỒN

 

Phải xử lý nghiêm người trốn cách ly


Liên quan vấn đề một số cá nhân giấu dịch bệnh Covid-19 đi về từ vùng được cảnh báo, đây là là hành vi đáng lên án, thể hiện sự vô trách nhiệm với gia đình và cộng đồng.

Dịch bệnh Covid-19 là bệnh truyền nhiễm nhóm A. Nhóm bệnh này bao gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỉ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Những người đi về từ vùng dịch, những nơi có dịch cần nhận thức, ý thức cao độ, có trách nhiệm với bản thân, sức khỏe của người thân và cộng đồng. Những hành vi, trốn cách ly cần phải được xử lý. Theo Luật sư Trần Yên Thoa (Đoàn Luật sư TP HCM) phân tích: Người trốn khỏi nơi cách ly mà mang mầm bệnh, lây nhiễm cho người khác còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người khác" có mức phạt tù lên đến 12 năm, phạt tiền từ 20-100 triệu đồng (theo điều 240 Bộ Luật Hình sự). Nếu cơ quan chức năng xác định đối tượng lây nhiễm bệnh sang người khác trong thời gian trốn cách ly thì đối tượng trốn cách ly khó thoát trách nhiệm hình sự.

Cho nên, công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân, để đảm bảo an toàn cho cộng đồng và người thân là rất cần thiết và xử lý nghiêm để răn đe cũng là biện pháp cứng rắn quan trọng trong thời điểm hiện nay./.

TRƯỜNG TỒN

 

Cảnh giác với những thông tin sai lệch

 


Trên mạng xã hội hiện nay có rất nhiều dạng thông tin mang lại sự thuận tiện, lợi ích cho con người, nhưng một số thành phần có mưu đồ xấu lợi dụng các trang mạng xã hội để tuyên truyền những nội dung độc hại, nói xấu Đảng, chống phá Nhà nước ta, gây ra những hệ lụy không nhỏ cho xã hội như là tiêm nhiễm hệ tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, tự do dân chủ quá trớn, sống buông thả vô tổ chức, xem thường pháp luật ... từ những vụ việc sai phạm của cán bộ đảng viên trong thời gian vừa qua, chúng đã đưa ra, nhào nặn, bóp méo và cường điệu hóa sự thật làm cho chúng ta khó có thể nhận ra đâu là sự thật, đâu là sai lệch, gây nên sự hoang mang ở một số bộ phận dân chúng; với dụng ý xấu nhằm quy kết, phủ nhận vai trò và thành quả của Đảng, Nhà nước nói chung và của Quân đội nói riêng.

Khi tham gia mạng xã hội thì chúng ta cần bình tĩnh tiếp nhận và lựa chọn thông tin phù hợp với khả năng của mình, phân tích hiểu rõ những thông tin, nhân diện những thông tin bị bóp méo, sai lệch, cường điệu hóa sự thật và những luận điêu sai trái; mỗi chúng ta có quyền được đọc và phản bác lại những luận điệu đó cũng là trách nhiệm trong xây dựng con người, môi trường xã hội trong sạch, xây dựng đất nước phát triển.

TRƯỜNG TỒN

 

Thứ Hai, 9 tháng 8, 2021

THỦ TƯỚNG: CẤP PHÉP VẮC XIN NANOCOVAX THEO HƯỚNG GIẢM BỚT THỦ TỤC NHƯNG PHẢI ĐÚNG QUY ĐỊNH

 

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Y tế nghiên cứu giảm bớt quy trình, thủ tục hành chính để sớm đưa vào sử dụng vắc xin Nanocovax nhưng phải đảm bảo chặt chẽ theo quy định và thẩm quyền.

Ngày 9/8, theo Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Bộ trưởng Bộ Y tế nghiên cứu, chỉ đạo việc cấp phép và sử dụng vắc xin Nanocovax theo hướng giảm bớt quy trình, thủ tục hành chính, nhưng phải đảm bảo chặt chẽ theo quy định và thẩm quyền.

Chỉ đạo trên được đưa ra sau khi Văn phòng Chính phủ nhận được văn bản ngày 1/8/2021 của GS.TS Nguyễn Gia Bình - Chủ tịch Hội Hồi sức cấp cứu và chống độc Việt Nam, Ủy viên Hội đồng chuyên môn Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe Trung ương, kiến nghị về việc cấp phép sử dụng vắc xin trong tình huống khẩn cấp.

Vắc xin phòng COVID-19 Nanocovax được Công ty cổ phần Công nghệ sinh học dược Nanogen phát triển từ tháng 5/2020, dựa trên công nghệ protein tái tổ hợp. Vắc xin này đã trải qua 2 giai đoạn thử nghiệm lâm sàng, trong đó giai đoạn 1 bắt đầu từ ngày 18/12/2020 và giai đoạn 2 từ ngày 26/2/2021.

Theo TS. Nguyễn Ngô Quang - Phó Cục trưởng Cục Khoa học, công nghệ và đào tạo (Bộ Y tế), vắc xin Nanocovax của Công ty cổ phần Công nghệ sinh học dược Nanogen và Học viện Quân y nghiên cứu đang thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 và đang thực hiện đánh giá 3 yếu tố, gồm: tính an toàn, tính sinh miễn dịch, hiệu lực bảo vệ trên tình nguyện viên Việt Nam từ 18 tuổi trở lên.

Trong đó, giai đoạn 3a tiêm cho 1.000 đối tượng; giai đoạn 3b được tiêm trên 12.000 người. Dự kiến, trước ngày 15/8 sẽ có đánh giá kết quả thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3a.

Trên cơ sở này, các cơ quan liên quan sẽ rà soát để có dữ liệu ban đầu về tính sinh miễn dịch và hiệu lực bảo vệ của vắc xin giai đoạn 3a.

Theo 24h

NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VÀ SỰ THẬT KHÔNG THỂ THAY THẾ

    Việt Nam đã trung thành vận dụng, phát triển sáng tạo phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác trong sự nghiệp đổi mới đất nước và đem lại “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”.

   Tuy nhiên, luôn có các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, bóp méo sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và chất lượng đời sống nhân dân là minh chứng có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất..

   Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn bị các thế lực thù địch chống phá quyết liệt. Đặc biệt là sau khi mô hình Chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ thì có không ít người cho rằng CNXH đã cáo chung, Đảng Cộng sản đã hết vai trò lịch sử, rằng nước ta kiên định đi lên CNXH là sai lầm, là đi vào vết xe đổ. Chúng còn cố tình xuyên tạc CNXH mà Mác nêu ra chỉ là một CNXH không tưởng, không bao giờ thực hiện được, rồi khuyến nghị, khuyên Đảng ta phải đi theo con đường khác, con đường theo mô hình “dân chủ”, thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Nhưng đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản động và phản khoa học.

   Chúng tìm mọi cách bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn lịch sử và hiện tại, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của CNXH đang hiện hữu ở Việt Nam. Mưu đồ trước mắt và lâu dài không thay đổi của các thế lực thù địch, phản động là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ CNXH. Thật đáng buồn là trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, thậm chí có người còn phụ họa với những luận điệu của các thế lực thù địch, công kích, bài bác CNXH, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản.

   Một trong những nội dung thường xuyên được các thế lực thù địch phản động xuyên tạc, bóp méo đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng không có cái gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rồi kinh tế thị trường là của riêng của chủ nghĩa tư bản; họ còn cao giọng rằng kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau, gán ghép xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí và không có cơ sở khoa học.

   Mới đây, một bài viết trên kênh VOA tiếng Việt đã bình luận rằng: Việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là bóp nghẹt kinh tế tư nhân, là không có tự do cạnh tranh! Nhiều phần tử xấu cũng xuyên tạc về mô hình mà Việt Nam lựa chọn để phát triển, cho rằng đây là một khái niệm mơ hồ, không có trong thực tế, nhất là thời điểm chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các thế lực thù địch đã bình luận rằng: "Kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa khác nhau như nước với lửa", rồi "không có nền kinh tế thị trường nào lại có thể kết hợp cùng xã hội chủ nghĩa". Đây là một sự gán ghép khiên cưỡng, kìm hãm thể chế thị trường và kìm hãm cải cách...

   Tuy nhiên, những thành quả phát triển kinh tế trong 35 năm qua của một đất nước đã phải trải qua 3 thập kỷ bị chiến tranh tàn phá và gần 1 thế kỷ bị thực dân đô hộ đã là những minh chứng thuyết phục nhất để bác lại những nhận định bóp méo trên. Các chuyên gia cũng khẳng định: Đưa ra quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá sáng tạo lý luận rất cơ bản của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

   Thực tiễn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết khẳng định vai trò và vị thế của kinh tế tư nhân. Nghị quyết số 10, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Và mới đây, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế”. Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra khoảng 40% GDP, 30% ngân sách Nhà nước và thu hút 85% lực lượng lao động. Những thay đổi trong chủ trương, chính sách đã tạo ra những thành tựu to lớn trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta.

   Kinh tế tư nhân phát triển đã đóng góp rất quan trọng và hiệu quả vào chính sách an sinh xã hội của Nhà nước. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay, nhiều doanh nghiệp tư nhân thể hiện trách nhiệm cộng đồng, xã hội rất lớn, đi tiên phong trong công tác phòng, chống dịch Covid-19... Chỉ trong ngày đầu tiên Chính phủ phát động ủng hộ Quỹ Vaccine phòng, chống Covid-19, các doanh nghiệp tư nhân như: Công ty Golf Long Thành ủng hộ 500 tỷ đồng; Tập đoàn Vingroup 480 tỷ đồng; Tập đoàn Sun Group đã ủng hộ tiền và hiện vật hơn 10 tỉnh, thành phố từ Bắc vào Nam tổng trị giá hơn 700 tỷ đồng, tập đoàn vừa trao tặng thiết bị y tế cho TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam tổng trị giá 80 tỷ đồng.

   Ông Furuta Motoo, Hiệu trưởng Trường Đại học Việt-Nhật, khẳng định: “Quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước phát triển mới về tư duy, một đột phá lý luận rất sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến năm 2045, khi Việt Nam trở thành một nước phát triển có thu nhập cao thì mô hình này không chỉ là của riêng Việt Nam nữa mà đối với cả thế giới nó sẽ trở thành mô hình rất có sức thuyết phục”.

   Việt Nam lựa chọn đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Con đường và cách đi đó thể hiện hiệu quả trên thực tiễn được quốc tế thừa nhận, đánh giá cao. Ông Bruno Angelet, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam khẳng định: “Tham gia đa phương là tất yếu đối với Việt Nam. Ở đó Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều mô hình lãnh đạo tốt, học kinh nghiệm về cách đàm phán các nguyên tắc cơ bản, Việt Nam cũng có thể cam kết sâu hơn vào việc triển khai những nguyên tắc ở cấp độ toàn cầu. Tôi tin tưởng rằng Việt Nam càng tham gia nhiều vào các tổ chức đa phương, Việt Nam càng được hưởng lợi từ đó”.

   Những “thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử” của công cuộc đổi mới 35 năm qua đã minh chứng tính đúng đắn của đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Tăng trưởng trung bình luôn đạt mức 7% mỗi năm; quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 324,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN; thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 và tiếp tục giảm xuống 2,75% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều. Tuổi thọ trung bình của người dân liên tục được nâng lên từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Năm 2019, chỉ số phát triển con người của Việt Nam thuộc nhóm cao nhất của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

   Tổng kết 35 năm đổi mới, 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử này không chỉ là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta mà còn là sự khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”. Cũng tại Đại hội XIII, Đảng ta đã xác định: “Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đồng thời đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với nguyên tắc nhất quán và xuyên suốt được đặt lên hàng đầu và bao trùm lên mọi chủ trương, chính sách đó là tất cả vì lợi ích của nhân dân”.

   Kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên quan điểm thực tiễn, khoa học và phát triển, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo ra những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống "./.

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG BỐI CẢNH MỚI

 

Một là, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thực tiễn như Mác đã từng nói “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(2). Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cũng như vậy, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng được khẳng định bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề của thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nuôi dưỡng, bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là để vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn hằng ngày chính là nguồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, phê phán nền tảng tư tưởng của thế lực thù địch và phản động.

Nhiều nhà tư tưởng phương Tây, từ các góc độ của mình đã tập trung phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh việc thảo luận học thuật, chống lại các luận điệu sai trái, thù địch, việc chống lại các nền tảng tư tưởng của các luận điệu sai trái đó, đấu tranh với các hệ tư tưởng thấm đẫm trong các trào lưu chính trị cũng là một việc làm hết sức quan trọng. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần quan tâm và đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe dọa đến hòa bình và thịnh vượng chung…Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn được đúc kết từ tinh hoa trí tuệ dân tộc và nhân loại, vì vậy phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện nay, để hấp thụ, chuyển hóa và sử dụng những giá trị hợp lý phục vụ cho dân tộc và cộng đồng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời kho tàng trí tuệ nhân loại, không quay lưng với thế giới, không “một mình một kiểu”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không xa lạ với những giá trị của thế giới phương Tây đương đại, như tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,... vì những giá trị này cũng chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin.


NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh diễn ra trong bối cảnh phức tạp, vừa có thuận lợi, vừa không ít khó khăn.

VỀ THUẬN LỢI

Một là, tăng trưởng kinh tế trong những năm qua đã thể hiện rõ nét những thành tựu đổi mới, nâng cao đáng kể chất lượng đời sống nhân dân. Những thành quả của tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã khẳng định đường lối xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy, không có con đường nào chỉ có thuận lợi mà không có khó khăn, hay nói cách khác - không bao giờ có con đường chỉ đầy hoa hồng. Chính vì vậy, không thể vì những khó khăn trước mắt mà hoài nghi con đường chân chính - đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã chọn.

 Hai là, chính trị, xã hội ổn định, dân trí ngày càng cao, các quyền tự do, dân chủ ngày càng được thực hành rộng rãi trong xã hội. Những giá trị này hoàn toàn phù hợp với lý tưởng của Mác, với tâm nguyện của Hồ Chí Minh. Coi trọng tự do và dân chủ, quá trình dân chủ hóa trong Đảng và dân chủ hóa trong xã hội chính là thành công của tất cả cán bộ, đảng viên, của mọi người dân Việt Nam. Đây là nền tảng để có được sự ổn định của đất nước, đại đoàn kết dân tộc, là tiền đề để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Ba là, nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha quan tâm đến tình hình đất nước. Khác với một số xã hội người dân có thể lãnh cảm với chính trị, chỉ quan tâm đến cá nhân mà không quan tâm đến cái chung thì ngược lại, ở Việt Nam trên nhiều phương diện, tinh thần trách nhiệm xã hội của người dân rất cao. Người dân không chỉ biết đến quyền lợi, mà còn thấu hiểu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình; không chỉ biết đến cá nhân mà còn biết đến cộng đồng, đến cái chung; không chỉ quan tâm đến bản thân mình mà còn quan tâm đến người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Mác - Lênin và Hồ Chí Minh.

Bốn là, quá trình hội nhập quốc tế mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới, biết được nhiều kinh nghiệm quốc tế, học được từ nhiều tấm gương của thế giới, tiếp xúc với các hệ giá trị, các tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó vươn lên để khẳng định vị thế Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, rộng mở, bao dung, truyền thống này rất thích hợp với yêu cầu hội nhập của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu bám rễ được ở Việt Nam, hòa quyện với văn hóa Việt Nam chính nhờ tinh thần bao dung này.

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Một là, xây dựng niềm tin tuyệt đối của dân đối với Đảng, đối với chế độ là vấn đề khó khăn. Nguyên nhân trực tiếp của thách thức trên chính là tệ nạn nhóm lợi ích, tham nhũng. Đặc biệt là “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

 Hai là, đã xuất hiện hiện tượng một bộ phận đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân lơi là, thậm chí coi thường việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuất hiện khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến củng cố nền tảng tư tưởng. Tính chiến đấu về mặt tư tưởng chưa được đề cao. Xuất hiện tâm lý ngại đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận. Một số người coi thường lý luận, chỉ quan tâm đến thực tiễn mà không hiểu rằng lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời.

Ba là, sự tấn công của các thế lực thù địch và phản động ngày càng tinh vi hơn. Trước đây, các thế lực thù địch và phản động thường xuyên tạc, phủ nhận trực tiếp nền tảng tư tưởng của Đảng, hoặc tấn công cá nhân, bôi nhọ đời tư các nhà kinh điển và các lãnh tụ thì trong thời gian qua, bên cạnh các phương thức cũ, chúng tấn công về mặt lý luận ngày càng nhiều hơn. Ngày càng có nhiều bài viết dài, sâu, đứng trên lập trường, cách tiếp cận phương Tây, trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ở một mức độ tinh vi hơn, nhiều lý thuyết được dịch, truyền bá vào Việt Nam nhằm pha loãng hoặc nhằm dần thay thế cho hệ tư tưởng chính thống.

Một số kẻ cơ hội chính trị hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa dân chủ xã hội, cho rằng chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải đạt được thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản. Một số người đã phản bác khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa, phản đối chuyên chính vô sản; phê phán những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, như chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị thặng dư,... Một số khác lại cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống chưa hoàn chỉnh, các lý luận về mặt triết học, kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều điểm lạc hậu. Tất cả mưu toan thâm hiểm và tinh vi đó của các thế lực thù địch và phản động cần phải bị bóc trần và đấu tranh ngăn chặn.


BÀI 3. LÀM THẤT BẠI CÁC TIN GIẢ


Mặc dù tin giả xuất hiện từ lâu, ở mọi thời kỳ song những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội thì tin giả cũng xuất hiện ngày càng nhiều và trở thành vấn nạn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bởi vậy, nhận diện tin giả, nguyên nhân xuất hiện và tác hại của nó làm cơ sở nâng cao cảnh giác, chủ động phòng, chống tin giả, góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hiện nay.

Tuy chưa có định nghĩa rõ ràng, thống nhất về tin giả nhưng có thể hiểu tin giả là những thông tin sai, được tán phát dưới vỏ bọc tin tức. Cách hiểu này sát với nghĩa của từ “fake news” trong tiếng Anh, hiện đang được sử dụng nhiều trên truyền thông. Những tin giả kiểu xuyên tạc có ở tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... song chúng thường xuất hiện khi có những sự kiện chính trị, xã hội quan trọng như đại hội đảng, bầu cử, họp Quốc hội, các chính sách, luật pháp mới ban hành, hay các hiện tượng "nóng", gây tranh cãi trong đời sống hiện thực, chẳng hạn thiên tai, dịch bệnh, các vụ việc vi phạm pháp luật... Các sự kiện này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, hình ảnh, video clip nhưng được chỉnh sửa hoặc cắt ghép và thường được đăng tải trên các trang thông tin không chính thống, qua các nền tảng mạng xã hội và các ứng dụng tin nhắn hay các công cụ tìm kiếm trên internet. Động cơ của các đối tượng tán phát tin tức giả loại này có thể vì nhiều mục đích khác nhau như: Tài chính, chính trị, hạ uy tín của cá nhân, tổ chức một cách có chủ đích hay chỉ đơn giản là để trêu đùa, nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng mạng. Tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu cho rằng, động cơ của các đối tượng xây dựng và tán phát tin giả liên quan đến tài chính.

Phòng, chống tin giả trên mạng xã hội

Theo số liệu thống kê, tính đến tháng 1-2020, Việt Nam đã có khoảng 65 triệu người sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để giải trí, liên hệ với bạn bè, chia sẻ khoảnh khắc, mẹo vặt trong cuộc sống và kể cả quảng cáo bán hàng(1). Thống kê của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao cho thấy, từ khi dịch Covid-19 xuất hiện, trên không gian mạng Việt Nam đã có hơn 900.000 thông tin liên quan đến tình hình dịch bệnh. Theo Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, chỉ hơn hai tháng, công an các đơn vị, địa phương trong cả nước đã xác minh, làm việc với gần 700 trường hợp đưa tin sai sự thật; đã có hơn 300 đối tượng trong nước tung tin giả về dịch Covid-19 trên không gian mạng bị cơ quan chức năng xử lý(2). Điều đó cho thấy, tin giả trên không gian mạng là vấn đề rất phức tạp hiện nay.

Có nhiều nguyên nhân làm xuất hiện và lan truyền tin giả. Đối với tin sai lệch, một mặt do sự thiếu cẩn trọng của người tạo và đưa tin trên các phương tiện truyền thông, mặt khác do sự chủ quan, thiếu trách nhiệm của người quản lý khi duyệt và cho phép lưu hành tin. Đối với tin xuyên tạc, sở dĩ loại tin này được tán phát rất nhanh so với khả năng phát hiện, ngăn chặn và xử lý của cơ quan chức năng là do: 1) Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ khiến một người có thể dễ dàng tạo lập một website, một trang blog, fanpage... trên các mạng xã hội mà không phải bỏ ra khoản chi phí nào, dẫn đến làm gia tăng lực lượng tạo dựng, tán phát tin giả và việc kiểm soát các tin giả là vấn đề không đơn giản; 2) cũng do sự phát triển của công nghệ, các đối tượng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sản xuất và tán phát tin giả trực tuyến một cách nhanh chóng song việc phát hiện và xử lý với các đối tượng này đang còn nhiều khó khăn; 3) do những tin giả được chia sẻ rộng rãi trên truyền thông xã hội, sau đó được Google và các công cụ tìm kiếm khác xếp hạng cao giúp chúng được tìm thấy dễ dàng hơn, làm cho các tin giả gia tăng với số lượng lớn và lan truyền nhanh; 4) chính những thông tin sai lệch từ các cơ quan báo chí trên các phương tiện truyền thông là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tin xuyên tạc; 5) từ âm mưu, thủ đoạn lợi dụng mạng xã hội để chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; 6) do mục tiêu trục lợi hoặc quảng bá danh tiếng từ việc "câu like", "câu view" của một số cá nhân, tổ chức và nhận thức, trách nhiệm của người sử dụng mạng xã hội chưa cao trong tiếp nhận và chia sẻ các tin giả; 7) năng lực trong quản lý, phát hiện, ngăn chặn tin giả của các cơ quan chức năng còn hạn chế và các chế tài xử lý với các đối tượng tạo lập và tán phát tin giả còn bất cập...

Tin giả, nhất là tin xuyên tạc được tạo dựng, tán phát từ các cá nhân hay tổ chức trên mạng xã hội liên quan đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đều gây nên những hệ quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân, cộng đồng và văn hóa dân tộc cũng như thái độ, suy nghĩ và quyết định của người dân với nhiều vấn đề của đất nước. Một trong những hệ quả không hề nhỏ mà các tin tức giả gây ra, đó là làm suy giảm niềm tin của công chúng vào truyền thông của đất nước nói chung và báo chí nói riêng, khiến cho công chúng không xác định được đâu là những nguồn tin đáng tin cậy để tiếp nhận... Đáng lưu ý, trong điều kiện các thế lực thù địch, cơ hội, phản động đang triệt để lợi dụng internet và mạng xã hội để tiến hành “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, điều này không chỉ làm gia tăng số lượng tin giả mà tính nguy hại của nó cũng tăng lên...

Từ những vấn đề nêu trên cho thấy, phát hiện, ngăn chặn và phòng, chống tin giả là việc làm cấp bách hiện nay. Để phòng, chống tin giả trên không gian mạng đòi hỏi sự vào cuộc của tất cả các cấp, ngành, các lực lượng cũng như mỗi người dân với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả, trong đó tập trung thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho mọi người dân về tác hại của tin giả cũng như hành vi vi phạm pháp luật trong tạo dựng và tán phát tin giả.

Thực tế cho thấy, ngoại trừ một bộ phận cá nhân, tổ chức cố tình tạo dựng và tán phát tin giả nhằm mục đích tài chính, chính trị, còn đa số cộng đồng mạng tham gia chia sẻ, thậm chí có trường hợp cũng tạo lập và tán phát những thông tin sai lệch song điều này là do tâm lý hiếu kỳ hoặc để thu hút sự chú ý của cư dân mạng. Điều đó cho thấy, đa số người tham gia mạng xã hội chưa hiểu rõ về tác hại của tin giả và những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình tham gia mạng xã hội. Bởi vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục trong nhà trường, gia đình và xã hội về nhận thức, trách nhiệm cho các cá nhân, tổ chức tham gia mạng xã hội. Tập trung giáo dục cho người dân cách thức nhận biết tin giả, nâng cao nhận thức của người tiếp nhận thông tin, biết sàng lọc các nguồn thông tin để tiếp nhận và chia sẻ lại trên các mạng xã hội, đồng thời tránh tung tin thất thiệt vi phạm quy định pháp luật. Đi đôi với việc tăng cường tuyên truyền, giáo dục, cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động đấu tranh để ngăn chặn, đẩy lùi tin giả trên mạng xã hội.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong phòng, chống tin giả.

Thời gian qua, chúng ta đã ban hành Luật An ninh mạng và nhiều nghị định liên quan đến quy định xử lý các hành vi vi phạm về tin giả, gần đây nhất là Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3-2-2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử chính thức có hiệu lực từ ngày 15-4-2020. Điều này góp phần tạo hành lang pháp lý trong quản lý, xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến tin giả. Tuy nhiên, vẫn tồn tại số lượng lớn tin giả trên mạng xã hội, cho thấy tính răn đe của các quy định hiện hành vẫn còn mức độ. Bởi vậy, tiếp tục có những quy định “mạnh tay” hơn để xử lý các đối tượng xây dựng và tán phát tin giả là hết sức cần thiết. Hiện tại, nhiều nước trên thế giới đã ban hành những đạo luật riêng để xử lý tin giả, trong đó Nghị viện Đức ngày 30-6-2017 đã thông qua một dự luật nhằm xử lý các phát ngôn gây thù hận, các tài liệu phạm tội và các tin tức giả trên các mạng xã hội. Theo đó, các nền tảng mạng xã hội phải xóa bỏ các nội dung kể trên trong vòng 24 giờ sau khi nhận được thông báo, nếu không sẽ phải đối mặt với mức phạt lên tới 50 triệu euro.

Ba là, nâng cao năng lực của các cơ quan chức năng và các điều kiện bảo đảm cho phòng, chống tin giả.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng các phương tiện truyền thông và người sử dụng gia tăng, nhất là mạng xã hội, đây là cơ sở, điều kiện để tin giả xuất hiện và lan truyền với tốc độ nhanh, đặc biệt trước âm mưu, thủ đoạn lợi dụng mạng xã hội để chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, đòi hỏi các cơ quan chức năng phải chú trọng nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, đồng thời phải đầu tư trang thiết bị, công nghệ đủ để phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý kịp thời tin giả cũng như các đối tượng tạo lập, tán phát tin giả, tránh để bị động dẫn đến hậu quả không mong muốn.

Bốn là, tăng cường thông tin chính thống, bảo đảm chính xác, kịp thời, góp phần ngăn chặn tin giả.

Cùng với việc giáo dục, nâng cao nhận thức của người tiếp nhận thông tin, các cơ quan truyền thông, báo chí cần đẩy mạnh các nội dung thông tin, bảo đảm kịp thời, chính xác, nhất là trước các vụ việc, sự kiện “nóng”, được dư luận đặc biệt quan tâm. Qua đó định hướng, dẫn dắt thông tin đúng trên mạng xã hội, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tin giả, tin tiêu cực. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí một mặt cần làm tốt việc bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực cho đội ngũ phóng viên, mặt khác nêu cao trách nhiệm trong quản lý, kiểm tra, xét duyệt chặt chẽ các thông tin trước khi cho đăng tải, tránh xảy ra những sai sót để các đối tượng lợi dụng tán phát tin giả.

Năm là, phối hợp chặt chẽ với các nhà mạng trong quản lý, xử lý tin giả.

Trước nhiều chỉ trích của các quốc gia, trong đó có Việt Nam về sự thiếu quan tâm của các nhà mạng đối với vấn nạn tin giả, gần đây, quản lý một số mạng xã hội, công cụ tìm kiếm như: Facebook, YouTube, Google,... đã đưa ra cam kết và thực hiện một số biện pháp nhằm chống lại thông tin giả mạo được chia sẻ trên các nền tảng của mình. Điều này được đánh giá là bước tiến lớn trong việc đẩy lùi nạn tin giả của các mạng xã hội. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng của Việt Nam cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ và có các biện pháp kiên quyết hơn để các nhà mạng phải vào cuộc một cách thực sự trong việc ngăn chặn, phát hiện và kịp thời gỡ bỏ, không để tin giả lan truyền trên mạng xã hội, gây ảnh hưởng lớn đến an ninh mạng nói riêng và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước nói chung, nhất là trong dịp diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng. VNĐ


Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cho Tổng khởi nghĩa thành công


Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của LLVT, gồm các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu đã trở thành một trong những lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trong cả nước.

Căn cứ vào điều kiện đất nước ta bị thực dân Pháp áp bức bóc lột nặng nề, Đảng ta mới ra đời đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chính trị là phải “tổ chức đội tự vệ của công nông”. Theo chủ trương đó, trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh, nhiều đội tự vệ công nông (Tự vệ đỏ) lần lượt ra đời ở cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935) đã ra nghị quyết về Đội tự vệ, xác định những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của đội tự vệ, cơ sở đầu tiên để xây dựng LLVT cách mạng của Đảng.

Vào những năm trực tiếp chuẩn bị khởi nghĩa, giành chính quyền, một số đội du kích, tự vệ chiến đấu lần lượt hình thành ở những nơi có phong trào cách mạng, kể cả miền núi, trung du và đồng bằng. Trên cơ sở quân du kích hình thành trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Đảng quyết định thành lập Đội du kích Bắc Sơn (2-1941). Tại các tỉnh Nam Kỳ, quân du kích ra đời, phát triển trong quá trình chuẩn bị và tiến hành khởi nghĩa Nam Kỳ (11-1940). Đó là những đội du kích tập trung làm nòng cốt cho nhân dân xây dựng và chiến đấu bảo vệ các khu căn cứ, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích tại các huyện, xã.

Đội du kích Bắc Sơn đã qua rèn luyện, thử thách trong cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng tăng cường cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, chấn chỉnh tổ chức và đổi tên thành Trung đội Cứu quốc quân 1 (sau Hội nghị Trung ương 8), sau đó lần lượt tổ chức Trung đội Cứu quốc quân 2 (9-1941) và Trung đội Cứu quốc quân 3 (2-1944). Phương châm xây dựng, hoạt động của Cứu quốc quân là vừa chiến đấu để bảo vệ, vừa mở rộng, phát triển và củng cố khu căn cứ.

Trên cơ sở Cứu quốc quân và các đội du kích, tự vệ chiến đấu phát triển ở các chiến khu Cao-Bắc-Lạng, Thái-Hà-Tuyên, để có một lực lượng chủ lực làm nòng cốt thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ hơn, ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, theo chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh. Với việc thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã đánh dấu bước phát triển về tổ chức của LLVT cách mạng, gồm ba thứ quân bước đầu hình thành: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực; đội du kích tập trung của các tỉnh, huyện và lực lượng tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu ở khắp các làng xã.

Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), cùng với sự phát triển của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân, hàng loạt đội du kích, tự vệ chiến đấu tiếp tục hình thành ở các chiến khu, các căn cứ cách mạng trong cả nước. Điển hình là Đội du kích Ba Tơ hình thành trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (3-1945), Trung đội giải phóng quân ra đời ở chiến khu Quang Trung và Du kích cách mạng quân hình thành ở chiến khu Trần Hưng Đạo. Các đội vũ trang này ngày càng phát triển trong cao trào chống Nhật, cứu nước.

Để chuẩn bị một LLVT quy mô tổ chức lớn đón thời cơ chuyển lên Tổng khởi nghĩa, Đảng gấp rút phát triển đội quân chủ lực, thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với Cứu quốc quân và các đơn vị vũ trang cách mạng thành Việt Nam Giải phóng quân (15-5-1945). Sự ra đời của Việt Nam Giải phóng quân đánh dấu bước phát triển về quy mô tổ chức của LLVT cách mạng của Đảng, gồm ba thứ quân cơ bản được hình thành, trong đó các đơn vị Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp thành bộ đội chủ lực giải phóng quân; các đơn vị du kích tập trung của các tỉnh, huyện chuyển thành giải phóng quân địa phương và các đội du kích, tự vệ tổ chức ở các căn cứ vũ trang, từ miền Bắc vào miền Trung đến tận miền Nam.

Thực hiện mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh và đồng chí Hồ Chí Minh, Việt Nam Giải phóng quân cùng các đội du kích, tự vệ chiến đấu trở thành lực lượng quân sự quan trọng, cùng toàn dân tiến hành khởi nghĩa. Từ ngày 14 đến 18-8-1945, LLVT hỗ trợ nhân dân nhiều địa phương tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền ở các xã, huyện, tiến lên giải phóng thị xã. Từ ngày 16 đến 20-8, các đơn vị Việt Nam Giải phóng quân tiến đánh giải phóng các thị xã (nay là thành phố) Thái Nguyên, Tuyên Quang. Đặc biệt, thắng lợi của khởi nghĩa ở các thành phố lớn Hà Nội (19-8), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) đã đập tan sức kháng cự của quân Nhật và bọn tay sai, góp phần tác động mạnh tới các địa phương cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Đến ngày 28-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước cơ bản hoàn thành.

Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 khẳng định, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đúng đắn và chỉ đạo xây dựng, phát triển LLVT với quy mô tổ chức, mở đầu từ các đội tự vệ công nông, đội du kích, tự vệ chiến đấu, Cứu quốc quân đến đội quân chủ lực, tiến tới hình thành LLVT ba thứ quân. Đồng thời, tổ chức, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả vai trò nòng cốt của LLVT, cùng toàn dân chuyển từ khởi nghĩa từng phần giành chính quyền ở các địa phương, phát triển thành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc.