Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2022
CÓ THỰC SỰ NHÀ TRƯỜNG TỔ CHỨC LỄ TỐT NGHIỆP LÀ CHUYÊN NGHIỆP VÀ ĐẲNG CẤP?
GÁC LẠI CÙNG HỢP TÁC NHƯNG KHÔNG LÃNG QUÊN
Có ai đó đã nói rằng:
“Nếu muốn biết chiến tranh đáng sợ như thế nào, hãy hỏi những người Việt Nam.
Nếu muốn tìm đến một quốc gia trân trọng hòa bình đến cỡ nào, hãy đến Việt
Nam”.
Lịch sử Việt Nam là
lịch sử của những cuộc chiến tranh. Trong thời phong kiến, sau mỗi cuộc chiến
với người hàng xóm phương Bắc thì triều đình nước ta đều cử sứ thần sang triều
cống, thiết lập lại mối quan hệ bình thường, mong cho người dân hai nước sống
trong hòa bình, thịnh vượng và phát triển. Các cụ có câu: “Tránh voi chẳng xấu
mặt nào”. Nhưng, không có nghĩa là những cuộc chiến ấy bị lãng quên.
Trong mối quan hệ với
Hoa Kỳ, Việt Nam cũng giữ vững tinh thần ấy, một tinh thần gác lại lịch sử để
cùng hợp tác, nhưng không lãng quên.
Bên lề những thông
tin Việt Nam - Hoa Kỳ hợp tác về nhiều mặt như kinh tế, năng lượng, biến đổi
khí hậu, chính sách công… thì Việt Nam vẫn khéo lẽo nhắc lại những biến cố lịch
sử đã qua của hai quốc gia. Nhắc lại để làm gì? Để 2 quốc gia cùng rút ra bài học
rằng, dù đã từng đối đầu nhưng không có nghĩa là mãi mãi đối đầu, dù từng uýnh
nhau “sứt đầu mẻ trán” nhưng không có nghĩa là vĩnh viễn không thể làm bạn.
Ví dụ như khởi đầu
chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính, Thông tin Chính phủ nhắc lại một sự kiện
đã diễn ra cách đây 77 năm, đó là sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Tổng
thống Harry Truman vào ngày 16/02/1946 bày tỏ mong muốn độc lập dân tộc và sẵn
sàng cho việc hai quốc gia thiết lập quan hệ toàn diện. Mong muốn hòa hợp, hòa
bình của Việt Nam đã có từ rất lâu rồi chứ không phải là mới đây. Việt Nam tiếp
tục củng cố mong muốn ấy một lần nữa khi Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm tượng
đài Tổng thống Thomas Jefferson - tác giả của bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước
Mỹ, một tư liệu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn nguồn trong “Tuyên ngôn độc lập”
đọc tại Quảng trường Ba Đình vào 02/09/1945.
Một thông tin khác
cùng thời điểm chuyến đi trên, đó là thông tin các lãnh đạo cấp cao Việt Nam
tham gia khánh thành nghĩa trang Hàng Keo và thăm nghĩa trang Hàng Dương ở Côn
Đảo. Bất cứ một người Việt Nam yêu lịch sử nào cũng biết về “địa ngục trần
gian” Côn Đảo - nơi có hàng ngàn liệt sĩ Việt Nam đã hy sinh trong hai cuộc
kháng chiến. Không rõ là vô tình hay cố ý, nhưng có thể là một thông điệp ngoại
giao đầy khéo léo, nhắc lại những bi thương trong quá khứ, khẳng định tinh thần
đấu tranh hết mình vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Chưa hết, Thông tin
Chính phủ đăng bài viết cho biết Việt Nam còn 200 ngàn liệt sĩ chưa tìm được
hài cốt, phía Hoa Kỳ cũng còn nhiều quân nhân mất tích. Và hai quốc gia đang
hợp tác từng giây phút, từng ngày tháng, cùng chia sẻ thông tin và cùng tìm
kiếm. Đây là một nỗ lực cùng nhau giải quyết hậu quả chiến tranh, thể hiện tinh
thần nhân đạo của cả hai quốc gia. Cuối dòng thông tin này, là lời đề nghị Hoa
Kỳ giải quyết hậu quả chiến tranh với 3 triệu người dân Việt Nam bị ảnh hưởng
bởi chất độc da cam, rà phá bom mìn, tẩy sạch chất độc. Hãy chú ý vào cụm từ
“đề nghị” chứ không phải là “mong muốn” hoặc “đề xuất” - cụm từ “đề nghị” mang
một tâm thế ngang bằng, sòng phẳng. Thông tin trên là một lời nhắc về những hậu
quả chiến tranh mà Hoa Kỳ đã gây ra với người dân Việt Nam. Và dĩ nhiên, hai
quốc gia đã, đang và sẽ cùng khắc phục, cùng hợp tác, cùng xóa đi đau thương
chứ không phải chỉ là trách từ một bên. Muốn đi nhanh hãy đi một mình muốn đi
xa hãy đi cùng nhau…!
Lịch sử giữa 2 quốc
gia từng là đau thương, là mất mát, là tàn phá, là hy sinh, là mâu thuẫn. Và
Việt Nam cũng muốn thể hiện rằng, lịch sử cũng có thể là hòa hợp, hợp tác, từ
những gì đã qua, phải ghi nhớ và cùng rút ra bài học.
Nếu muốn biết rằng có
một quốc gia sẵn sàng gác lại những mâu thuẫn để cùng phát triển, đáp án là
Việt Nam.
—
tifosi
ĐỪNG ĐỂ BỊ LỪA KHI TIẾP CẬN CÁC
THÔNG TIN TRÊN TRANG MẠNG
÷÷÷///////÷÷÷
Mới đây, trên các trang phản động
như Việt Tân đang đăng tải một hình ảnh được cho là bản sao của công trình luận
văn tốt nghiệp của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và cho rằng tổng bí thư của
chúng ta chưa tốt nghiệp đại học.Có thể thấy, chúng đang lợi dụng một bản sao
để kết luận về bác Trọng một cách xuyên tạc trắng trợn.
Nếu nhìn bằng mắt thường thì ai
cũng có thể nhận ra bản sao trên chắc chắn không phải được in vào năm 1967 mà ít
nhất cũng phải hơn chục năm sau đó bởi chữ in trên bản sao thuộc nhiều font chữ
khác nhau mà thời đó chưa có, chưa kể tới việc đây là chữ in của máy in.
Bên cạnh đó, Việt Tân còn lấy dẫn
chứng từ một nguồn mà ai cũng biết là không đáng tin cậy là Wiki, một mã nguồn
mở ai cũng có thể chỉnh sửa.Chúng xuyên tạc Gs Khánh được phong Gs năm 1980 thì
không thể để trên bản sao là Gs vào năm 1967 được.
Trên thực tế, ngày 11 tháng 9 năm
1976, 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu đã được nhà nước phong hàm giáo sư đầu
tiên của Việt Nam, trong đó không có Gs Đinh Gia Khánh. Nhưng đối với bản sao
trên, thì việc để học hàm của Gs Đinh Gia Khánh là Giáo sư là điều hoàn toàn
bình thường bởi ông đã được phong Gs năm 1980.
Tóm lại, thông tin trên chưa được
kiểm chứng và chúng ta có thể thấy nhiều hạt sạn trong luận điệu của các đối
tượng, bài viết của chúng sặc mùi quy chụp và một chiều. Mọi người hãy cảnh
giác, kiểm chứng thông tin trước khi nghe theo các đối tượng xấu.
NGẠI PHÊ BÌNH, GÓP Ý - KHÔNG CHỈ LÀ SUY THOÁI...
Thời gian qua, khá nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật và pháp luật, phải xử lý nghiêm khắc. Điều rất đáng báo động là, đa số những người này có vi phạm kéo dài, thậm chí suốt vài năm và với nhiều hành vi, thế nhưng cấp ủy, chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác lại “không biết”, hoặc biết rõ nhưng...“mũ ni che tai”!
1. “Ông ấy bây giờ mới bị xử lý là quá muộn”; “Vi phạm lâu rồi, bây giờ cấp trên mới biết thôi”; “Nhiều người trong cơ quan biết sếp vi phạm nhưng sợ “đấu tranh, tránh đâu”...
Không ít lần tôi được nghe như thế khi hỏi chuyện những người quen ở cơ quan, đơn vị, địa phương có cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật.
Ví dụ thì rất nhiều và có lẽ cũng chẳng cần nêu ra. Chỉ riêng những kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay đã cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng từ lâu, chủ yếu là: Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát dẫn đến gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước; suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản; tham nhũng... Những vi phạm này, không thể nói là các đồng chí trong cấp ủy, ban lãnh đạo và chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác với cán bộ, đảng viên đó đều... không biết!
Bên cạnh những vi phạm nghiêm trọng, khá nhiều cán bộ, đảng viên có những khuyết điểm, như: Độc đoán, gia trưởng, tham gia tệ nạn xã hội, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu... Đồng chí, đồng đội, nhân viên là những người trực tiếp chịu tác động hoặc được chứng kiến, nhưng vẫn không mạnh dạn góp ý, phê bình!
Chính vì không được thẳng thắn góp ý, phê phán nên những cán bộ, đảng viên đó càng “tự tung tự tác”, “cái sảy nảy cái ung”, vi phạm tăng thêm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng
Ngoài những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không phê bình, ngại góp ý với đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp, nhất là với cấp trên, như: Sợ mất lòng, sợ bị trù dập, quy chụp là gây mất đoàn kết; vì cùng có chung lợi ích; hoặc đơn giản là tâm lý “an phận thủ thường”, sợ bị hiểu sai... thì lâu nay, không ít cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có quan điểm “việc ai nấy làm”, không tham gia vào công việc và cuộc sống của người khác. Sự thờ ơ, vô cảm trước những việc sai trái, biết rõ những sai phạm, khuyết điểm của đồng nghiệp, đồng chí, đồng đội mà không thẳng thắn góp ý, phê bình đã dẫn đến nhiều hệ lụy: Cán bộ, đảng viên tiếp tục vi phạm, làm suy yếu tổ chức, ảnh hưởng sự trong sạch vững mạnh và uy tín của Đảng.
2. “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau...” và “đoàn kết xuôi chiều” là một trong những biểu hiện của sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ.
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) của Đảng thẳng thắn đánh giá: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm...
Để thực hiện mục tiêu kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã xác định nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; trong đó nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, nhất là cấp ủy, thường vụ cấp ủy, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Bên cạnh đó, chú trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện từ nội bộ để chấn chỉnh ngay những vi phạm từ khi mới phát sinh, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm, sai phạm lớn.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng với rất nhiều giải pháp, nhưng quan trọng nhất, theo Người, trước hết là phải “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (bài báo Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng). Muốn thực hiện được điều này, Người chỉ rõ: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Ðảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”...
Bác Hồ nhấn mạnh “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc” vì tất cả hoạt động của chi bộ chủ yếu được thông qua sinh hoạt với 3 hình thức: Sinh hoạt lãnh đạo; sinh hoạt học tập; sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Mỗi hình thức sinh hoạt có yêu cầu riêng, nhưng đều phải có tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, trên cơ sở thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đó là: Tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình.
Thế nhưng, tình trạng ngại phê bình, “ngại nói thật” trong sinh hoạt chi bộ và cả sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ vẫn khá phổ biến. Đây là nguyên nhân cơ bản làm mất tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, dẫn đến không kịp thời ngăn ngừa những vi phạm của cán bộ, đảng viên, để xảy ra sai phạm kéo dài và nghiêm trọng. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên có sai phạm mà vẫn được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ và đề nghị khen thưởng, bổ nhiệm.
Thật đáng buồn khi hầu hết các vụ việc cán bộ, đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống, kỷ luật, pháp luật, nhất là tham nhũng... đều do quần chúng nhân dân, báo chí hoặc cơ quan chức năng cấp trên phát hiện. Trong khi đó, chi bộ, cấp ủy là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và tiến hành kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên; người cùng chi bộ, cùng cơ quan thường xuyên gần gũi, công tác, hiểu hết tính cách cũng như những việc làm của nhau-như “cùng nằm trong chăn mà lại... không biết chăn có rận”!?
Rõ ràng, việc cần làm ngay là phải quy trách nhiệm, xử lý kỷ luật nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên cùng sinh hoạt trong cấp ủy, chi bộ mà không phê bình, góp ý, để đồng chí, đồng đội vi phạm pháp luật, kỷ luật, nhất là với những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài (như Bộ luật Hình sự đã quy định tội danh “không tố giác tội phạm” và “che giấu tội phạm”). Bên cạnh đó, cần ban hành quy định bình xét cán bộ, đảng viên theo thang điểm 10 trên từng nội dung, trong đó có tinh thần tự phê bình và phê bình...; đồng thời xếp loại cán bộ, đảng viên trong từng chi bộ theo số thứ tự (từ tốt nhất đến yếu nhất) để tăng tính đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng, bảo đảm kết quả bình xét thực chất hơn, tránh tình trạng "tạo điều kiện cho nhau cùng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng “dĩ hòa vi quý”, nể nang, né tránh, thấy sai không đấu tranh.
3. “Tôi vô cùng cảm ơn anh đã rất kiên trì, dũng cảm, chân thành góp ý, giúp tôi sửa được tính nóng nảy, gia trưởng, đồng thời biết tôn trọng, lắng nghe cấp dưới. Nếu không, sai lầm của tôi không chỉ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà tôi còn mất hết tình cảm đồng đội, bạn bè”.
Hầu như lần nào làm nhiệm vụ lái xe “tháp tùng” bố đi dự gặp mặt hội truyền thống của đơn vị cũ, tôi cũng được nghe một bác nguyên là trung đoàn trưởng nói với bố tôi như vậy.
Chuyện là, thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, bố tôi là trợ lý tác
chiến trung đoàn. Thấy đồng chí trung đoàn trưởng nóng tính, “quân phiệt
miệng”, thường xuyên quát mắng cấp dưới khiến anh em vừa sợ vừa không hài lòng
nên trong các cuộc họp chẳng ai ý kiến gì, nhưng khi ra ngoài thì xì xào với
nhau; sau hai lần chân thành góp ý nhưng bị trung đoàn trưởng gạt phăng, bố tôi
đã định “mặc kệ”. Nhưng một hôm, nghe các tiểu đoàn trưởng và sĩ quan tham mưu
bàn tán rằng phương án tác chiến do trung đoàn trưởng quyết định không hợp lý,
dễ bị thất bại, bố tôi cũng thấy như vậy nên quyết định phải ý kiến với thủ
trưởng.
“Được nhận” những lời khó nghe, bố tôi ức chảy nước mắt, chạy về hầm. Không
thể để một quyết định nặng tính chủ quan, sai lầm có thể dẫn đến “nướng quân”,
bố tôi quyết tâm viết thư gửi trung đoàn trưởng. Lá thư đó rất dài, ngoài nêu
những bất hợp lý của phương án tác chiến còn góp ý riêng với thủ trưởng cần bỏ
tính gia trưởng, “quân phiệt miệng” khiến cấp dưới ức chế và không thể phát huy
dân chủ trong đơn vị, thậm chí cán bộ, chiến sĩ chán nản... Cuối thư, bố tôi
mạnh dạn viết: Nếu trung đoàn trưởng không tiếp thu phê bình và chỉnh sửa thì
tôi sẽ viết thư gửi chỉ huy sư đoàn. Còn nếu tôi sai thì tôi xin hoàn toàn chịu
kỷ luật!
Thật may, lá thư này đã khiến đồng chí trung đoàn trưởng thay đổi. Ông gọi bố tôi lên nói lời cảm ơn...
“Phê bình cho đúng để trị bệnh cứu người” là tư tưởng có tính nhân văn rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ: Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng khác nào có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh tình lại càng nặng thêm. Do vậy, đối với đảng viên, cán bộ mà nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc thì khác nào thấy đồng chí mình ốm mà không chữa cho họ... Biết người ta sai mà không nói cho người ta sửa tức là hại người. Tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Càng yêu thương thì càng phải thẳng thắn phê bình, có như vậy mới thực sự giúp nhau tiến bộ.
Cổ nhân cũng đã đúc rút: Những người chân thành, mạnh dạn phê bình bạn chính là người bạn tốt và điều gì xuất phát từ trái tim sẽ đi tới được trái tim. Ngược lại, những ai biết rõ bạn đang làm sai mà không khuyên can thì đó chính là người xấu.
Có thể khẳng định, việc chân thành, thẳng thắn phê bình, góp ý không chỉ là
yêu cầu có tính nguyên tắc trong sinh hoạt đảng và các tổ chức thuộc hệ thống
chính trị mà còn thể hiện tình người sâu sắc, nhân văn. Việc biết đồng chí,
đồng đội đang mắc khuyết điểm, lầm đường lạc lối mà vẫn “mũ ni che tai” chính
là làm hại tổ chức và đồng chí, đồng đội. “Tội” này cần phải kiên quyết đấu
tranh, phê phán, cả trong công tác và trong cuộc sống đời thường.
CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN KhÔNG THỂ LỖI THỜI
Hầu hết những người phủ
nhận chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn thường lập luận, thế giới ngày nay đã phát triển
vượt bậc, mọi thứ đều đã khác, hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thay đổi nhiều đến
mức không còn nhận biết được so với hệ thống tư bản chủ nghĩa thời C.Mác nghiên
cứu, do đó chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, tư tưởng của C.Mác không còn phù
hợp! Nhưng những lời chống đối ấy đã cố tình lờ đi sự thật là: Chủ nghĩa Mác -
Lênin là sự phê phán sâu sắc nhất, khoa học nhất đối với những bất công, bất
bình đẳng. Đó là hệ tư tưởng phản biện duy nhất đã và đang làm thay đổi thế
giới theo hướng ngày càng công bằng và tốt đẹp hơn. Cũng có nghĩa, chừng nào xã
hội hiện đại còn có những bế tắc, khủng hoảng thì chừng đó chủ Nghĩa Mác -
Lênin vẫn tồn tại và phát triển cấp tiến hơn. Một điều chắc chắn là các thế hệ
tiếp nối tư tưởng đương nhiên sẽ làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi
thời.
Chúng ta thấy rằng, những
điều tưởng như hiển nhiên trong cuộc sống của loài người hôm nay như: trẻ em
được đến trường chứ không phải đi làm; phụ nữ được giải phóng và bình đẳng với
nam giới; người lao động làm việc 8h một ngày, thời gian rảnh không bị ai quản
thúc; y tế được chăm sóc toàn dân; giáo dục được phổ cập; người nghèo được quan
tâm, người có hoàn cảnh đặc biệt được chia sẻ...tất cả những điều tưởng chừng
như hiển nhiên hôm nay không phải ngẫu nhiên có được mà chính sự thật là nhờ sự
thức tỉnh được chỉ ra từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta phải biết
ơn Mác và những nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi chính họ mang đến, gieo
mầm để những sự thật tốt đẹp đó từng ngày hiển hiện khắp hành tinh.
Khác với tất cả các học thuyết
trước đó hoàn toàn chỉ là nhận thức thế giới, với chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề
không chỉ có nhận thức, mà điều quan trọng phải là cải tạo thế giới, nghĩa là
làm cho thế giới thay đổi, làm cho thế giới tốt đẹp hơn. C.Mác luôn ý thức được
bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông phản
bác. Chính nhờ C.Mác mà loài người có được những khái niệm về các hình thái
lịch sử khác nhau đã song hành hoặc kế tục nhau tồn tại của tư bản: tư bản
thương mại, tư bản nông nghiệp, tư bản công nghiệp, tư bản độc quyền, tư bản
tài chính, đế quốc… C. Mác còn nhìn thấy trước được cái mà giờ đây chúng ta gọi
là “toàn cầu hóa”.
Sự thật là, tại thời điểm
C.Mác và Ph.Ăngghen viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản, ở khắp Châu Âu và Hoa Kỳ,
trẻ em từ 5 đến 14 tuổi phải làm việc phổ biến trong các ngành nông nghiệp, nhà
máy, hầm mỏ hay bán báo, thậm chí phải làm đến 12h/ngày. Tuyên ngôn Cộng sản
của C.Mác và Ph.Ăngghen đã không khoan nhượng tình trạng ấy, các ông yêu cầu
giáo dục miễn phí cho trẻ em trong các trường học công và xóa bỏ bóc lột trẻ em
trong các nhà máy. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã khởi xướng và bắt nhịp cho
dàn đồng ca khắp thế giới để ngăn chặn chấp dứt lao động trẻ em và đưa trẻ đến
trường. Cũng chính ở thời điểm đó, người phụ nữ ở Mỹ và các nước Châu Âu vốn có
địa vị thấp kém hơn so với đàn ông, họ bị coi như nô lệ trong gia đình, thậm chí
bị coi như là một món món hàng để giới tư sản mua bán, trao đổi, quyền công dân
của họ bị tước bỏ, không được bỏ phiếu bầu cử và cũng chẳng được tham gia bất
cứ hoạt động chính trị nào. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tố cáo gay gắt sự bất công
ấy, nhưng quan trong hơn, các ông không chỉ vách trần nguồn gốc sự bóc lột tư
bản đối với nữ giới mà còn chỉ ra con đường giải phong phụ nữ thành công. Đó là
một tầm cao mà tại thời điểm đó tư tưởng nhân loại chưa thể vươn tới.
Đối với nhân loại cần lao, quyền
bình đẳng là cái mà họ phải phấn đấu đấu tranh cả đời, nên ai ai cũng rất hiểu
và thấm thía. Khi ấy giới tư bản chỉ tập trung làm giầu trong một số ít giai
cấp tư sản, còn đại bộ phận nhân dân không được bảo vệ trước áp bức, bất công.
Nơi nào có áp bức tất yếu nơi đó có đấu tranh. Dự báo của C.Mác về việc đấu
tranh rút ngăn thời gian lao động từ 14, 15h/ngày xuống còn 8h/ngày trở thành
mục tiêu quan trọng được tuyên bố trong Quốc tế Cộng sản I, sau này tiếp tục
được nêu trong Quốc tế Cộng sản II để rồi từ ngày 1/5/1890, Quốc tế lao động
đầu tiên ra đời với quy mô toàn thế giới cùng hiệp lực, cùng đấu tranh đã biến
ngày làm 8h thành hiện thực.
Có lẽ chính bởi sự vạch trần và
phê phán gay gắt, quyết liệt đến tận cốt tử về bản chất của CNTB nên CNTB trở
lên thù hận Chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí họ còn ngông cuồng coi đó như là
một bóng ma cần phải trừ khử. Thế nhưng chính sự phê phán của Chủ nghĩa Mác -
Lênin đã khiến CNTB tự biến đổi, tự sửa chữa những sai lầm của mình như, xây
dựng các nhà nước phúc lợi hay tìm cách thu hẹp khoảng cách giầu nghèo nhằm
điều hòa mâu thuẫn xã hội, mâu thuấn giai cấp. Thực tế CNTB không phải đi từ tờ
giấy trắng để có sự tốt đẹp. Để có thành tựu hôm nay, CNTB đã để lại trên con
đường đi của mình biết bao mồ hôi, xương máu của con người. Biết bao người da
đen, da đỏ, da vàng đã phải bị giết chóc, tù đầy, biết bao người lao động đã bị
hành hạ, bóc lột đến tận xương tủy…để họ xây dựng chế độ như ngày nay?
Jacques Derrida, một nhà triết
học người Pháp viết trong tác phẩm “Những bóng ma của Mác” cho rằng: "con
người trong xã hội hiện đại, dù là những người theo Chủ nghĩa Mác - Lênin hay
những người phê phán C.Mác cũng gắn chặt với C.Mác. Sẽ không thể có tương lai
nếu không có các di sản của C.Mác". Ông khẳng định: “cần phải trở về với
Mác để chống lại cái "trật tự thế giới mới" của thị trường tư bản chủ
nghĩa”. Còn Tery Eagleton, giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaste Vương quốc
Anh thì viết trong cuốn “Vì sao Mác đúng?” rằng: "Chủ nghĩa Mác giống như
bác sỹ, khi mà cơ thể khỏe mạnh sẽ không để ý, song một khi CNTB gặp vấn đề
nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn có của mình.
Chính Mác đã thúc đẩy những thay đỏi tích cực của các nước tư bản". Đối
với các đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng dân chủ xã hội và loài người tiến
bộ, hàng tỉ người trên khắp thế giới vẫn khẳng định học thuyết của C.Mác có giá
trị thời đại, vững bền.
Linh hồn và sự sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin chính là phương pháp luận, những đòi hỏi đổi mới và sáng tạo không
ngừng. Nhưng nguyên lý này không chỉ đúng trong thế kỷ trước, trong thế kỷ này
mà còn đúng cho những thế kỷ sau, vì đó là những quy luật khách quan. Một số
người chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ tập trung phê phán 3 người sáng lập
C.Mác, Ph.Ăngghen, VI. Lênin mà tách rời tư tưởng hoặc tìm cách đối lập tư
tưởng của họ với những người tiếp nối về sau. Họ cố tình lời đi sự phát triển
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hơn một thế kỷ qua mà chỉ nhằm vào mục tiêu
chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, giáo điều, hay xa rời thực tiễn.
Cách suy luận siêu hình đó tất yếu sai lầm. Tiếp nối C.Mác, VI.Lênin khắp thế
giới có nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất. Ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Minh không
chỉ vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam mà còn cống
hiến, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên những tư tưởng tầm vóc lịch sử,
những cuộc cách mạng chấn động địa cầu, đẩy lùi chiến tranh xâm lược của Đế
quốc, thực dân, những nô dịch, áp bức, bất công để thiết lập lên nền tảng của
cuộc sống độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Tiếp sau Hồ Chí
Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công hơn 30 năm đổi mới tạo ra
sự biến đổi về chất, từ một đất nước bị bóc lột, tàn phá đến quyệt quệ, bị cô
lập, chống phá quyết liệt sau chiến tranh thành quốc gia tự tin hội nhập cùng
thế giới. Bởi vậy, chính sự nối tiếp một cách biện chứng và bản chất sáng tạo,
luôn phát triển của mình làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời hay
lạc hậu.
Sức sống của chủ nghĩa Mác -
Lênin không chỉ bởi tính lôgic, khoa học mà còn tính nhân văn, nhân bản trong
mục tiêu, đích đến. Giá trị thời đại trong chủ nghĩa Mác chính là sự hiện tồn
những giá trị tốt đẹp của CNXH. CNXH liệu có xa xôi đến mức không tưởng? Thực
ra không cần tìm kiếm đâu xa, chỉ nhìn rất gần xung quanh chúng ta, rất nhiều
người dù thành đạt hay chưa thành đạt lắm vẫn dành thời gian đều đặn tham gia
nấu những bữa cơm cho người bệnh, vui vẻ chung tay xây dựng những chương trình
từ thiện, lo những xuất ăn cho người nghèo… Dù là chủ doanh nghiệp hay cán bộ,
nhân viên, thỉnh thoảnh lại chi ra một số tiền cho hoạt động thiện nguyện và
trực tiếp thực hiện những chương trình của mình. Không những thế, họ rất chu
đáo, tậo tâm với công việc này, vẫn quan tâm chi sẽ nỗi lo, niềm vui vì lợi ích
của người khác, cho dù thế giới đang khủng hoảng tài chính hay nền kinh tế gặp
khó khăn.
V.I.Lênin gọi những người quan
tâm đến lợi ích của những người bà con xa là những người của CNXH. Ở Việt Nam,
sự tự nguyện, tự giác chăm lo cho người khác ngày càng được nhân lên nhiều mô
hình phong phú: những phụ nữ làm tủ bánh mì miễn phía cho người cơ nhỡ; những
người đàn ông bơm, vá xe miễn phí cho sinh viên, người lao động nghèo; góc
đường phố có bình nước mát miễn phí ai đó đặt... Trong kinh tế thị trường ai
cũng vất vả kiếm sống không dễ, nhưng chia sẻ với nhau bằng tấm lòng vị tha,
nhân ái thì không phải là xã hội nào cũng có. Họ có lẽ chưa hiểu đầy đủ về
CNXH, CNCS nhưng họ đã có hành động như vậy đấy.
CNXH không phải là sản phẩm của
C.Mác, của Ph.Ăngghen, của VI.Lênin. Ngay từ thế kỷ VII, VIII, các nhà tư
tưởng ở phương Đông đã mơ về một xã hội không còn người lầm than, không còn
người lê la ở nơi hang cùng, xóm vắng nữa. Thuật ngữ CNXH đã bắt đầu xuất hiện
trước lúc C.Mác sinh ra hơn 100 năm. Có điều, làm thế nào để xây dựng được một
xã hội như vậy thì các nhà tư tưởng lúc đó chưa tìm ra được con đường, thế cho
nên người ta gọi CNXH không tưởng. Chỉ đến khi C.Mác và Ph.Ăngghen phát hiện ra
cơ sở lịch sử để thực hiện lý tưởng XHCN thì CNXH mới không còn là một “bóng
ma”. Các ông đã tìm thấy ở đó lực lượng, điều kiện mà những người trước đó
không tìm thấy. Với Tuyên ngôn Đảng Cộng sản 1848, CNXH được khẳng định là một
thực thể, một sự tồn tại có thật và đang lớn lên từng ngày, trở thành lực lượng
khuynh đảo thế giới, cân bằng lại thế giới đang trong thời của bờ vực rạn vỡ.
CNXH mới được hơn 100 năm kể Cách
mạng tháng Mười. Nếu nhìn rộng ra CNTB có tận 500 năm lịch sử. Thế nên nếu chỉ
nhìn vào sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90 mà vội kêu lên
CNXH đã cáo chung thì hoàn toàn sai lầm. CNXH là chủ nghĩa cộng đồng, tư tưởng
cộng đồng không dễ gì bác bỏ, tiêu vong được. Nhân loại đã đi qua rất nhiều
chặng đường và lịch sử của CNXH cũng đã trải qua những bước thăng trầm tất yếu
với 4 lần khủng hoảng, điều đó cho thấy sức sống của một lý tưởng không hề bằng
phẳng. Các thế lực thù địch công kích nó đã đành, nội tại bản thân nó cũng phải
đấu tranh để tồn tại và phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “CNCS
không phải là một lý tưởng hay một khuân mẫu để chạy theo. Đối với chúng tôi
CNCS là sự vận động của đời sống hiện thực”. Con đường đi lên CNXH sẽ không
bằng phẳng mà còn rất nhiều gập ghềnh, thử thách, thậm chí phải trả giá bởi
những thất bại tạm thời, bởi đó không phải con đường có sẵn, mà muốn đi lên
phải tìm tòi, thử nghiệm, điều chỉ, sửa chữa, đục kết, hoàn thiện… Để có một
chế độ xã hội tốt đẹp phải trải qua quá trình xây dựng. Đó là con đường tất yếu
mà xã hội nào cũng phải trải qua. CNXH mà Hồ Chí Minh quan niệm là độc lập, tự
do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Một nước XHCH tức là một
nước có cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập. Ba mục tiêu mà chúng ta
hướng tới đó là độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là mục tiêu sống còn, là đích
đến cuối cùng mà chúng ta xây dựng. Lựa chọn con đường nào để đi đến chân trời
tươi sáng là quyền của mỗi quốc gia, dân tộc. Người ta có thể nghi ngờ, nhưng
rõ ràng ở Việt Nam hiện nay phát triển theo CNXH là con đường duy nhất đúng. Để
đạt được mục tiêu ấy con đường đi lên của chúng ta không phải là con đường tư
bản đã đi, mà là đi theo con đường XHCN. Một đất nước ổn định về chính trị, yên
bình về xã hội, an toàn về quốc phòng an ninh để phát triển kinh tế, thu hút
đầu tư phải là một nước Việt Nam của con người CNXH. Khi đất nước đã bước qua
những năm tháng chiến tranh đói khổ, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
CNXH ở Việt Nam tiến lên một bước mới: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Thế giới đã đổi thay, thế nhưng
thực tiễn xã hội cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ vẫn
không đưa ra được bằng chứng xác thực nào để bác bỏ nguyên lý căn bản của triết
học Mác - Lênin. Hơn thế, đi ngược về các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
trong thế kỷ này, tức là trên dưới 150 năm học thuyết Mác ra đời người ta buộc
phải tìm lại giá trị Mác để tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng đương thời,
bởi Mác đã mô tả hoàn toàn chính xác về quy luật phát triển của CNTB. Cho đến
hôm nay, chính nội tại của các nước Tư bản, đằng sau sự hào nhoáng thì con
người phải đối diện với những bất an, bất lực, phân biệt chủng tộc, khoảng cách
giầu nghèo, xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn chính trị xã hội. Và cũng
chính ở đó, sự an hòa, yên bình, người với người sẻ chia của xã hội XHCN lại là
những chân trời mà nhân loại khao khát vươn tới.
Hơn 100 năm qua tư tưởng của các
nhà kinh điển đã vượt qua thử thách của thời đại cũng như sự công kích, chống
phá của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, bất chấp mội công kích, bôi nhọ, xuyên
tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai trò trong thời đại mới.
Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với tư tưởng Mác ngày càng tăng như một
đơn đặt hàng của lịch sử./.
VĂN HÓA TÂM LINH VÀ PHÒNG, CHỐNG MÊ TÍN, DỊ ĐOAN
🍁🍂🍁🍂🍁🍂🍁🍂🍁🍂
Một trong những trăn trở của
không ít cán bộ, đảng viên hiện nay là tham gia đời sống tâm linh như thế nào
cho phù hợp, để không vi phạm Điều 19 của Quy định số 37-QĐ/TW “về những điều
đảng viên không được làm”: “Mê tín, hoạt động mê tín, ủng hộ hoặc tham gia các
tôn giáo bất hợp pháp hoặc lợi dụng các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để trục
lợi”.
Ranh giới giữa hoạt động tâm linh
với hoạt động mê tín, dị đoan thường rất mỏng manh. Định hình được ranh giới
ấy, cán bộ, đảng viên sẽ thấy thoải mái, tự tin hơn trong tham gia các hoạt
động tâm linh...
Mỗi dịp Tết đến, những ai là con
dân nước Việt đều cảm nhận rõ ràng không khí linh thiêng của ngày Tết. Thời
khắc giao thừa, thắp nén hương thơm dâng lên bàn thờ tiên tổ, ai cũng cầu mong
tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khỏe, may mắn, hạnh phúc. Những người
cựu chiến binh dẫn theo con cháu đến nghĩa trang liệt sĩ, nhớ về những đồng đội
từng hy sinh cho mình được sống, cảm thấy như đồng đội vẫn đang ở đâu đó trên
những tầng mây cao vời vợi dõi theo mình, dẫn dắt mình tránh những tai ương,
vận hạn.
Đến vãn cảnh khu tưởng niệm các
danh nhân, anh hùng dân tộc, đền, miếu, chùa chiền, có ai không xúc động khi
dâng hương tưởng nhớ các bậc tiền nhân có nhiều công lao với quê hương, đất
nước, khấn cầu các vị thánh thần phù hộ cho quốc thái, dân an, gia đình và bản
thân mình an khang, gặp nhiều phúc lộc... Rõ ràng, những hoạt động tâm linh kể
trên là rất phổ biến trong đời sống hiện nay, mang lại những giá trị tinh thần
cao cả, có tác dụng hướng con người đến chân-thiện-mỹ mãnh liệt.
Tuy nhiên, cũng có không ít những
hoạt động tâm linh của cán bộ, đảng viên, thậm chí có cả những cán bộ (hoặc vợ
con của cán bộ) giữ những vị trí lãnh đạo, quản lý rất quan trọng gây phản cảm
trong nhân dân. Đó là những lễ dâng sao, giải hạn rình rang với chi phí hàng
trăm triệu đồng, những buổi “gọi hồn, thỉnh vong”, hầu đồng, yểm bùa, cầu cúng,
hóa vàng mã... hoành tráng với những niềm tin mù quáng vào số mệnh, thần thánh,
ma quỷ.
Trước đây, đã có thời kỳ chúng ta
cho rằng, người đảng viên với thế giới quan của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không
được phép tham gia hoạt động tâm linh. Nhiều người còn cho rằng, tâm linh là
“mảng tối”, là mặt tiêu cực trong ý thức con người, nơi chưa được chân lý khoa
học soi sáng; cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học-công nghệ (KHCN) thì
đời sống tâm linh sẽ ngày càng bị thu hẹp.
Nhưng thực tế hơn 35 năm đổi mới
vừa qua cho thấy, đất nước ta càng phát triển, dân trí càng lên cao, KHCN đã và
đang có những bước phát triển rất nhanh thì đời sống tâm linh của nhân dân nói
chung, của cán bộ, đảng viên nói riêng càng phong phú, đa dạng.
Vậy, đứng vững trên nền tảng tư
tưởng của Đảng, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề cán bộ, đảng viên tham gia hoạt
động tâm linh như thế nào? Có thể thấy, dù KHCN có phát triển đến mấy thì những
nỗi đau do thiên tai, nhân tai, dịch bệnh, tai nạn giao thông... vẫn xảy ra.
Thậm chí, sẽ có những người ngẫu
nhiên gặp phải rất nhiều tai ương, thiếu may mắn, “họa vô đơn chí”... Với mỗi
người, khi gặp phải những nỗi đau quá sức chịu đựng như vậy thì sự giúp đỡ,
động viên của cơ quan, đơn vị, hàng xóm, người thân là không đủ, họ cần có niềm
tin vào một phép màu, một sự cứu rỗi trong tâm hồn để vượt qua. Rõ ràng, hoạt
động tâm linh mang bản tính lịch sử tự nhiên, có tác dụng xoa dịu, bù đắp những
mất mát, khổ đau; một loại “thuốc” tinh thần đặc biệt đối với con người.
Do đó, hoạt động tâm linh là một
nhu cầu văn hóa tinh thần đặc biệt của con người, trong đó có cán bộ, đảng viên.
Hơn nữa, đời sống tâm linh còn là nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc
Việt Nam, được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử, trở thành văn hóa tâm linh,
“sợi dây neo” giữ hồn cốt dân tộc. Người cộng sản mang trong mình chủ nghĩa yêu
nước, không thể thiếu “sợi dây neo” đó trong phẩm chất, tâm hồn mình. Lênin
từng chỉ rõ: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu
trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại
đã tạo ra”.
Với tinh thần đó, người đảng viên
cộng sản Việt Nam không chỉ tìm hiểu về đời sống tâm linh của dân tộc mình, mà
phải thực sự tham gia một cách tích cực vào hoạt động đó, để lọc bỏ những yếu
tố mê tín, dị đoan, kế thừa và phát triển văn hóa tâm linh trở thành giá trị
cốt lõi của nền văn hóa mới, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
"ĐỒNG ĐỘI" - NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM!
Khi bước vào trận đánh, người chiến sĩ có biết bao điều muốn
gửi gắm cho nhau. Có những mệnh lệnh vang lên thành lời tâm huyết. Có sự tin
yêu chợt đến trong cử chỉ lặng lẽ, nhẹ nhàng. Có những điều chỉ nói được sau
trận đánh. Vậy mà mọi người đều hiểu - hiểu cả những điều không muốn nói ra.
Bởi một lẽ giản đơn, họ là "ĐỒNG ĐỘI".
“ĐỒNG ĐỘI - một câu đặc biệt như một bản lề khép mở. Nó như
nốt nhấn trên bản đàn, buộc chúng ta phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó
gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng, lý
tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng đội là đỉnh cao của
tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để
người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “ĐỒNG ĐỘI”
đơn sơ mà cảm động đến nao lòng.
Trên chiến hào cùng nhau “chia lửa”, lúc khó khăn cùng giúp đỡ
sẻ chia, trong hoạn nạn quên mình cứu đồng đội, trong vinh quang cùng chia ngọt
sẻ bùi, chiến đấu vì dân, quên mình vì Tổ quốc. Đó là những phẩm chất cao đẹp
nhất của Bộ đội Việt Nam - những người lính thời đại Hồ Chí Minh chiến đấu quên
mình trong thời chiến, lặng lẽ hy sinh trong thời bình. Tất cả vì Tổ quốc, vì
dân tộc phồn vinh.
ST
BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM TỪ XA!
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Thống nhất đất nước phải trả giá bằng
xương máu bao triệu người dân Việt Nam. Cái giá đó rất đắt nhưng chủ quyền quốc
gia là thiêng liêng tối thượng. Dù có phải chiến đấu đến người Việt Nam cuối
cùng vẫn chiến đấu vì hai tiếng Việt Nam.
Hãy cảnh giác với các luận điệu xuyên tạc, lên án đấu tranh với các thế lực
thù địch, phản động, tuyên truyền lòng yêu nước, yêu dân tộc Việt Nam. "Tổ
quốc đang bão giông từ biển, có một phần máu thịt ở Hoàng Sa".
Gửi tình yêu tới từng điểm đảo, bãi đá, nhà giàn... tới lá chắn chủ quyền
Trường Sa, những nhành san hô - như xương máu các anh, những người anh hùng,
những chiến sỹ hy sinh vì chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc./.
ĐỘC LẬP DÂN TỘC PHẢI GẮN LIỀN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam luôn là một trong
những chủ đề thu hút rất nhiều nhà nghiên cứu lý luận trong và
ngoài nước quan tâm. Vấn đề này một lần nữa được đề cập và phân
tích sâu sắc, đầy sức thuyết phục trong cuốn sách “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
🌿 Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong
điều kiện nào? Vì sao Việt Nam lại lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội?
Trên cơ sở tổng kết lịch sử phát triển của nhân loại, và từ bản
chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, C. Mác cho rằng: chủ nghĩa tư bản
là chế độ áp lức bóc lột, tất yếu sẽ bị lịch sử vượt qua, thay
thế nó bằng chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã
hội. Trên cơ sở đó, C. Mác, Ph. Ănghen, và sau này là V.I. Lênin đã
chỉ rõ quy luật ra đời của chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện
lịch sử cụ thể. Vậy, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện nào? Vì sao Việt Nam lại lựa chọn con đường quá độ bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội? Về vấn đề này, trong cuốn sách của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng
định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu
sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã
hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí
tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị hí hửng, vui mừng,
thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người
bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy
kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là
do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn sai đường, cần phải đi con
đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác
chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám
hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ
nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư
bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp
không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”.
Xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là chế độ nữa phong
kiến, nữa thuộc địa, đã thối nát và lạc hậu. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn
dân tộc hết sức sâu sắc, không thể điều hòa, điều kiện cho một cuộc
cách mạng xã hội đang đến gần. Trong bối cảnh đó, đã có rất nhiều
phong trào yêu nước chống thực dân Pháp diễn ra sôi nổi khắp Bắc, Trung, Nam.
Từ phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo
dài đến đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng có xu hướng bạo động
của Phan Bội Châu, phong trào có xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh,
đến cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học. Các phong trào này đều sáng
ngời tinh thần yêu nước theo những ý thức hệ khác nhau, từ những phong
trào theo hệ tư tưởng phong kiến, theo lập trường nông dân, hoặc theo hệ
tư tưởng tư sản, đều đã được lịch sử kiểm nghiệm, song tất cả đều lâm
vào bế tắc và cuối cùng thất bại. Thực tiễn đó cho thấy, muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc phải tìm con đường khác, phù hợp với thực
tiễn dân tộc và xu thế phát triển khách quan của thời đại.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch
Hồ Chí Minh) ra đi tìm đường cứu nước (5/6/1911), theo tiếng gọi của
ngọn cờ “Tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản, với mong
muốn sang các nước tư bản phát triển để học hỏi những tinh hoa và tiến
bộ từ các nước phương Tây để về giúp đồng bào thực hiện cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc. Vì vậy, Người đã đến các nước tư bản phát
triển như: Pháp, Anh, Mỹ và nhiều nước thuộc địa của các nước đế
quốc, quan sát và tìm hiểu chủ nghĩa tư bản, tìm hiểu cuộc sống
của người dân ở chính quốc và các nước thuộc địa. Từ đó, Người
nhận ra rằng, các cuộc cách mạng dân chủ tư sản là không triệt để,
vì cách mạng thành công nhưng chỉ đem lại lợi ích cho thiểu số giai
cấp tư sản, còn đông đảo quần chúng lao động vẫn chịu cảnh áp bức
bóc lột. Vì vậy, nếu đi theo con đường dân chủ tư sản cùng lắm chỉ
giải phóng được dân tộc. Điều đó không đem lại tự do, hạnh phúc cho
nhân dân.
Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã mở ra thời đại mới - quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới. Chính từ “tiếng vang”
của Cách mạng tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sau này như Người nói: giống như một mặt trời chói lọi, cách mạng Nga đã chiếu
rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu người đứng lên đấu tranh giải phóng dân
tộc. Chính vì vậy, chỉ khi Nguyễn Ái Quốc đến với Cách mạng tháng
Mười, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó Người tin rằng: “Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản”. Trong bối cảnh lịch sử đó, khi chủ nghĩa Mác - Lênin được
truyền bá vào Việt Nam, thì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội được cả dân tộc đón nhận như là hệ quả tất yếu. Bởi
vì, “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con
người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các
giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá
bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong
lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm
đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và, chúng
ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân
dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu
có”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trong đó, có nguyên nhân chủ yếu và trực
tiếp là, trong cải tổ, Ðảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm
trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ðó là đường lối xét lại, phản bội chủ
nghĩa Mác - Lênin của một số nhân vật lãnh đạo đảng. Chủ nghĩa đế quốc
đã lợi dụng những khó khăn và sai lầm về đường lối của Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa ở Ðông Âu, chúng đẩy mạnh âm mưu “diễn biến hòa bình”, “không
đánh mà thắng”.” cực kỳ thâm độc, can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng
trợn vào nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa. Dĩ nhiên, chúng không thể
làm được điều này, nếu cải tổ có đường lối đúng đắn, nếu hơn 20 triệu đảng viên
cộng sản Liên Xô có tinh thần cảnh giác cách mạng và sức chiến đấu cao, không
để nội bộ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” khiến cho bọn cơ hội, xét lại và
phản bội thao túng cơ quan lãnh đạo của Ðảng, nếu có sự cố kết chặt chẽ giữa
Ðảng, Nhà nước và nhân dân Liên Xô.
Trước hiện thực đó, Đảng ta chỉ rõ, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu đó là sự sụp đổ của một mô hình xây dựng
chủ nghĩa xã hội hiện thực, chứ không phải là sự lạc hậu hay sụp
đổ của một học thuyết khoa học và cách mạng, của chủ nghĩa xã hội
khoa học. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng (tháng 6/1991), trước
những khó khăn và phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế,
Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định con đường cách mạng của nước ta là
“nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Đây cũng
là lần đầu tiên trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng ta phác thảo ra mô hình chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đã đưa ra quan niệm, cách thức, biện pháp, bước đi
phù hợp với điều kiện cụ thể đất nước. Để từ đó, chúng ta định
hướng con đường, để không mắc phải những sai lầm, đồng thời khẳng
định Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng (tháng 01/2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chúng ta một lần
nữa khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự
lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử”.
🌿 Một vấn đề rất quan trọng được đề
cập trong cuốn sách là, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào cho đúng và đầy đủ?
Như V.I.Lênin từng nhắc nhở: các dân tộc sẽ tùy vào điều
kiện cụ thể sẽ có những hình thức và bước đi khác nhau, song sớm
hay muộn tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nếu chủ
nghĩa xã hội trước Mác nó chỉ là mơ ước, khó trở thành hiện thực,
thì chủ nghĩa xã hội khoa học đã chỉ ra con đường, lực lượng, biện
pháp, cách thức, bước đi để thực hiện được mục tiêu. Vấn đề đặt ra
là, chúng ta phải nhận thức đúng bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình vận dụng và phát triển
sáng tạo vào điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì
vậy, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông
Âu, những hạn chế, khó khăn của quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta không phải là bắt nguồn từ bản chất của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà là do cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện thực không tuân theo những nguyên lý chỉ dẫn của chủ nghĩa xã
hội khoa học và sự nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội chưa
đầy đủ. Vì vậy, “trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức
ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây
như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai
đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình
quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá
độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh
tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước
tư sản...”.
Từ quá trình đổi mới đất nước cho thấy, bên cạnh những thành tựu
đạt được, thì còn có nhiều khó khăn, thách thức. “Càng đi vào chỉ đạo
thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu
sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất
nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng
khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế
độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu,
những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt
được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những
thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Chính
điều đó, Đảng ta đã đưa ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, “nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và
phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng
trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm
2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN.
Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã
ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương
thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương
thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng
đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên
280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư
nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu
nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể,
30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài…Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem
lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế
phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục;
đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính
trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập
quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm
tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Những thành tựu
đạt được đó đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản hiện có điểm chung là sự phát triển không đều và
không phải cứ quốc gia nào đi theo chủ nghĩa tư bản thì đều phát
triển, mà phần lớn là đói nghèo, xã hội bất ổn. Chính chủ nghĩa
tư bản đang tạo ra khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, phân hóa xã
hội ngày càng sâu sắc, dựa trên bóc lột người lao động, đó là bản
chất của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù, “từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và
nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư
bản thế giới đã ra sức “tự điều chỉnh”, thúc đẩy các chính sách “tự do mới”
trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ
nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó…
Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã
hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm
trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm
trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống “phát
triển xấu”, những nghịch lý “phản phát triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính
đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội và ở không ít nơi
từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu
tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế…Thực tế là các thiết chế dân chủ
theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn
thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ…”. Vì thế, chủ nghĩa tư
bản không phải là mục tiêu của nhân loại, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới giải quyết được những tồn tại, bất công mà chủ nghĩa tư bản đã
và đang tạo ra, đưa xã hội loài người đến dân chủ, công bằng, văn
minh.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quá độ bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là, chỉ bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, hay nói cách khác là bỏ qua việc xác lập thể chế
chính trị tư bản chủ nghĩa, còn những thành tựu nhân loại đạt được
dưới chủ nghĩa tư bản chúng ta phải kế thừa để xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, nhất là những thành tựu về kinh tế, khoa học và
công nghệ. Do đó, chúng ta bỏ qua mà không bỏ qua, chỉ bỏ qua chế độ
chính trị áp bức bóc lột. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần
tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác
và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp
với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh toàn diện.
Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: hiện nay Việt Nam
đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các nhân tố xã hội
chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các
nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số
lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành tựu,
tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách
tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go,
gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi
lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng
cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi
phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào
sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng… Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững
vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa
học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học
và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những
giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện.
Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như
trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một
cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất
về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi
mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không
rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Dù thời thế có đổi thay, nhưng mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội ở nước ta là không bao giờ thay đổi. Độc lập
dân tộc là điều kiện để đi lên chủ nghĩa xã hội, ngược lại chủ
nghĩa xã hội là điều kiện để đảm bảo độc lập dân tộc. Vì đây là
mục tiêu đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đương
nhiên, vấn đề không chỉ là mục tiêu, lý tưởng, mà điều không kém
phần quan trọng là phải tìm ra giải pháp, bước đi, cách làm khoa
học, sáng tạo nhằm thực hiện cho bằng được mục tiêu, lý tưởng đã
xác định. Chủ nghĩa xã hội của chúng ta xây dựng là chủ nghĩa xã
hội khoa học, chủ nghĩa xã hội đổi mới đúng đắn trên tinh thần
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn đất nước.
Với những đặc trưng và phương hướng, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có giá trị khoa học và thực tiễn rất
to lớn, là định hướng chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn
mới. Mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, tuyên truyền sâu rộng
trong quần chúng nhân dân, để tạo sự thống nhất trong nhận thức và
hành động, phát huy sức mạng tổng hợp trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
ĐẨY MẠNH THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
Trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
thực hành tiết kiệm và chống lãng phí là một nội dung quan trọng được các
ngành, các địa phương đặc biệt coi trọng trong quá trình thực hiện.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiết kiệm là sử dụng hợp lý, có hiệu quả tiền
của, thời gian, công sức lao động nhằm tích lũy thêm vốn cho công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước, nâng cao mức sống của người dân. Tiết kiệm phải từ cái
nhỏ đến cái to, không xa xỉ, hoang phí, phô trương, hình thức. Để thực hành
tiết kiệm có hiệu quả thì phải ra sức chống lãng phí, coi đây là việc làm
thường xuyên của mỗi cơ quan, đơn vị, mỗi cá nhân.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ lãng phí là một căn bệnh phải
được khắc phục triệt để. Những năm qua, hệ thống chính trị từ trung ương
đến cơ sở luôn xác định thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là nhiệm vụ cấp
bách. Nhiều quy định cụ thể về vấn đề này đã được thể hiện rõ trong Luật Thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí. Hầu hết các cơ quan, đơn vị đã xây dựng chương
trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của mình và có nhiều giải pháp thiết
thực để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này. Nhờ vậy, hàng năm, các địa phương,
các ngành đã cắt giảm đáng kể kinh phí thực hiện các nhiệm vụ chưa cần thiết,
tiết kiệm nguồn kinh phí không nhỏ, thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, đảm
bảo an sinh xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế việc lãng phí vẫn còn xảy ra ở nhiều cơ quan, địa
phương, đơn vị. Nhiều nguyên nhân đã được chỉ ra, từ nhận thức đến thực hiện,
đến việc xử lý sai phạm chưa nghiêm. Trong bối cảnh hiện nay, đại dịch COVID-19
vẫn có diễn biến khó lường, việc thích ứng linh hoạt đòi hỏi phải có nguồn lực
cần thiết để phát triển. Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chính là một giải
pháp thiết thực góp phần giải bài toán về nguồn vốn cho phát triển.
Để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thực chất và đạt hiệu quả rất cần chú
trọng nâng cao nhận thức cho toàn xã hội để việc này trở thành việc làm thường
xuyên của mỗi tập thể, mỗi cá nhân. Đẩy nhanh quá trình xây dựng chính quyền
điện tử, hướng tới chính quyền không giấy tờ, tạo giải pháp hữu hiệu để chống
lãng phí. Đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp cố tình để xảy ra tình trạng
lãng phí, không có ý thức thực hành tiết kiệm.
VIỆT NAM KIÊN ĐỊNH CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG "BỐN KHÔNG" TRONG QUAN HỆ
QUỐC TẾ
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam năm 2019 đã nêu rõ, chủ trương của Việt Nam
là không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước
kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại
nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc
tế.
Quan điểm và chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam nhằm mục đích
hòa bình, tự vệ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc
tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, đã xuất hiện nhiều quan điểm cho
rằng, chính sách “bốn không” của Việt Nam đã không phù hợp, thực hiện chính
sách “bốn không”, Việt Nam sẽ bị cô lập trong cộng đồng quốc tế.
Những liên minh quân sự có thể làm gia tăng sức mạnh quân sự, quốc phòng của
các nước thành viên; tạo sự chuyển hóa về thế trận và lực lượng quân sự trên
chiến trường; tạo thêm uy tín, vị thế và sức mạnh cho quốc gia tham gia liên
minh trong những thời điểm nhất định. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ tồn tại các
liên minh quân sự trên, tình hình khu vực, thế giới luôn căng thẳng, bởi các
liên minh này đối đầu nhau, nhất là khi giữa họ có những mâu thuẫn về lợi ích.
Họ công khai hoặc ngầm chạy đua vũ trang, tăng cường sự hiện diện quân sự, đẩy
mạnh hoạt động khiêu khích, lôi kéo các quốc gia, khu vực đến gần hiểm họa
chiến tranh. Mà Việt Nam chúng ta cũng là nạn nhân của cuộc chiến tranh nóng đó
vào những năm 60 – 70 của thế kỷ trước.
Trong chính sách quốc phòng Việt Nam, chúng ta chủ trương không liên minh
quân sự bởi đó là giải pháp hiệu quả để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ cũng như lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam. Bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam không thể dựa vào bất kỳ liên minh quân sự nào, hiệp ước quân sự
nào, càng không thể trông chờ, ỷ lại vào nước ngoài, mà phải bằng chính bản
lĩnh, trí tuệ, thực lực, bằng đoàn kết đồng lòng của triệu triệu con người Việt
Nam dù sống ở bất cứ đâu trên trái đất này.
Trên thế giới chưa bao giờ có nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc
mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác. Chính vì vậy, trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh, dù là thời bình hay thời chiến, không thể ảo tưởng trông chờ sự trợ
giúp của nước ngoài, không tham gia liên minh quân sự với nước khác. Quan điểm
xuyên suốt của Việt Nam là mở rộng quan hệ quốc tế, là bạn, là đối tác tin cậy
của bạn bè quốc tế, đồng thời phải tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính,
xây dựng thực lực sức mạnh tổng hợp quốc gia, kết hợp với sức mạnh của thời
đại, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè và cộng đồng quốc tế.
Việt Nam không chọn bên, không đi theo một cường quốc nào, không dựa hẳn vào
một cường quốc nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc mình.
Chính vì vậy, chúng ta không hề mâu thuẫn khi một mặt mở rộng quan hệ quốc tế,
mặt khác chúng ta không tham gia liên minh quân sự, không liên kết nước này để
chống nước kia.
Chính sách quốc phòng “4 không” của Việt Nam không phải bất biến, cứng nhắc
mà luôn có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn. Hiện
tại, chúng ta hoàn toàn đủ khả năng để kiểm soát được tình hình an ninh, không
để nảy sinh xung đột và xảy ra chiến tranh. Tuy nhiên, khi đất nước xảy ra nguy
cơ chiến tranh thì Đảng, Nhà nước ta sẽ hoạch định những chiến lược, chính sách
quốc phòng phù hợp.
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rất rõ rằng: “Tùy theo diễn biến của
tình hình và trong những điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các
mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Hiện nay
quan hệ ngoại giao nhà nước Việt Nam “phủ sóng” tới 189 trong tổng số 200 quốc
gia trên toàn thế giới. Quan hệ đối ngoại quốc phòng của ta ngày càng rộng mở,
chúng ta có quan hệ quốc phòng với trên 80 quốc gia thuộc cả 5 châu lục, đặc
biệt chúng ta có quan hệ quốc phòng với tất cả 5 thành viên thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc là những quốc gia có vai trò, có ảnh hưởng chủ chốt
trong duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Đây là điều chưa từng có từ trước tới nay. Điều đó chứng tỏ chúng ta chẳng
bị ai cô lập, trái lại, còn mở rộng không ngừng quan hệ đối ngoại. Điều đó là
cơ hội thuận lợi để chúng ta ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh,
duy trì hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế của đất nước và Quân đội nhân dân
Việt Nam trên trường quốc tế.
Lịch sử dân tộc ta trải qua mấy nghìn năm, công cuộc dựng nước luôn đi đôi
với giữ nước. Chính sách quốc phòng "bốn không" được đúc kết từ
truyền thống giữ nước đó và ngày càng chứng minh sự đúng đắn, phù hợp với Việt
Nam.
KHÔNG THỂ VÔ ƠN. HÃY TỰ HÀO VỀ NHỮNG TRANG VÀNG LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC.
- 541. 933 lính viễn chinh Mỹ và 70.000 quân của 5 nước chư hầu Mỹ đã tham
chiến trong cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa tại Việt Nam.
- 849.018 anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống
Mỹ bảo vệ tổ quốc vĩnh viễn nằm lại ở 10.000 nghĩa trang liệt sĩ trên khắp cả
nước, Lào và Campuchia. Nhiều Liệt sỹ hy sinh đến nay vẫn chưa xác định được
tên tuổi, quê quán, vẫn chưa tìm thấy mộ.
- 15,4 triệu tấn bom đạn Mỹ và đồng minh đã dội xuống Việt Nam gấp 6 lần
tổng số bom đạn mà tất cả các nước sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ 2;
tương đương sức nổ của khoảng 600 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản
năm 1945. Việt Nam là quốc gia bị Mỹ ném bom nhiều nhất thế giới.
- 839 tỷ USD mà Mỹ đã đổ vào cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa ở Việt
Nam.
- 75.000.000 lít chất độc hoá học chủ yếu là chất độc da cam mà Mỹ đã huỷ
diệt môi trường sống của Việt Nam khiến 5 triệu người Việt Nam và hàng trăm
ngàn người Mỹ đến nay vẫn quằn quại vì chất độc hoá học này.
- 05 năm là khoảng thời gian Việt Nam đàm phán với Mỹ để ký Hiệp định PARI
để chấm dứt chiến tranh, một hiệp định có thời gian đàm phán dài nhất thế giới.
- Trước khi ký hiệp định, Mỹ thực hiện dã tâm đưa Bắc Việt Nam trở về thời
kỳ đồ đá; dùng pháo đài bay B52 rải thảm, huỷ diệt Miền Bắc, đây là cuộc tập
kích bằng đường không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới, số bom Mỹ
thả trong 12 ngày đêm xuống Hà Nội, Hải Phòng bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ thả
xuống Nhật Bản năm 1945.
- Để có được chiến thắng 30/4/1975, Việt Nam đã chiến đấu quả cảm trong cuộc
chiến 10.000 ngày. Lần đầu tiên trên thế giới, một dân tộc nhỏ bé đã đánh bại
Đế quốc Mỹ một tên đầu sỏ hiếu chiến và hùng mạnh nhất thế giới.
47 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước là dấu son chói lọi, niềm tự
hào muôn đời của mỗi người con đất Việt. Chúng ta không được phép lãng quên
lịch sử và không được phép vô ơn với xương máu của các thế hệ cha ông mình đã
đổ xuống để chúng ta có ngày hôm nay. Dù đứng ở góc độ nào đi nữa cũng không
thể phủ nhận một cuộc chiến tranh thần thánh, chính nghĩa của dân tộc Việt Nam
đã ghi vào lịch sử thế giới một trang sử vàng chói lọi nhất của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng, ý chí thống nhất, độc lập, tự chủ và khát vọng của một dân tộc
yêu chuộng hoà bình, biểu tượng của hòa bình; cổ vũ các dân tộc tiến bộ khác
trên thế giới tiến lên đánh bại chủ nghĩa đế quốc, thực dân cũ và mới dành độc
lập, tự do./.
LẬT TẨY CHIÊU BÀI “YÊU NƯỚC” CỦA CÁC PHẦN TỬ PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH.
Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch là xuyên tạc, bóp méo các sự kiện
chính trị, lợi dụng các vụ việc phức tạp, nhạy cảm, các sự kiện chính trị quan
trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển
Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão
lụt, công tác phòng chống COVID-19. Chúng tung tin thất thiệt trên các trang
mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân,
sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Một trong những thủ đoạn của
chúng là sử dụng chiêu bài “Yêu nước” để xúi dục lôi kéo những phần tử chống
đối, manh động, những quần chúng thiếu tỉnh táo nhằm phục vụ cho mục đích phá
hoại của chúng.
Trên mặt trận Chính trị ngoại giao:
Quan điểm đường lối của Đảng rõ ràng, đối tượng, đối tác chiến lược của ta
công khai minh bạch. Vị thế đất nước ta ngày càng được đánh giá cao trên trường
quốc tế, vì sao các thế lực chống đối sao không sử dụng các phương tiện thông
tin và mạng lưới của họ để tuyên tuyền chủ trương đường lối của Đảng đến với
bạn bè quốc tế mà lại thường xuyên, xuyên tạc bóp méo sự thật, phá hoại đường
lối ngoại giao đúng đắn của đảng và nhà nước, hành động đó là “Yêu nước” hay
“Phá hoại đất nước”?.
Về vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông:
Chủ trương đường lối của Đảng về độc lập dân tộc, về Quốc phòng an ninh rất
đầy đủ và nhất quán. Kết quả cho thấy độc lập dân tộc được khẳng định và giữ
vững, thông qua đối thoại hòa bình và công ước quốc tế về luật biển năm 1982
chúng ta kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với những hành động xâm phạm
quyền tài phán, và an ninh quốc gia trên biển, vùng đặc quyền kinh tế, các điểm
đảo chúng ta đang quản lý đều được bảo vệ toàn vẹn. Trong khi đó các thế lực
thù địch lại lợi dụng những hình ảnh về vũ khí trang bị hiện đại trên mạng, để
phóng đại tiềm lực quân sự Việt Nam, dùng những lời lẽ kích động, những tuyên
bố trái với chủ trương hòa bình, xúi dục giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Nếu
một cuộc chiến tranh bằng vũ lực nổ ra, những ai là người chịu sự tác động nặng
nề nhất do chiến tranh mang lại? Đối tượng vẫn rêu rao là “Yêu nước” lúc này ở
đâu?. Và sẽ làm gì để kết thúc chiến tranh, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh
thổ?. Xúi dục, mong muốn cho đất nước có chiến tranh phải chăng là “Yêu nước”?.
Thời gian qua và hiện tại toàn đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị của
ta đang vào cuộc thực hiện công tác phòng chống COVID-19; Trong khi đó chúng
đứng ngoài công kích phá hoại; chúng lợi dụng những khó khăn trước mắt của
những người dân vùng dịch, những sai sót không đáng có của một số ít cán bộ làm
nhiệm vụ chống dịch để đả phá chủ trương biện pháp chống dịch của nhà nước, xúi
dục nhân dân vùng dịch bất tuân chính sách …. Chúng bỏ ra một chút ít vật chất
gọi là “hỗ trợ đồng bào khó khăn” nhằm tranh thủ lôi kéo sự ủng hộ, mở mang lực
lượng; Thử hỏi với số tiền ủng hộ cỏn con ấy liệu có giúp ích gì cho công cuộc
chống dịch như chống giặc của nhân dân ta?. Xúi dục chống phá đường lối, kích
động gây mất ổn địch phải chăng là “Yêu nước”?. Giả sử có bạo động biểu tình nổ
ra, lợi ích sẽ thuộc về nhân dân lao động, về đồng bào Việt Nam trong và ngoài
nước hay thuộc về những kẻ ném đá giấu tay, những kẻ đi ngược lại quyền và lợi
ích chính đáng của dân tộc?.
Qua một số minh chứng rõ ràng trên, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, đấu tranh
không khoan nhượng và cảnh giác với ngôn từ “Yêu nước”? của kẻ thù, tránh sập
bẫy, mắc mưu tiếp tay cho chúng để phá hoại đất nước./.
CỐ TÌNH “ĐÁNH LẬN CON ĐEN”
HÀNH ĐỘNG CẦN LÊN ÁN
Lý do, các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá sự nghiệp nước ta
Các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề
dân tộc để chống phá cách mạng nước ta, bởi mấy lý do sau:
Một là, đời sống của các dân tộc thiểu số còn
nhiều khó khăn so với mặt bằng chung. Nguyên nhân kinh tế là yếu tố dễ
đem ra để so sánh, kích động, dễ nhận biết để lồng vào đó cách giải thích khác
nhau nhằm tạo ra sự nghi kỵ, từ đó phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, đa
số với thiểu số; thiểu số với thiểu số.
Hai là, mặt
bằng học vấn của đồng bào các dân tộc thiểu số không đồng đều, nhận thức còn
những hạn chế nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để xuyên tạc sự thật về
các vấn đề phát triển và quan hệ dân tộc.
Ba
là, trình độ quản lý nhà nước về công tác dân tộc của hệ thống chính
trị bên cạnh thành tựu vẫn còn hạn chế, chưa sâu sát, chưa bền vững, xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, như nhận thức, cán bộ, cơ chế quản lý, chính sách,
xuất phát điểm của các dân tộc trong phát triển...
Bốn là, xuất
phát từ quan điểm chiến lược (thuộc bản chất) của các thế lực thù địch khi đi
xâm lược một thuộc địa hay chiếm đoạt quốc gia khác trước khi chiếm tài nguyên
là chinh phục “người dân bản địa, bản xứ” thông qua con đường có tính mũi nhọn
là “tôn giáo” và “dân tộc”. Lợi dụng đặc điểm quan hệ tộc người trong điều
kiện các quốc gia đa tộc người; áp dụng chính sách “chia để trị” để kích động
phá hoại khối đoàn kết dân tộc.