Thứ Năm, 11 tháng 8, 2022

Cống hiến của đồng chí Võ Chí Công trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

  Với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, ở những cương vị công tác khác nhau, đồng chí Võ Chí Công(1) đã trải qua những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, oanh liệt và vẻ vang. Trong những năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí luôn thể hiện là người cộng sản kiên trung, bất khuất, một cán bộ tài năng, trực tiếp lãnh đạo phong trào, đồng thời có những đóng góp quan trọng vào việc hoạch định đường lối của Đảng, góp phần đưa cách mạng vượt qua những khó khăn, thử thách để đi đến thắng lợi.

Đồng chí Võ Chí Công (thứ 2, từ trái sang) và Đại tướng Chu Huy Mân (đeo kính, thứ 4 từ trái sang) trong chiến dịch giải phóng thành phố Đà Nẵng (tháng 3-1975)
Bám sát cơ sở, nhạy bén nắm bắt thực tiễn, trung thành và kiên định, đóng góp rất quan trọng vào việc hoạch định đường lối kháng chiến giải phóng dân tộc

Một trong những cống hiến xuất sắc của đồng chí Võ Chí Công là đề xuất với Trung ương những vấn đề mang ý nghĩa chiến lược trong giữ gìn lực lượng và phát triển phong trào cách mạng giai đoạn khó khăn nhất, khẳng định phải sử dụng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, góp phần quan trọng vào việc hình thành Nghị quyết Trung ương 15 (năm 1959), chỉ ra con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam Việt Nam.

Bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, trù liệu tình hình sẽ hết sức phức tạp, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đồng chí Võ Chí Công (đang tham gia cải cách ruộng đất ở Việt Bắc) bí mật trở lại Khu 5, chỉ đạo cách mạng trong tình hình mới. Lúc này, cách mạng miền Nam, trước sự đánh phá liên tục và tàn bạo của chính quyền Ngô Đình Diệm, đang bị thiệt hại rất lớn. Tại Liên khu 5, địa bàn có nhiều vùng tự do rộng lớn, các đảng bộ bị thiệt hại nặng. Đến cuối năm 1957, vùng đồng bằng bị thiệt hại 70% số chi ủy viên, 60% số huyện ủy viên và 40% số tỉnh ủy viên, 12 huyện không còn cơ sở đảng(2).

Trưởng thành trong gian khó của phong trào đấu tranh cách mạng, đồng chí Võ Chí Công là người cộng sản kiên định, gian khổ không sờn lòng, khó khăn không lùi bước. Trên cương vị Phó Bí thư Liên khu ủy 5, với trách nhiệm của người lãnh đạo phong trào, đồng chí luôn trăn trở về đường lối và phương pháp đấu tranh ở miền Nam. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, từ thực tiễn cùng Liên khu ủy chỉ đạo giữ gìn lực lượng và đấu tranh thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng chí nhận định: “đồng bào dân tộc có ưu thế chính trị trong đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp với địch..., mặc dù địch tiến hành đủ kiểu đàn áp khủng bố, càn quét, nhưng lực lượng đảng viên, phong trào quần chúng vẫn được củng cố và phát triển”(3). Đây là cơ sở để các đồng chí lãnh đạo Liên khu ủy đúc rút kinh nghiệm: Muốn đấu tranh thắng lợi với địch phải có đấu tranh vũ trang. “Kinh nghiệm quý báu nhất ở Khu 5 trong thời kỳ này là ra sức xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi và biết dùng bạo lực quần chúng nên phong trào miền núi tồn tại và phát triển. Đó là kinh nghiệm cơ bản nhất, là thành công nhất”(4). Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, vận dụng sáng tạo lý luận về bạo lực cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể ở miền Nam, đồng chí cho rằng, dùng “bạo lực chống lại bạo lực mới thắng được địch. Nếu không dùng bạo lực mà chỉ dùng đấu tranh chính trị thì cách mạng sẽ thất bại”(5).

Năm 1958, đồng chí Võ Chí Công ra Bắc dự họp Bộ Chính trị và Trung ương bàn về cách mạng miền Nam. Với kinh nghiệm thực tế chiến trường, đồng chí nhất trí cao với bản Đề cương cách mạng miền Nam do đồng chí Lê Duẩn - Bí thư Xứ ủy Nam bộ soạn thảo (cuối năm 1956). Được gặp Bác Hồ và đồng chí Lê Duẩn, đồng chí Võ Chí Công phản ánh với Trung ương những tâm tư, nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân Liên khu 5, sự trăn trở của đồng chí trước những hành động khủng bố, đàn áp của kẻ thù. Tham dự Hội nghị Trung ương 15 (tháng 1-1959), đồng chí có nhiều ý kiến đóng góp sắc bén; giúp cho Hội nghị có thêm cơ sở thực tiễn từ chiến trường Liên khu 5 và Nam Bộ, để quyết định chuyển phong trào cách mạng ở miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh chính trị có vũ trang hỗ trợ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 mở ra thời kỳ đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng, đưa phong trào cách mạng miền Nam vượt qua khó khăn, thử thách. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đánh giá về vai trò của đồng chí Võ Chí Công: “Trong những ngày đen tối của cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng đã nhận được những ý kiến nhận định, đánh giá sát thực về tình hình cách mạng miền Nam của đồng chí Võ Chí Công. Trên cơ sở ý kiến của đồng chí cùng với bản Đề cương cách mạng miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, Ban Chấp hành Trung ương đã xây dựng nên Nghị quyết 15 lịch sử, mở đầu thời kỳ đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù ở miền Nam”(6).

Sau khi dự Hội nghị Trung ương 15, đồng chí Võ Chí Công trở về căn cứ. Trên cương vị Bí thư Liên khu ủy 5(7), đồng chí triệu tập hội nghị truyền đạt chủ trương mới của Đảng; góp phần quan trọng làm cho Nghị quyết Hội nghị Trung ương 15 nhanh chóng đi vào thực tiễn, thấm sâu vào từng cán bộ, đảng viên. Đồng chí tỏ thái độ cương quyết ủng hộ quần chúng nổi dậy đánh địch càn quét ở một số địa phương. Nổi bật là cuộc khởi nghĩa Trà Bồng ở miền Tây Quảng Ngãi cuối tháng 8-1959 buộc địch rút khỏi nhiều đồn bốt, giải phóng một vùng rộng lớn, chống cuộc càn quét của một sư đoàn địch giành thắng lợi. Cuộc khởi nghĩa Trà Bồng có ý nghĩa sâu sắc với thực tiễn cách mạng. Tuy nhiên, trong hàng ngũ lãnh đạo và cán bộ địa phương cơ quan Liên khu ủy cũng có những ý kiến băn khoăn: Hành động như thế là đúng hay sai? Sớm hay kịp thời? Chủ động hay bị động?(8). Đồng chí Võ Chí Công về Quảng Ngãi, trực tiếp đến tận Trà Bồng xem xét và đánh giá, cùng các đồng chí trong Tỉnh ủy bàn bạc, phân tích tình hình và đi đến quyết định biểu dương và lấy điển hình này nhân rộng ra các địa phương khác. Đồng chí Võ Chí Công kết luận: “Cuộc nổi dậy của nhân dân Trà Bồng nổ ra kịp thời, có chuẩn bị, có lãnh đạo, đứng vững được, đi đúng đường lối cách mạng miền Nam, đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II”(9).

Nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công của Đảng, kiên quyết, nhạy bén, chỉ đạo chớp thời cơ, dám đánh và quyết đánh thắng kẻ thù xâm lược

Tháng 10-1961, đồng chí Võ Chí Công được Trung ương chỉ định giữ chức Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam. Đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam là một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Chí Công. Ngay khi nhận nhiệm vụ, đồng chí cùng tập thể Trung ương Cục miền Nam đề ra nhiều quyết sách đúng đắn, giải quyết những vấn đề cấp bách mà thực tiễn cách mạng miền Nam đặt ra. Tại Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ nhất(10), đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Giữ cương vị này một thời gian, tháng 4-1964, Bộ Chính trị điều đồng chí Võ Chí Công trở lại Khu 5, giữ chức Bí thư Khu ủy Khu 5(11) kiêm Chính ủy Quân khu 5, đồng thời là Phó Bí thư Trung ương Cục miền Nam.

Trong lúc phong trào cách mạng Khu 5 đang gặp nhiều khó khăn, đồng chí Võ Chí Công là hạt nhân lãnh đạo, góp phần giữ vững và đưa phong trào cách mạng đi lên. Cống hiến quan trọng của đồng chí là xốc lại tình hình, phê phán tư tưởng hữu khuynh, phát động phong trào tự phê bình và phê bình trong Khu ủy. Đồng chí chủ trì họp Hội nghị Thường vụ Khu ủy (tháng 6-1964), tiến hành tự phê bình về những thiếu sót trong chỉ đạo phong trào cách mạng, khẳng định đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị là những hình thức đấu tranh cơ bản, có vai trò, ý nghĩa quyết định trong phong trào cách mạng ở miền Nam. Đồng chí nhanh chóng vực dậy phong trào và đưa phong trào cách mạng giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa quan trọng. Đồng chí đã cùng Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo quyết liệt công cuộc phá ấp chiến lược ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, khắc phục tình trạng “chạy xà đùa” khi đối đầu với chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của Mỹ - ngụySự tham gia chỉ đạo kịp thời của đồng chí đã giúp cho phong trào cách mạng miền Nam tháo gỡ được những khó khăn, lúng túng, từng bước tiến lên đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.

Cuối năm 1964, đầu năm 1965, trước những đòn tiến công dồn dập của quân và dân ta trên chiến trường, để cứu vãn tình thế, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam. Khu 5, với vị trí chiến lược nối hai miền đất nước, là địa bàn phải đối mặt với kẻ thù đầu tiên, nơi tập trung tới 2/3 số quân Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Những căn cứ quân sự lớn của Mỹ ở Đà Nẵng, Chu Lai, An Khê, Pleiku, Cam Ranh được xây dựng.

Chủ động, quyết tâm đánh đế quốc Mỹ và tìm cách thắng đế quốc Mỹ là yêu cầu đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong những năm tháng thử thách vô cùng ác liệt đó. Nắm bắt tâm lý gờm Mỹ, ngại Mỹ xuất hiện trong một bộ phận cán bộ và nhân dân, đồng chí Võ Chí Công đã cùng với Khu ủy Khu 5 quyết định đẩy mạnh công tác tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, kiên trì phương châm đấu tranh cả về quân sự và chính trị, phát huy sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Tinh thần tiến công cách mạng không ngừng cùng với những quyết sách nhạy bén, táo bạo của đồng chí Võ Chí Công đã góp phần ổn định tư tưởng, củng cố quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân Khu 5.

Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công với nhân dân huyện Phước Sơn trong chuyến thăm, làm việc tại tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, ngày 30-10-1989

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng tại Hội nghị Trung ương 11 (tháng 3-1965) về chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nếu địch gây ra, nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, ngay trong tháng 3-1965, Khu ủy Khu 5 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Võ Chí Công, chủ trương kiên quyết dựa vào thế trận, lực lượng sẵn có, tiếp tục giữ vững và phát huy quyền chủ động tiến công địch. Hội nghị cán bộ trung - cao cấp toàn Quân khu 5 được tổ chức, thảo luận mấy vấn đề cơ bản: Việc đế quốc Mỹ đưa quân chiến đấu vào miền Nam là chủ động hay bị động? Ta có thể đánh và thắng quân Mỹ không? Và đánh thắng như thế nào? Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi, phân tích thực tiễn chiến trường, hơn 200 cán bộ lãnh đạo, chỉ huy nhất trí với câu trả lời: Mỹ vào là bị động, ta có khả năng đánh thắng quân chiến đấu Mỹ. Hội nghị chủ trương: “Củng cố thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng vành đai diệt Mỹ ở những nơi có quân chiến đấu Mỹ, tổ chức đánh phủ đầu quân Mỹ… phát động phong trào quyết đánh và quyết thắng giặc Mỹ trong toàn khu”(12). Chủ trương xây dựng vành đai diệt Mỹ chứng tỏ sự nhạy bén, sáng tạo của lãnh đạo Khu ủy, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của đồng chí Võ Chí Công, trước tình hình vô cùng thử thách của cách mạng, cho thấy tinh thần táo bạo trong chỉ đạo chiến tranh nhân dân ở một địa bàn mà chiến tranh diễn ra ác liệt nhất, ở địa phương đầu tiên phải đối đầu với quân Mỹ.

Đêm 25 rạng ngày 26-5-1965, Đại đội 2, Tiểu đoàn 70 tỉnh Quảng Nam thực hiện trận đầu tiên đánh phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành, tiêu diệt được 1 đại đội quân Mỹ trong 30 phút. Thắng lợi của trận Núi Thành (trên vành đai diệt Mỹ Chu Lai) có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Đây là trận đánh thắng quân Mỹ đầu tiên ở miền Nam, củng cố và khẳng định lòng tin, quyết tâm đánh Mỹ, phát động tinh thần dám đánh và quyết đánh thắng Mỹ trong toàn dân và lực lượng vũ trang cả nước. Trận Núi Thành xuất hiện khẩu hiệu hành động “tìm Mỹ mà đánh, gặp Mỹ là diệt”. Quân khu 5 đã tổng kết và phát động phong trào đánh Mỹ trong toàn khu. Từ thực tiễn những trận đánh quân Mỹ ở Núi Thành (tháng 5-1965), Vạn Tường (tháng 8-1965) và xung quanh căn cứ Chu Lai, Đà Nẵng..., quân và dân Khu 5 là địa phương đi đầu trong việc tìm ra cách đánh và cách thắng đế quốc Mỹ. Thành tích kháng chiến của quân, dân Khu 5 góp phần để Trung ương Đảng nhận định sát tình hình, đề ra nhiều quyết sách quan trọng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 12 của Đảng (tháng 12-1965) hạ quyết tâm động viên cao độ sức mạnh cả nước kiềm chế và đánh thắng giặc Mỹ trên chiến trường miền Nam.

Tháng 1-1968, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược Mỹ. Thực hiện chỉ thị của Bộ Chính trị, Thường vụ Khu ủy Khu 5 dưới sự lãnh đạo của đồng chí Võ Chí Công đã họp hội nghị quán triệt chỉ thị, chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa. Tuy nhiên, trong lúc lực lượng của khu và các tỉnh trong khu đã ém sát các địa bàn hoạt động ở các đô thị, thì lại có lệnh chuyển ngày khởi nghĩa. Với cương vị Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu, đồng chí Võ Chí Công kiên quyết đề đạt với Trung ương cho Khu 5 nổ súng theo ngày đã định. Sự chỉ đạo linh hoạt đó không chỉ giúp ta làm chủ được một số thành phố theo yêu cầu đề ra, mà còn tránh tổn thất cho lực lượng cách mạng. Trên thực tế, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân, dân Khu 5 là cuộc tiến công có tính chiến lược, với quy mô rộng khắp, là một trong những chiến công oanh liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Khu 5, góp phần cùng miền Nam giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ(13).

Sự nhạy bén của một bộ óc lãnh đạo mẫn cảm với thời cơ được đồng chí thể hiện rõ nét nhất trong chiến dịch mùa Xuân năm 1975. Vào những tháng ngày cuối cùng quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trước nguy cơ tan rã của Quân đoàn 1 ngụy quân tại Đà Nẵng, đồng chí đề xuất với Bộ Chính trị và đồng chí Lê Duẩn nên chớp thời cơ để giải phóng nhanh Đà Nẵng. Suy nghĩ táo bạo và kịp thời của đồng chí Võ Chí Công đã giúp quân và dân ta nhanh chóng đánh tan 10 vạn quân ngụy, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng - thành phố lớn thứ 2 ở miền Nam, góp phần đưa chiến dịch Hồ Chí Minh đến toàn thắng vào ngày 30-4-1975.

Với những đóng góp to lớn, đồng chí Võ Chí Công là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc trong phong trào đấu tranh cách mạng, người con ưu tú của mảnh đất Quảng Nam - Ðà Nẵng trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ.

Nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Võ Chí Công (7-8-1912 - 7-8-2022), nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, đồng chí Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước cùng lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước dâng hương tưởng nhớ và viết lưu bút tại Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công ở thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam_

Đất nước thống nhất, với tài năng, uy tín của mình, đồng chí Võ Chí Công tiếp tục được Đảng, Nhà nước giao phó nhiều trọng trách. Phát huy kinh nghiệm trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là kinh nghiệm trong lãnh đạo ở Khu 5, đồng chí Võ Chí Công đã có sự vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Dù ở cương vị công tác nào, đồng chí cũng để lại nhiều dấu ấn quan trọng, góp phần vào sự phát triển của đất nước.

Với những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp cách mạng, đồng chí Võ Chí Công trở thành một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, một anh “Năm Công” gần gũi và trìu mến trong lòng nhân dân. Quá trình hoạt động cách mạng liên tục, trải qua nhiều vị trí lãnh đạo khác nhau, dù ở đâu, làm việc gì, đồng chí cũng đem hết trí tuệ, tài năng, sức lực để cống hiến cho Đảng và nhân dân, luôn đặt lợi ích chung của cách mạng lên trên, lên trước lợi ích cá nhân. Nhân dịp kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Võ Chí Công, chúng ta nguyện học tập tấm gương sáng của đồng chí, quyết tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, góp phần xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

-----------------------

(1) Đồng chí Võ Chí Công tên khai sinh là Võ Toàn, sinh ngày 7-8-1912, tại làng Khương Mỹ, tổng Phú Quý, phủ Tam Kỳ, nay thuộc thôn Khương Mỹ, xã Tam Xuân 1, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam.
(2) Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước/ Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 310
(3) Võ Chí Công: Trên những chặng đường cách mạng (hồi ký), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 176
(4) Một số ý kiến về lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng bộ Khu 5 từ năm 1954 đến năm 1970 - Ý kiến của anh Năm Công gửi Trường Đảng khu Khóa 16, Tài liệu Viện Lịch sử Đảng. K5/23.6, 13
(5) Võ Chí Công: Trên những chặng đường cách mạng (hồi ký)Sđd, tr. 178 - 179
(6) Đỗ Mười: Đồng chí Võ Chí Công - Người cộng sản kiên cường - Nhà lãnh đạo tài năng của Đảng. In trong sách: Ban Tuyên giáo Trung ương - Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh - Tỉnh ủy Quảng Nam: Đồng chí Võ Chí Công với cách mạng Việt Nam và quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 27
(7) Cuối năm 1958, Trung ương điều động đồng chí Trần Lương ra Trung ương, đồng chí Võ Chí Công giữ cương vị Bí thư Liên khu ủy.
(8) Tỉnh ủy Quảng Nam - Ban Tuyên giáo: Kỷ yếu Hội thảo căn cứ Liên Khu ủy 5 tại các huyện Bến Hiên, Bến Giằng, tỉnh Quảng Nam (1955-1959), Tam Kỳ, tháng 7-2012, tr. 39
(9) Tỉnh ủy Quảng Nam: Võ Chí Công - Người con ưu tú của quê hương Quảng Nam Đà Nẵng, 2008, tr. 325
(10) Từ ngày 16-2 đến ngày 3-3-1962
(11) Từ 5-1961, Bộ Chính trị quyết định tổ chức chiến trường Liên khu 5 thành 2 khu: Khu 5 và Khu 6, thành lập Quân khu 5 và Quân khu 6.
(12) Bộ Tư lệnh Quân khu V: Khu 5 - 30 năm chiến tranh giải phóngcuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (thời kỳ 1954 - 1968), 1989, t. II, tr. 205
(13) Trong đợt này, quân và dân Khu V đã tiến công vào 10 thành phố, thị xã, 20 thị trấn (quận, lỵ), diệt 20.000 quân địch, đánh thiệt hại nhiều cơ quan hành chính tỉnh, quận, nhiều cơ quan chỉ huy quân sự địch.


Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?

 

10 năm qua (2012-2022), đã có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Riêng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã đưa vào diện theo dõi, chỉ đạo gần 1.000 vụ án, vụ việc ở 3 cấp độ; đã đưa ra xét xử sơ thẩm 120 vụ án, 1.083 bị cáo, trong đó có 37 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý hình sự.

Nhiều “quan chức” cấp cao hầu tòa khiến dư luận cộm lên một câu hỏi: Lỗi ấy do đâu? Một câu hỏi nhức nhối và đó là lý do nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân tổ chức loạt bài này.

 “Bẫy” suy thoái không cấp thẻ miễn trừ

Không tự giác sẽ biến mình thành người có tội

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “Tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa ngay tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”. Nhận định ấy có nghĩa là, nơi nào có quyền lực nhà nước thì nơi ấy có nguy cơ xảy ra tham nhũng.

Nhận định ấy cũng rất đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh, khi mà từ 70 năm trước (năm 1952), Người từng viết: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng”.

Phát biểu trước tòa, ông Đinh La Thăng cựu Ủy viên Bộ Chính trị, người từng được Đảng, Nhà nước giao rất nhiều trọng trách, đã rơi nước mắt nhắc lại những năm tháng tuổi trẻ với sự hy sinh, cống hiến tuổi xuân trên công trường thủy điện Sông Đà. Nghe ông nói, không ai phủ nhận ông đã có một thời tuổi trẻ sôi nổi, với một lý tưởng sống rất đẹp. Nhưng khi bước lên những nấc thang của quyền lực, đứng đầu một tập đoàn kinh tế, đứng đầu một bộ, ông đã cố ý (hoặc vô tình) làm trái các quy định của pháp luật, gây ra những hậu quả to lớn, nghiêm trọng cho kinh tế đất nước.

Ông nắm rõ quy định của pháp luật về quản lý tài sản Nhà nước, nhưng vẫn cố tình thu xếp cho Công ty Yên Khánh của Đinh Ngọc Hệ trúng thầu quyền thu phí một tuyến cao tốc, gây thất thoát 725 tỷ đồng. Ông biết rõ việc góp vốn của Nhà nước vào OceanBank là trái thẩm quyền, không đúng chức năng nhưng vẫn cố tình ký kết, làm thất thoát 800 tỷ đồng... Đó chỉ là hai trong nhiều vụ án mà ông Đinh La Thăng bị khởi tố, cho thấy ông đã “tự tung, tự tác”, tự cho mình quyền coi thường kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Ông Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, người giữ vai trò quyết định trong thực hiện dự án MobiFone mua 95% cổ phần AVG bất chấp quy định của pháp luật. Hành vi của ông Son và đồng phạm gây thiệt hại tài sản Nhà nước 6.500 tỷ đồng. Riêng ông Son nhận 3 triệu USD tiền hối lộ trong vụ việc này. Một hành vi tham ô khủng khiếp, không gì bào chữa được. Ông Son từng là sĩ quan quân đội, đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, nhưng những phẩm chất cao quý mà ông tích lũy được trong quân ngũ đã bị bắn gục bởi “viên đạn bọc đường” khi đã lên đến một nấc rất cao của danh vọng.

Hàng loạt “quan chức” hầu tòa: Lỗi cơ chế hay phẩm chất?

Ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương là một ví dụ điển hình về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ông đã sử dụng quyền lực được nhân dân ủy thác để vụ lợi trong việc tiếp nhận, bổ nhiệm con trai là Vũ Quang Hải làm kiểm soát viên Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam; quyết định điều động và đề cử Vũ Quang Hải tham gia Hội đồng quản trị Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) để bầu làm thành viên Hội đồng quản trị, Phó tổng giám đốc Sabeco. Trên cương vị Bộ trưởng, ông Vũ Huy Hoàng đã có ý kiến chỉ đạo Sabeco góp vốn bằng quyền sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng (TP Hồ Chí Minh) và tiền của Sabeco để thành lập liên doanh Sabeco Pearl, đầu tư thực hiện dự án "xây dựng khách sạn 6 sao" tại khu đất trên. Sau đó, ông lại chỉ đạo Sabeco thoái toàn bộ vốn góp tại Sabeco Pearl, dẫn tới quyền quản lý, sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng bị chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân trái pháp luật, gây thất thoát hơn 2.700 tỷ đồng. Những hành vi của ông đã vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm và quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; vi phạm Luật Phòng, chống tham nhũng, gây bức xúc trong xã hội.

Nếu nhắc tới sự tha hóa phẩm chất khi đã ngồi vào vị trí “chức trọng, quyền cao", chúng ta không khỏi đau xót khi nhắc đến ông Nguyễn Đức Chung, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội. Ông trưởng thành trong ngành công an, từng là người cảnh sát hình sự nổi tiếng dũng cảm, từng lập được không ít chiến công trên lĩnh vực phòng, chống tội phạm, được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, trở thành một vị tướng công an khi độ tuổi còn trẻ. Với những phẩm chất đáng quý đó, người dân từng tràn trề hy vọng ông sẽ có những đóng góp xứng đáng khi trở thành người đứng đầu chính quyền TP Hà Nội. Nhưng sự suy thoái không có “thẻ miễn trừ” với bất kỳ ai, khi ông sa vào chủ nghĩa cá nhân, khi ông bỏ quên sự tu dưỡng, rèn luyện các phẩm chất đạo đức và để chủ nghĩa danh lợi lấn át. Ông bị tòa án tuyên phạm tội "chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước"; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” với tổng mức hình phạt trong 3 vụ án là 12 năm tù tính từ ngày bị bắt 28-8-2020. Đáng nói hơn, ông Nguyễn Đức Chung có học vị tiến sĩ luật, rất hiểu biết pháp luật nhưng lại cố tình vi phạm pháp luật.

“Không thích thú gì việc kỷ luật đồng chí, đồng đội của mình, thậm chí rất đau xót, nhưng buộc phải làm. Như Bác Hồ đã nói, phải cắt bỏ một vài cành cây sâu mọt để cứu cả cây”-Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong tiếp xúc cử tri Hà Nội ngày 23-6-2022.

Không thể đổ lỗi cho cơ chế

Một số trường hợp “quan chức” kể trên sa ngã trên những con đường khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung: Họ từng là những cán bộ ưu tú của Đảng, Nhà nước nhưng khi được giao những chức quyền cao cấp, họ đã trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân, đánh mất những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà họ đã đánh đổi cả tuổi xuân để tôi luyện. Ngự trị nơi đỉnh cao quyền lực, họ lơ là phòng bị, để “giặc trong lòng” đánh bại hoàn toàn. Sự tha hóa của những người có quyền lực hoàn toàn không phải là điều xa lạ với những người cộng sản, và không thể đổ lỗi cho bất kỳ cơ chế nào.

Cách đây ngót 180 năm, khi nghiên cứu sự tha hóa của quyền lực nhà nước ở Tây Âu, Các Mác đã đưa ra những cảnh báo: Quyền lực nhà nước càng lớn thì sự tha hóa của nó càng nguy hiểm, nó càng gần với tư cách một lực lượng tự trị thoát khỏi sự kiểm soát của con người. Các Mác coi giới quan chức tạo thành một xã hội đóng kín trong nhà nước. Nhà nước chỉ còn tồn tại dưới dạng những lực lượng quan chức cụ thể khác nhau và với mỗi quan chức cụ thể thì “mục đích nhà nước biến thành mục đích cá nhân của y, thành việc chạy theo chức tước, thành việc mưu danh, cầu lợi”.

Sự tha hóa của giới quan chức là biểu hiện của việc tha hóa quyền lực chính trị, đây dường như là căn bệnh chung của mọi kiểu nhà nước. Các Mác đặc biệt lưu ý sự tha hóa của quyền lực trong nền kinh tế thị trường, đó là hiện tượng tôn thờ đồng tiền, bất chấp đạo lý. Ông đã viết: “Sức mạnh của tiền lớn bao nhiêu thì sức mạnh của tôi cũng lớn bấy nhiêu... Tôi là người xấu, không thật thà, không có lương tâm, ngu ngốc, nhưng tiền được tôn thờ thì người có tiền cũng được tôn thờ, tiền là cái tốt cao nhất thì người có nó cũng tốt”.

Từ phân tích của Các Mác về nguy cơ tha hóa của những người giữ quyền lực mà những người cộng sản đặt ra yêu cầu rất cao của việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Lênin từng yêu cầu phải “lay động các tòa án nhân dân và dạy cho họ biết trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn những kẻ lạm dụng chính sách kinh tế mới”, “đối với người cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài đảng”, “tôi rất mong chúng ta có thể đuổi ra khỏi đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này”.

Lênin cũng cảnh báo hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh chống sự suy thoái của những người giữ quyền lực nhà nước: Một là, quan niệm giản đơn, đây là căn bệnh dễ chữa trị nên những người cộng sản có thể hạn chế, khắc phục nó chỉ trong thời gian ngắn. Hai là, cho rằng đó là thuộc tính xã hội của quyền lực nhà nước nên sự tồn tại của tham nhũng là tất yếu, con người chỉ có thể hạn chế mà không thể xóa sạch nó.

PGS, TS Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên từng trả lời phóng viên Báo Quân đội nhân dân về văn hóa liêm chính trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay: “Trước đây, trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã xây dựng nên một xã hội liêm chính với tinh thần “con cá, chột nưa”, kể cả trong thời bao cấp thì văn hóa “cho không lấy, thấy không xin, xin không cho” vẫn lan tỏa trong xã hội như một nếp sống đẹp. Đến khi mở cửa, hội nhập với thế giới, phát triển kinh tế thị trường, chúng ta đã sớm biết rõ tác hại từ mặt trái của nó, nói một cách hình ảnh là khi ta mở cửa thì cùng với những làn gió tươi mới, mát lành cũng không thể tránh khỏi có cả những làn gió độc bay vào.

“Văn hóa thực dụng” xuất hiện, dẫn tới nhiều cái xấu độc cũng bị ngộ nhận trở thành văn hóa. Đồng tiền chi phối cuộc sống khiến nhiều quan niệm văn hóa bị méo mó, lệch lạc. Ví dụ, bây giờ có những cán bộ liêm chính mà tác phong, lối sống quá giản dị thì thường bị dư luận chê là nghèo, cổ hủ, lạc hậu. Hoặc có những cán bộ trong sạch, gương mẫu nhưng không được xung quanh ủng hộ, cùng lắm là được “kính nhi viễn chi”, được an ủi, động viên riêng lẻ chứ ít được ủng hộ công khai. Hay những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực lại bị chính người thân phản đối, ghẻ lạnh. Đó là những vấn đề khiến văn hóa liêm chính chưa lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng”.

Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh, từ khi trở thành Đảng cầm quyền cho đến nay, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về đạo đức khi được nhân dân giao phó giữ chức trọng, quyền cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ tối cao của dân tộc và Người đã hiến cả cuộc đời cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong lòng dân và trong trái tim nhân loại, Người là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức cộng sản. Trong di sản mà Người để lại cho con cháu mai sau, có một kho báu vô tận đó là nền tảng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.

Vì thế, chẳng phải ngẫu nhiên khi phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực ngày 30-6-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại giãi bày tâm sự: “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt, xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời-sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự vẻ vang của giống nòi và hạnh phúc của nhân dân”.

Bằng con đường thực hành đạo đức cách mạng trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất định những người cộng sản Việt Nam sẽ tránh được “bẫy” suy thoái của quyền lực. Con đường đó không hề bằng phẳng, dễ dàng, thậm chí sẽ phải trả giá bằng việc loại ra khỏi đội ngũ rất nhiều cán bộ cấp cao vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Cùng với thực hành đạo đức cách mạng, Đảng, Nhà nước còn phải thực thi kiểm soát quyền lực. Vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập ở những bài viết tiếp theo.

“Tham nhũng thường diễn ra trong nội bộ, do người có chức, có quyền thực hiện. Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, phải có thái độ thật kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt, cụ thể, hiệu quả. Người đứng đầu phải chịu trách nhiệm về những yếu kém, sai phạm về tham nhũng trong tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương mình”-Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu ngày 30-6-2022.

Bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội

 

Ngày 10-8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã tiến hành chất vấn Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng.

Vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, xuyên suốt trong cả 2 phần chất vấn đối với hai vị bộ trưởng là làm sao để bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội, nhất là trong bối cảnh mạng xã hội phát triển đã tác động không nhỏ tới đạo đức, lối sống.

Những biểu hiện đáng lo của đạo đức xã hội

Trong phần chất vấn Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, hiện nay, môi trường văn hóa, thuần phong mỹ tục bị xâm hại không chỉ ở trong nhà trường, xã hội mà cả trong gia đình. Đặc biệt là trong giới văn nghệ sĩ cũng có hiện tượng xuống cấp về lối sống, đạo đức. 

Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) nêu vấn đề đáng quan tâm nhất về văn hóa hiện nay là xây dựng nếp sống văn hóa, ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức xã hội. Vấn đề này đã được chỉ ra từ lâu nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Đại biểu Lê Hoàng Anh (Gia Lai) đề nghị Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết, việc xuống cấp đạo đức xã hội đang ở phạm vi và mức độ nào, xu hướng thời gian tới và giải pháp ngăn chặn như thế nào? Đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) bày tỏ, vấn đề đạo đức học đường, văn hóa ứng xử trong thời gian qua có nhiều biểu hiện đáng lo ngại, cần có giải pháp căn cơ để hạn chế, khắc phục.

Trả lời về vấn đề đạo đức xã hội, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng dẫn lại đánh giá trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng rằng, văn hóa, đạo đức xã hội có mặt đang xuống cấp. Theo Bộ trưởng, văn hóa vừa là chủ thể, vừa là động lực phát triển, nên đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó có sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của các cấp, ngành và từng thành viên. 

Bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội
Cô và trò Trường Liên cấp Khương Hạ, quận Thanh Xuân (TP Hà Nội) trong giờ học giáo dục thể chất. 

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết, có nhiều vấn đề phiền toái liên quan tới ứng xử của văn nghệ sĩ thời gian qua, trong đó có cả những hành xử phản văn hóa. Bộ VHTTDL đã ban hành quy tắc ứng xử trong nghề nghiệp, lấy giá trị thước đo chân, thiện, mỹ để đấu tranh với cái xấu, cái ác. Mặc dù không phải chế tài, nhưng bộ quy tắc ứng xử có tính chất phạm trù đạo đức để văn nghệ sĩ tự giác thực hiện.

Xây dựng các bộ tiêu chí để phát hiện sự lệch chuẩn

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng chia sẻ, bạo lực gia đình, bạo lực học đường là vấn đề nhức nhối. Bộ VHTTDL vừa ban hành bộ tiêu chí xây dựng gia đình hạnh phúc và quan trọng nhất là vận động thực hiện bộ tiêu chí này. Đây là cuộc cách mạng lâu dài, tinh thần là phải nhân lên cái tốt. Vì vậy, bộ có chủ trương khuyến khích việc biểu dương các gia đình tiêu biểu, gia đình văn hóa với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, từ đó tuyên truyền, nhân lên những hình ảnh đẹp trong cộng đồng gia đình, để góp phần lưu truyền giá trị văn hóa gia đình tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Bộ VHTTDL đang tập trung vào vấn đề xây dựng môi trường văn hóa trong trường học và phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) để xây dựng bộ tiêu chí môi trường văn hóa học đường. Bộ VHTTDL mong muốn khơi dậy ở học sinh vai trò là chủ thể trong xây dựng đạo đức, lối sống biết tự giác, biết khuôn mẫu, trên tinh thần phát hiện những nhân tố tích cực để bồi dưỡng, lan tỏa.

Cùng trả lời về nội dung này, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nêu rõ, giáo dục hiện nay đang lấy việc dạy làm người là nội dung trọng tâm và ưu tiên, nên vấn đề về văn hóa học đường, ứng xử trong trường học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bộ GD&ĐT rất chú ý đến vấn đề này và đã triển khai nhiều hoạt động, nhiều chính sách có liên quan. Trong đó, việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018 là giải pháp toàn diện để tăng cường tố chất văn hóa và phát triển con người. Bộ GD&ĐT đã tham mưu cho Chính phủ trong việc chuẩn bị, ban hành chỉ thị về việc tăng cường triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường. Việc triển khai nhiều nội dung của chỉ thị này sẽ tạo ra chuyển biến tốt đối với các vấn đề về văn hóa học đường...

Phát biểu kết luận nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, UBTVQH yêu cầu Bộ VHTTDL tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp xây dựng nếp sống văn hóa, giáo dục đạo đức, lối sống, nhất là cho thế hệ trẻ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử; xây dựng, hoàn thiện các bộ quy tắc ứng xử trong cơ quan, tổ chức, cộng đồng, địa bàn dân cư và cả trên không gian mạng.

Dọn "rác" trên không gian mạng

Hầu hết các giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được luật pháp bảo vệ, trong đó có pháp luật về hình sự. Bởi thế, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội thông qua việc xử lý nghiêm tội phạm, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội trên không gian mạng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng cũng được nhiều đại biểu Quốc hội đặt ra với Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trong phần chất vấn sáng 10-8.

Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm khẳng định, Bộ Công an đã thực hiện các giải pháp để bảo đảm sự lành mạnh trên mạng xã hội. Tuy nhiên, để lành mạnh hóa mạng xã hội thì có vai trò rất quan trọng của nhân dân, của người sử dụng mạng xã hội. Người sử dụng mạng xã hội phải biết tìm hiểu thông tin và sử dụng mạng xã hội một cách lành mạnh nhất.

Tham gia trả lời về xử lý tình trạng thông tin sai sự thật trên không gian mạng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Bộ Thông tin và Truyền thông đã làm việc với các nền tảng xuyên biên giới thực thi tại Việt Nam và các nền tảng như Facebook, YouTube đã nâng tỷ lệ đáp ứng yêu cầu của các cơ quan nhà nước từ dưới 20% năm 2018 lên 90-95%. Trước năm 2018, chỉ có khoảng 5.000 tin video sai sự thật bị bóc gỡ, đến nay, số lượng thông tin xấu, độc, sai sự thật được bóc gỡ tăng lên 20 lần, với gần 100.000 tin video bị bóc gỡ.

Bộ đã thành lập và vận hành Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia với khả năng xử lý tới 300 triệu tin mỗi ngày để phát hiện sớm các thông tin xấu, độc, sai sự thật. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc bóc gỡ thông tin sai sự thật trên không gian mạng cũng như việc dọn "rác" trên không gian mạng. Bộ đang soạn thảo chỉ thị của Thủ tướng về việc các bộ, ngành, địa phương cũng có trách nhiệm lên không gian mạng để phát hiện, tiếp nhận và xử lý "rác" thuộc lĩnh vực quản lý, làm sạch không gian mạng. Bộ cũng đã ban hành bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng nhằm xây dựng các chuẩn mực về hành vi ứng xử trên mạng xã hội...

Phó thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phân tích, tốc độ lan truyền của thông tin trên mạng rất lớn. Thống kê của thế giới cho thấy, tốc độ tác động và lan truyền của thông tin xấu trên mạng còn nhanh hơn 6-7 lần tốc độ tác động và lan truyền của thông tin tốt trên mạng. Do vậy, một thông tin phản văn hóa và xấu trên mạng xã hội tác động lớn hơn rất nhiều lần so với một hiện tượng xấu khi chưa có mạng xã hội. “Chúng ta đã ban hành Luật An ninh mạng, các nghị định có liên quan, chúng ta một mặt phủ thông tin tốt để che thông tin xấu và bắt đầu xử lý rất nghiêm, kể cả xử lý hình sự những đối tượng lợi dụng mạng xã hội, lợi dụng internet xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói.

Phát biểu kết luận nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, UBTVQH yêu cầu sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý trong lĩnh vực an ninh mạng, bảo đảm an toàn với hệ thống an ninh mạng quốc gia, sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng. Bộ Công an cần làm tốt công tác nắm tình hình, dự báo, có giải pháp kịp thời với những vấn đề thực tiễn mới phát sinh về an ninh mạng, đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia; chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng hạ tầng công nghệ, bảo đảm an toàn an ninh mạng một cách tự chủ, đủ khả năng chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng.

Quản lý chặt chẽ thông tin trên internet và mạng xã hội trên cơ sở luật pháp và các điều ước quốc tế. Sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng internet, mạng xã hội, báo chí. Chủ động đấu tranh, ngăn chặn, gỡ bỏ, triệt phá, vô hiệu hóa thông tin xấu, độc, tin giả, tin sai sự thật, xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phá hoại quan hệ quốc tế của đất nước ta. Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện và thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trên không gian mạng, yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet quản lý chặt chẽ thông tin trên không gian mạng.

Những âm mưu và thủ đoạn mới trong hoạt động chống phá của các thế lực thù địch

 Chống phá chủ nghĩa xã hội, trong đó có cách mạng Việt Nam là âm mưu lâu dài, nhất quán và hoạt động thường xuyên của các thế lực thù địch. Hiện nay, một số thế lực chuyển hướng chống phá cách mạng nước ta bằng phương thức phi vũ trang thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”.

           “Diễn biến hòa bình” là một bộ phận trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch với những phương thức hành động tổng lực, phức hợp, rộng lớn; được tiến hành trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, xã hội bằng mọi biện pháp. Âm mưu thâm độc mới mà các thế lực thù địch đang tăng cường là sử dụng con đường ngắn nhất để lôi kéo Việt Nam theo họ, dùng chính trị tác động đến thể chế xã hội, dùng kinh tế để chi phối sự lãnh đạo của Đảng, dùng văn hóa phương Tây để làm lu mờ bản sắc văn hóa và tinh thần dân tộc Việt Nam, dùng quần chúng để làm tăng sự đối lập giữa quần chúng với Đảng, với chế độ.

          Với ý đồ đó, các thế lực thù địch thực hiện một loạt các bước chống phá được che đậy trong các hoạt động như ngoại giao thân thiện, chi phối đầu tư, viện trợ kinh tế, cấp học bổng cho sinh viên, nghiên cứu sinh, trao các giải thưởng cho các văn nghệ sĩ biến chất, tiếp cận và lôi kéo các phần tử thoái hóa để lũng đoạn nội bộ ta. Chúng ráo riết chống phá bằng các chiêu trò vừa công khai, vừa bí mật, kết hợp bên trong với bên ngoài ra sức tuyên truyền những quan điểm phản động hòng làm thay đổi quan điểm, lập trường chính trị của một số phần tử và phổ biến lan truyền nhân rộng đối tượng, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm xói mòn và suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, làm suy yếu hệ thống chính trị của chúng ta.

          Thời gian qua, các thế lực phản động gia tăng các hoạt động “diễn biến hòa bình” trên các phương tiện thông tin đại chúng và Internet. Chúng duy trì sử dụng 63 đài phát thanh có chương trình Việt ngữ, trên 400 báo, tạp chí, 88 nhà xất bản tiếng Việt, hàng nghìn Website, blog. Trên các phương tiện đó, chúng đăng tải hàng ngàn, thậm chí hàng vạn tin, bài xuyên tạc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Chúng thúc đẩy hình thành các hội, nhóm “xã hội dân sự” trong nước, hậu thuẫn cho những hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng chống chế độ; ủng hộ, cổ vũ, tài trợ cho các tổ chức, cá nhân có biểu hiện hoạt động chống đối trong nước, tạo điều kiện kết nối với các mạng lưới phản động ngoài nước, tìm cách đưa người ra nước ngoài huấn luyện và tung về nước hoạt động chống phá.

          Nhận diện những âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch, mỗi người dân Việt Nam ta cần nêu cao cảnh giác, tránh mắc vào những âm mưu thủ đoạn đó để không vô tình bị kéo theo, làm tổn hại đến quá trình phát triển của đất nước.

Bác bỏ luận điệu sai trái, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là nguyên tắc Hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, nguyên tắc bảo đảm sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội của nước ta là sự nghiệp cách mạng của toàn dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

          Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời là lực lượng lãnh đạo hệ thống đó. Vì vậy, Nhà nước là một thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tất yếu phải do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng. Mọi hoạt động của Nhà nước, cũng như việc tổ chức xây dựng và phát huy vai trò hiệu lực của Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, ngoài ra không lực lượng nào có quyền nắm và lãnh đạo Nhà nước. Đây là vấn đề thuộc về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đồng thời cũng là một nguyên tắc hiến định, đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 và nay là Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo vệ Nhà nước.

           Hiện nay, các thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội. Chúng lên tiếng cho rằng, ở Việt Nam không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các lực lượng chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu những năm 80 của thế kỷ trước, tiếc rằng có một số người vẫn cổ xúy cho thủ đoạn trên, mà không biết những hậu quả khôn lường đối với đất nước, đối với xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị đặt ngoài Hiến pháp. Những người có lương tri trên thế giới không thể không nhớ đến sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã năm 1991, những người dân chủ cấp tiến hả hê khi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị đặt ngoài Hiến pháp, khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) bị phá bỏ. Trên đất nước đó, sau những biến cố thăng trầm, chính Tổng thống Nga V. Putin trong cuộc gặp các đảng phái chính trị của Nga tại Điện Kremlin ngày 23/9/2016 cho rằng,Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX, sự kiện Liên Xô sụp đổ không chỉ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX mà rất có thể là cả trong lịch sử chính trị thế giới, để lại những hậu quả có tính toàn cầu về tư tưởng, văn hóa, chính trị, kinh tế - xã hội và an ninh.

          Những ai đó nếu còn phản bác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thiết tưởng cần nhớ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị phá vỡ, để lại những hậu quả nặng nề trong không gian hậu Xô viết cho đến ngày nay.

Kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một chủ trương vô cùng đúng đắn của Đảng và Nhân dân ta. Nhưng chính vì thế mà các thế lực thù địch thường xuyên điên cuồng chống phá nhằm ngăn cản quá trình đi lên của cách mạng nước ta.

          Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của Trung ương”.

           Trong quá trình đổi mới và cải cách đó, chúng ta nhận rõ một sự thăng hoa rõ rệt của nhận thức lý luận của Đảng ta trong vấn đề Nhà nước pháp quyền. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đưa yêu cầu đó lên thành quy tắc hiến định (Điều 2 Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 và nay tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013) thể hiện sự thừa nhận và sự kết hợp tính phổ biến của một giá trị lịch sử nhân loại với những nét đặc trưng, những giá trị độc đáo của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đánh giá về thành tựu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. 

Nhận diện chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch đối với quân đội

 Gần đây, các thế lực thù địch có luận điệu mới nhằm chống phá cách mạng nước ta đó là đưa ra luận điểm về “Quân đội trung lập, Quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, không bảo vệ Đảng…” vì một chế độ chính trị một đảng hay nhiều đảng thì do Nhân dân bầu ra chứ không phải do quân đội.

          Đây là luận điểm phi lý, bởi vì trong bất kỳ xã hội nào, bản chất của quân đội cũng là bản chất của giai cấp cầm quyền, nên không thể có một quân đội nào lại không phục vụ giai cấp, đứng ngoài giai cấp. Lênin đã đề ra nguyên tắc căn bản để xây dựng quân đội kiểu mới, Người viết “Hãy chăm lo đến khả năng quốc phòng của nước ta và chăm lo đến Hồng Quân như chăm lo đến con ngươi trong mắt mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ khi đặt tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã có nghĩa là chính trị, trọng hơn quân sự “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

          Cùng với đó, thế lực thù địch phát động nhiều chiến dịch với nhiều đợt tấn công vào quân đội với tần suất, phương thức, thủ đoạn, luận điệu hết sức thâm độc, nổi lên là: Tiếp tục chiến dịch tấn công vào mục tiêu lý tưởng chiến đấu, bản chất, truyền thống, chức năng, nhiệm vụ của quân đội, phớt lờ những thành tích, chiến công, thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm, suy diễn “mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội đã thay đổi” nên đã bị “khuất phục, làm ngơ trước sự xâm lấn biển, đảo của Trung Quốc”; qua đó, chúng đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, cổ súy, kêu gọi phải “dân sự hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội;  Lợi dụng một số thông tin, tư liệu, sử liệu chưa thống nhất, chúng phát tán nhiều tin, bài, video clip, phóng sự, bình luận, suy diễn, áp đặt ý kiến chủ quan gây nghi ngờ, mâu thuẫn giữa cán bộ quân đội với cựu chiến binh, giữa cựu chiến binh và những nhân chứng lịch sử; phát động phong trào xét lại lịch sử quân đội, dân tộc;  Lợi dụng việc kiện toàn nhân sự cán bộ cấp cao quân đội, chúng phát tán nhiều thông tin xấu độc trên MXH về các vấn đề liên quan đến tài sản, đời tư, mối quan hệ các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo cấp cao Bộ Quốc phòng nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín, gây nghi ngờ giữa các đồng chí cán bộ chủ chốt của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và trong nội bộ quân đội.

          Đây thực ra cũng chỉ là chiêu trò bình mới rượu cũ nhằm tách sự chỉ đạo tuyệt đối toàn diện của Đảng đối với Quân đội, cuối cùng là làm suy yếu Đảng. làm chậm quá trình phát triển của nước ta của các thế lực thù địch mà thôi.

Tỉnh táo trước những thông tin xuyên tạc của những thế lực thù địch

 Thông tin xã hội bao giờ cũng mang tính giai cấp. Mỗi giai cấp có thái độ khác nhau, cách sử dụng thông tin khác nhau. Mỗi thông tin dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng mang dấu ấn của một hệ tư tưởng nhất định. Không thể và không thể có thông tin xã hội nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai cấp, các đảng phái sử dụng nó. Đây là đặc điểm chủ yếu làm nên bản chất của thông tin xã hội, phân biệt thông tin xã hội với các dạng thông tin khác.

          Các nhà xã hội học tư sản ra sức chứng minh tính phi giai cấp, phi tính đảng của thông tin. Họ viện dẫn rằng các thông tin đều là sự phản ánh chung và được truyền tải thông qua các phương tiện, công nghệ thông tin thống nhất trong việc xử lý, phổ biến thông tin. Điều này làm nên sự giống nhau của mọi thông tin xã hội. Song dù phương diện kỹ thuật của công tác thông tin như nhau thì thông tin xã hội không nằm ngoài những lợi ích và mục tiêu của các giai cấp sử dụng nó.

Sự phát triển của đất nước ta đang diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế vô cùng phức tạp. Các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội, bất mãn chính trị không ngừng các hoạt động chống phá trên các lĩnh vực với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nhằm chia rẽ nội bộ, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Nội dung sự chống phá không mới, song hình thức, thủ đoạn chống phá thường xuyên thay đổi, sức công phá của thông tin chống phá này tăng mạnh mẽ hơn. Cách thức thông tin của các thế lực thù địch phổ biến hiện nay là sử dụng thông tin bịa đặt, xuyên tạc, thông tin chỉ có một phần sự thật, với dụng ý xấu. Ngoài ra, còn kể tới hiện tượng thông tin dưới danh nghĩa tự do tư tưởng, dân chủ, phi chính trị... phản ánh cái nhìn xét lại, công kích những sự kiện lịch sử đã diễn ra nhằm làm cho mọi người hoang mang, lung lay tư tưởng.

          Bên cạnh đó, cuộc chiến chống tham nhũng của nước ta càng mạnh mẽ thì đồng thời thông tin xuyên tạc, bịa đặt, cố tình làm sai lệch chủ trương, phương thức lãnh đạo của Đảng với mục đích giảm niềm tin trong nhân dân vào đội ngũ cán bộ, đảng viên, vào vai trò của Đảng càng nhiều hơn, xuất hiện dày đặc hơn, cường độ bịa đặt xuyên tạc mạnh mẽ hơn. Mặt khác, lợi dụng giá trị của lòng yêu nước trong nhân dân, các thế lực thù địch thường xuyên xuyên tạc những vấn đề về chủ quyền biển đảo nhằm làm hoang mang trong nhân dân.

          Đối với quần chúng nhân dân, nhận diện thông tin này không dễ bởi sự bịa đặt được thực hiện trên cơ sở một phần sự thật, lắp ghép sự phản ánh một cách phi logic, phi lịch sử nhưng lại “đánh trúng” tâm lý tò mò, đánh vào sự hoang mang dao động của một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên. Nếu không kịp thời và mạnh mẽ xử lý, những loại thông tin độc, xấu trên sẽ công phá nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng, sự tồn vong của Đảng, sự ổn định và phát triển xã hội Việt Nam hiện nay./.

Cha xứ xúi giục để con chiên đi tù..!

 Ngày 13/7/2022 lực lượng chức năng huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An triển khai kế hoạch bảo vệ việc thi công con đường thuộc quy hoạch dự án khu công nghiệp WHA, phục vụ dự án phát triển.

Trong quá trình triển khai, các đối tượng quá khích thuộc giáo xứ Bình Thuận - xã Nghi Thuận, dưới sự chỉ đạo, kích động của linh mục Nguyễn Đình Thục đã tập trung ra cản trở thi công, tấn công lực lượng chức năng đang thực hiện nhiệm vụ. Chúng livestream, hô hào trên Facebook, kích động người dân tập trung tại hiện trường trong dó nhiều lần kêu gọi " chị em phụ nữ lên đi".

Thành phần gây rối chủ yếu là giáo dân Nghi Thuận, Nghệ An. Trong đám đông hỗn độn ấy, chỉ một bộ phận nhỏ là ý thức được việc mình làm, còn đại đa số đều bị dắt mũi giật dây như những con rối, tham gia trò chơi chính trị tôn giáo. Tất nhiên, như mọi khi, kẻ đứng sau kích động có bóng dáng của quạ đen linh mục Nguyễn Đình Thục.

Không dừng lại ở đó, các thế lực thù địch, chống phá cách mạng nước ta còn đang âm thầm kích động, xúi giục người dân biểu tình, gây rối ở nhiều địa phương khác trong cả nước. Thủ đoạn của bọn chúng là thông qua trang mạng xã hội Facebook của số đối tượng phản động đã đăng tải thông tin kêu gọi, kích động biểu tình. Các thông tin này liên tục được đăng tải, chia sẻ các bài viết, hình ảnh có nội dung xuyên tạc. Các thế lực thù địch, phản động, chống phá cách mạng tuyên truyền với những luận điệu xuyên tạc.

Ngoài ra, các thế lực thù địch, chống phá cách mạng còn dùng thủ đoạn dụ dỗ, cho tiền để lôi kéo người dân tham gia biểu tình, gây rối. Trong đó, những đối tượng có nhân thân lai lịch xấu, bất mãn, từng nhiều lần bị xử phạt về tội gây rối trật tự công cộng, các tội xâm phạm an ninh quốc gia... thường xuyên có mặt để cổ vũ, kích động quần chúng nhân dân có các hoạt động gây mất an ninh trật tự. Về sau số người dân hiếu kỳ tham gia đông, các thế lực thù địch, phản động chụp ảnh, quay phim để tung lên mạng xã hội tuyên truyền mang “màu sắc chính trị”.

Trước những luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, cán bộ và nhân dân cả nước cần nêu cao tinh thần cảnh giác, phòng ngừa, tố giác tội phạm. Đồng thời, cần tỉnh táo, không mắc mưu, không nghe theo sự xúi giục, kích động gây rối của những phần tử xấu, của các thế lực thù định; không tham gia tuần hành, biểu tình, không có các hành vi quá khích, vi phạm pháp luật. Kiên quyết đấu tranh có hiệu quả với các thế lực thù địch nhằm giữ vững ổn định an ninh trật tự, trật tự an toàn cho xã hội và sự bình yên cho Tổ quốc. Và trên hết đừng để lòng yêu nước của nhân dân ta bị lợi dụng./.

Giáo dục thời Pháp thuộc như này mà VTV kêu giặc Pháp cải cách!

 Khi đô hộ Việt Nam, nhu cầu cấp bách của người Pháp là phải hủy diệt nền Nho học và thay thế bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho guồng máy cai trị nhằm mục đích:

- Thứ nhất nhằm đào tạo lớp người thừa hành chính sách của Pháp là cai trị và khai thác ở Việt Nam và cả Đông Dương.

- Thứ hai là truyền bá tư tưởng Pháp, lòng biết ơn sự khai hóa của Pháp và sự trung thành với Pháp.

- Cuối cùng với mục đích mị dân, làm người Việt tin rằng hệ thống giáo dục của Pháp ở Việt Nam là văn minh và tiến bộ. Hai mục đích đầu là căn bản, mục đích thứ ba chỉ dùng để đối phó với sự đòi hỏi một nền giáo dục tiến bộ của người Việt trong tương lai mà thôi.

Đây là hệ thống "Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ”, thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt. Trong nền giáo dục này tiếng Pháp là chuyển ngữ tức tiếng Pháp được dùng để trao đổi trong lớp học (giảng bài, làm bài, sách giáo khoa viết bằng tiếng Pháp). Riêng ba lớp Tiểu Học đầu là được dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, sau đó tiếng Việt được học như một ngoại ngữ.

Hệ thống giáo dục Pháp-Việt gồm 2 phần: giáo dục phổ thông và giáo dục cao đẳng chuyên nghiệp, đại học.

Khi hình thành đầy đủ, hệ thống giáo dục phổ thông Pháp-Việt có 3 bậc với học trình là 13 năm:

- Tiểu học: 6 năm

- Cao đẳng tiểu học: 4 năm

- Trung học: 3 năm

Với bằng Tiểu học này, người học trò (nhiều người ở tuổi 24, 25) có thể xin là thầy trợ giáo, (dạy sơ cấp: lớp năm, bốn, ba), làm thông ngôn hay ký lục - với lương tháng 5 đồng (lính khố xanh: 2 đồng, bộ đồ Âu Phục: 2.5 đồng). Để khuyến khích việc học chữ Tây, nhiều công sứ Pháp cho tổ chức lễ vinh quy bái tổ và rước thầy Khóa Sanh về làng - với cờ đuôi nheo, chiêng trống... như đón ông Nghè ngày xưa.

Các trường dạy bậc Cao Đẳng Tiểu Học được gọi là Collège, học trình 4 năm, hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Khi học xong 4 năm được thi lấy bằng Cao Đẳng Tiểu Học (Diplôme d’Étude Primaire Supérieurs Franco-Indigène) còn gọi là bằng Thành Chung. Phải có bằng Thành Chung mới được dự thi lên bậc Trung Học tức bậc Tú Tài.

Đậu được bằng Thành Chung, học sinh theo học trường Cao Đẳng Đông Dương, làm thầy giáo (dạy lớp nhì, lớp nhất), hay đi làm thông ngôn chánh, thông phán hạng nhất tòa Sứ.

Đa số các nhà văn, nhà báo,... thời này chỉ có đến bằng Thành Chung là cùng. Ngay cả các vị trí thức nổi tiếng như thượng thư Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn,... cũng chỉ ở trình độ đó.

Bậc Trung Học còn được gọi là bậc Tú Tài Pháp-Việt, học trình gồm 3 năm. Học xong 2 năm đầu được thi lấy bằng Tú Tài phần thứ nhất (Baccalauréat, 1ère partie). Đậu bằng này được học tiếp năm thứ ba không phải thi tuyển. Học xong năm thứ 3 trung học được thi lấy bằng Tú Tài Toàn Phần.

Với bằng Tú Tài Toàn Phần, người học trò có căn bản vững chắc, nói và viết tiếng Pháp rất giỏi có thể học lên Đại Học Đông Dương (đại học duy nhất cho cả 3 nước Việt, Miên, Lào) hay đi du học bên Pháp, hay đi dạy học ở các trường Cao Đẳng Tiểu Học, làm công chức ở Phủ Toàn Quyền, Tòa Thống Đốc Nam Kỳ, Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ, Tòa Khâm Sứ Trung Kỳ ... Tuy nhiên, thi vào học ở những trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp vẫn là lý tưởng cho sinh viên nghèo ở nước ta (phi cao đẳng bất thành phu phụ). Trước năm 1925, trường Cao Đẳng tuyển sinh viên, chỉ là bằng Thành Chung. Bây giờ thì ứng viên phải có Tú Tài Tòan Phần. Đó là các trường cao đẳng chuyên nghiệp ở Hà Nội như: Sư Phạm, Công Chánh, Thú Y, Canh Nông, Mỹ Thuật ... Sinh viên được huấn luyện ba năm, sau khi tốt nghiệp (là trình độ Cử Nhân= Licencié) trở thành những cán bộ nòng cốt (cao cấp) cho nền đô hộ Pháp tại Việt Nam. Trước Thế Chiến Thứ Hai, tỷ lệ học sinh ở trình độ tiểu học là 1.1% còn cao đẳng tiểu học là 0.02%. Cả hai tỉ lệ đều không thể chấp nhận được! Đó là kết quả của Sứ mạng "văn minh hóa" của mẫu quốc Pháp tại Việt Nam!