Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2022

VLADIMIR PUTIN, NGƯỜI BẠN LỚN CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM

 


Khi sang thăm Việt Nam, vào Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vòng hoa kính viếng, Vladimir Putin nói: “Hồ Chí Minh là một nhân cách văn hóa lớn của nhân loại!”

Khi nhắc đến quan hệ Việt Nam - Nga, Vladimir Putin viết:

“Tình hữu nghị giữa Nga và Việt Nam đã vững vàng vượt qua được những thử thách nảy sinh từ nhiều sự kiện bi thương của thế kỷ 20 cũng như những biến đổi kỳ vĩ trên thế giới và ở hai đất nước chúng ta. Song có một điều còn mãi không bao giờ thay đổi - đó là quan hệ tôn trọng lẫn nhau, là truyền thống tin cậy và giúp đỡ lẫn nhau. Là biết trân trọng sự giúp đỡ vô tư không hề vụ lợi của các đối tác KHÔNG KHI NÀO PHẢN BỘI.

Về điều này tôi muốn dẫn ra đây những lời nói nổi tiếng của CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH: “Uống nước nhớ nguồn”. Tôi coi những lời này là sự ủy thác tinh thần cho các thế hệ công dân hôm nay và mai sau của hai đất nước chúng ta. Nhất định phải ghi nhớ về những trang sử chung, về những gì gắn bó chúng ta. Đó chính là sự đảm bảo tính kế thừa và sự bền vững cho mối quan hệ hướng đến tương lai của chúng ta.”

Và khi có một phóng viên phương Tây hỏi VIỆT NAM - NGA MỐI QUAN HỆ CỦA TÌNH HỮU NGHỊ THUỶ CHUNG, SÂU SẮC? Vladimir Putin chỉ ngắn gọn:

“Điều ấy cả thế giới đều biết, chỉ riêng anh không biết. Điều ấy không cần phải quảng cáo.”

Vâng, điều ấy không cần phải quảng cáo. Vladimir Putin! Ông là Người bạn lớn của Nhân dân Việt Nam!

Từng ấy năm trong nghề mà lần đâu tiên tôi nghe thấy cái loại án là "án thái độ".

 

Từng ấy năm trong nghề mà lần đâu tiên tôi nghe thấy cái loại án là "án thái độ".

Đó là cách gọi của Đài Á châu Tự do (RFA) đối với vụ án Phạm Đoan Trang mà sắp đưa ra xét xử phúc thẩm trong tháng 8 này.

Lý giải cho cái gọi là "án thái độ", RFA cho rằng ở vụ án này, Trang không có tội và Trang kiên quyết không nhận tội, không xin giảm nhẹ án nên vì thái độ đó mà họ dự đoán Tòa sẽ y án sơ thẩm.

Nói về tội của Trang thì tôi đã có nhiều bài viết, cộng với báo chí truyền thông cũng đưa rất nhiều rồi, có thể nói bản án 9 năm về tội Tuyên truyền chống Nhà nước với những hành vi của Trang là đúng người, đúng tội.

Việc Trang không thành khẩn khai báo trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khiến ả không được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Ở phiên tòa phúc thẩm, dù Trang có xin giảm nhẹ án cũng khó được Hội đồng xét xử chấp thuận. Trừ khi ở phiên tòa phúc thẩm, Trang cung cấp thêm những tình tiết giúp làm rõ hơn vụ án hình sự này so với thời điểm tòa sơ thẩm diễn ra, chẳng hạn như tố cáo thêm những đồng phạm, hoặc thú nhận Trang đã nhận được bao nhiêu $ cho hoạt động chống phá Nhà nước...

Những biểu hiện mới trong âm mưu thủ đoạn của kẻ thù hòng lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta

 

- Lợi dụng tôn giáo tập hợp lực l­ượng, phát triển tín đồ củng cố tổ chức, khi có điều kiện chuyển thành lực lượng chính trị tiến công xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa dư­ới các hình thức bạo loạn chính trị, kết hợp với bạo loạn vũ trang ở các vùng dân tộc thiểu số, kêu gọi bên ngoài can thiệp... như­ kịch bản mà họ đã sử dụng ở một số nước Đông Âu.

- Quốc tế hoá những vấn đề tôn giáo, trư­ớc tiên là Thiên chúa giáo, Tin Lành, Phật giáo... để dễ bề can thiệp từ bên ngoài vào, công khai hoá việc gây sức ép với chính quyền Nhà nước Việt Nam.

- Khi có điều kiện thì tạo ra các cuộc xung đột, bạo loạn ở vùng tôn giáo với cái cớ: tranh chấp đất đai, nơi thờ tự, chùa chiền... do chính quyền cơ sở sơ hở, hoặc có thiếu sót, sai lầm trong việc xử lý các vấn đề nội bộ dân cư, tạo cớ cho bọn phản động trong và ngoài nước lợi dụng thời cơ, kích động quần chúng chống chính quyền, gây mất ổn định chính trị...

- Thực hiện chính sách liên kết tôn giáo (chúng gọi tắt là chính sách liên tôn) để tập hợp lực lượng, khắc phục sự chia rẽ và mâu thuẫn vốn tiềm ẩn trong các tôn giáo trước đây.

- Phối hợp hoạt động giữa các tổ chức tôn giáo trong nước với các tổ chức tôn giáo quốc tế, giữa các phần tử phản động trong các tôn giáo ở trong nước với bọn phản động tôn giáo bên ngoài. Gần đây, số tiền viện trợ dành cho các tôn giáo ở Việt Nam dưới các hình thức vừa trực tiếp, vừa gián tiếp, vừa bí mật vừa công khai lên tới hàng trăm triệu đô la.

 

Các thế lực thù địch lợi dụng chính sách mở cửa và sự mở rộng dân chủ ở nước ta

 

Lợi dụng chính sách mở cửa và sự mở rộng dân chủ ở nước ta, các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh hoạt động trong các tôn giáo, phát triển và mở rộng lực lượng, hòng tạo lợi thế cho các tổ chức tôn giáo nắm quyền chi phối về chính trị. Biểu hiện cụ thể là: Phát triển, mở rộng lực lượng chống đối trong các tôn giáo hướng vào các trung tâm lớn về chính trị, kinh tế, xã hội như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng và những nơi đông dân cư, vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng trước đây của ta để hình thành các gọng kìm chiến lược hỗ trợ cho sự phản loạn. Đối tượng chủ yếu để phát triển đạo là hướng vào mua chuộc và lôi kéo thế hệ trẻ như thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên các trường đại học,… Tăng cường truyền đạo, phát triển tổ chức cả hợp pháp và bất hợp pháp, đáng lưu ý là xuất hiện hiện tượng dùng vật chất, tiền bạc để lôi kéo, mua chuộc đồng thời tiến hành điều chỉnh hoặc thay đổi các lễ nghi tôn giáo cho phù hợp với đặc điểm Việt Nam và từng vùng dân cư để lôi kéo người theo đạo.

Cảnh giác khi các thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta

 

Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng nước Việt Nam. Trong chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và được thực hiện qua nhiều thủ đoạn. Một số nước vẫn còn có các nhóm người công khai, lợi dụng vấn đề tôn giáo, can thiệp thô bạo đến công việc nội bộ của Việt Nam. Lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, hàng năm có hàng chục phái đoàn vào “tìm hiểu tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam”, trong đó vẫn có những nhân vật lợi dụng hoạt động này để nắm bắt tình hình, hỗ trợ, chỉ đạo các hoạt động chống phá Việt Nam. Trong cái gọi là “Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế” hằng năm, họ thường xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, trong đó có những thông tin cố tình làm sai lệch và phản ánh không đúng tình hình như ở Tây Nguyên và một số địa phương.

Những năm gần đây lại xuất hiện những dấu hiệu mới trong các hoạt động chống phá Việt Nam như: “liên tôn”, đấu tranh đòi “tự do tôn giáo và nhân quyền”. Một số tổ chức thù địch với Việt Nam ở nước ngoài cũng đang thúc đẩy thông qua cái gọi là “Luật tự do tôn giáo cho Việt Nam”, gắn tự do tôn giáo với các điều kiện phát triển quan hệ song phương, trong đó có viện trợ phát triển kinh tế để ép Việt Nam, từng bư­ớc thực hiện ý đồ: “tự do hoá tôn giáo ở Việt Nam” theo công thức: “Tôn giáo độc lập với Nhà nước”.

“Liều thuốc” đặc trị bệnh… chạy chức chạy quyền

 

Nhiều người cho rằng, Quy định 69-QĐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm là một bước tiến về công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ, đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Nhân dân cũng kỳ vọng đây sẽ là những “liều thuốc” đặc trị căn bệnh chạy chức chạy quyền gây nhức nhối trong xã hội.

Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã ký ban hành Quy định 69-QĐ/TW về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Quy định mới thay thế Quy định số 7-QĐi/TW năm 2018 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý tổ chức đảng vi phạm và Quy định số 102 năm 2017 của Bộ Chính trị khóa XII về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm.

Quy định gồm 4 chương, 58 điều được hệ thống và đặt trong một Quy định thống nhất, đồng bộ để soi chiếu, xác định mức độ vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên. Trong đó, Quy định bổ sung nhiều nội dung, quy định mới nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, đồng thời cụ thể hóa các hình thức kỷ luật đối với những vi phạm mà thời gian vừa qua nổi lên như một xu hướng, một mối đe dọa, một thách thức nguy hiểm.

Cụ thể, Quy định 69 nêu rõ, về nguyên tắc xử lý kỷ luật: Tất cả tổ chức đảng và đảng viên bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên vi phạm chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải xem xét thi hành kỷ luật công minh, chính xác, kịp thời.

Đặc biệt, Quy định 69 ra đời đánh dấu việc, đây là lần đầu tiên có văn bản về xử lý kỷ luật đảng đề cập đến mức kỷ luật khi đảng viên chạy chức chạy quyền. Trước đây, hành vi chạy chức của đảng viên chỉ là một hành vi bị xử lý kỷ luật trong vi phạm công tác tổ chức, cán bộ mà thôi. Hơn nữa các văn bản hướng dẫn thi hành quy định kỷ luật đảng viên cũng không hướng dẫn nhiều về hành vi chạy chức này. Tuy nhiên, theo Quy định 69/QĐ-TW năm 2022 đã mang hành vi chạy chức, chạy quyền thành một Điều kỷ luật riêng. Cụ thế, tại Điều 30 đã tách hành vi chạy chức, chạy quyền của đảng viên thành một hành vi bị kỷ luật riêng biệt. Đây là điểm mới so với trước đây.

Theo đó, đảng viên vi phạm tùy từng mức độ sẽ bị kỷ luật khiển trách, cảnh cáo, cách chức (nếu có chức vụ), khai trừ ra khỏi Đảng. Quy định cũng nêu rõ, nếu không chỉ đạo xem xét, xử lý kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội về hành vi tiêu cực trong công tác cán bộ hoặc bao che, tiếp tay cho hành vi tiêu cực, cũng sẽ bị kỷ luật cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có).

Chưa hết, kỷ luật với tổ chức đảng phải xem xét rõ trách nhiệm của tổ chức, đồng thời xem xét trách nhiệm của từng cá nhân liên quan, nhất là trách nhiệm người đứng đầu. Với cá nhân, trong thời gian đảng viên đang bị xem xét xử lý kỷ luật thì không điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, phong, thăng quân hàm; không phong, tặng, công nhận các danh hiệu của Đảng, Nhà nước với đảng viên đó.

Hay Điều 39 cũng quy định rất rõ kỷ luật bằng hình thức khai trừ khỏi Đảng nếu: Mở tài khoản chuyển tiền, tài sản ra nước ngoài; mua, bán tài sản ở nước ngoài trái quy định; tổ chức, tham gia hoạt động rửa tiền dưới mọi hình thức; chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành chế độ, chính sách, quy trình, thủ tục.. trái quy định, tạo lợi ích nhóm hoặc lợi ích cục bộ... nhằm mục đích trục lợi; tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc kê khai tài sản, thu nhập; đối phó, cản trở việc kiểm tra, giám sát, xác minh tài sản, thu nhập….

Có thể nói, với vấn nạn chạy chức, chạy quyền, lần này quy định của Đảng là rất rõ ràng khi chỉ ra từng hành vi cụ thể. Đây cũng được xem là một trong những vấn đề mấu chốt của công tác cán bộ, nhằm chặn đứng ngay từ đầu những phần tử cơ hội không thể “chui” vào hàng ngũ để có thể “leo cao, luồn sâu”.

Chưa hết, Quy định 69 còn bổ sung hàng loạt những trường hợp đảng viên có thể vi phạm trong các lĩnh vực như quản lý, sử dụng đất đai, nhà ở; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực…

Quy định cũng nhấn mạnh hơn tới khía cạnh đạo đức, lối sống khi bổ sung các hành vi vi phạm về tu dưỡng, rèn luyện; hay cá nhân đảng viên, cũng như vợ, chồng, con cái có lối sống xa hoa, lãng phí, gây dư luận xấu trong xã hội…

Một điểm nhấn quan trọng không thể không nhắc đến trong Quy định 69 là là bên cạnh các hình thức kỷ luật, Quy định cũng nhấn mạnh việc bảo vệ cán bộ, đảng viên dám nghĩ dám làm, vì lợi ích chung mà thực hiện đổi mới, sáng tạo (theo Kết luận số 14 của Bộ Chính trị). Theo đó, nếu cán bộ thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng vì lợi ích chung thì miễn kỷ luật hoặc giảm nhẹ trách nhiệm. Vấn đề này chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ vào việc khích lệ đổi mới tư duy, đột phá, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo; khắc phục tư tưởng sợ sai, sợ bị kỷ luật, sợ bị xử lý bằng pháp luật dẫn đến né tránh những đổi mới, đột phá chưa có tiền lệ, thậm chí là đùn đẩy, công việc, “đá bóng” trách nhiệm cho người khác…

Với 58 điều quy định rất cụ thể, rõ ràng, có thể nói, Quy định 69 của Bộ Chính trị một lần nữa cho thấy sự nghiêm minh của Đảng, không dung túng cho bất cứ sai phạm nào của mỗi đảng viên cũng như tổ chức đảng và cũng để các cơ quan chức năng, người dân có công cụ để giám sát các hành vi vi phạm.

Những quy định mới, với tính răn đe mạnh mẽ, được kỳ vọng đóng vai trò như một chốt chặn, khiến cán bộ, đảng viên nhìn thấy mà chùn tay, không thể, không dám, không muốn vi phạm, những phần tử cơ hội biết sợ; vừa là “lá chắn” bảo vệ những cán bộ, đảng viên, dám nghĩ dám làm, biết đặt quyền lợi của Đảng, của dân, của nước lên trên hết, trước hết. Từ đó tạo nên những dấu mốc mới trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, cũng như công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, tạo niềm tin vững chắc của Nhân dân đối với Đảng, với chế độ./.

Không thể phủ nhận nỗ lực phòng, chống mua bán người tại Việt Nam

 

Vẫn như hằng năm, Hoa Kỳ tự xem mình là “chuẩn mực về nhân quyền” tự cho mình quyền đưa ra các phán xét về chính trị, kinh tế-xã hội các quốc gia, đặc biệt là chủ đề nhân quyền.

Báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (viết tắt là Báo cáo) đã xuất hiện những thông tin, những nhận định không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực của Việt Nam trong công tác phòng, chống mua bán người. Đó là các thông tin, nhận định liên quan tới tình hình lao động cưỡng bức đối với trẻ em, các vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em, việc người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài...

Trước hết xin được khẳng định rằng: Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi ngược đãi, mua bán người, bắt người làm nô lệ. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ: Từ Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 đến 2013 đều có các quy định về quyền công dân và quyền con người được Nhà nước bảo hộ. Hiến pháp năm 2013 đã giành cả Chương II để quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Trong đó có quy định rõ việc bảo đảm quyền con người, bảo đảm quyền công dân như: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm (Điều 20). Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu (Điều 35). Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em (Điều 37).

Để có căn cứ pháp lý cụ thể nhằm ngăn chặn, xử lý hành vi mua bán người, Việt Nam đã có Luật Phòng, chống mua bán người. Điều 3 Luật phòng, chống mua bán người quy định “Các hành vi bị nghiêm cấm” bao gồm: Mua bán người; chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; môi giới để người khác thực hiện mua bán người; cản trở việc tố giác, khai báo và xử lý hành vi mua bán người; kỳ thị, phân biệt đối xử với nạn nhân...

Điều 4 về nguyên tắc phòng, chống mua bán người của Luật Phòng, chống mua bán người quy định rõ: Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi mua bán người. Giải cứu, bảo vệ, tiếp nhận, xác minh, hỗ trợ nạn nhân kịp thời, chính xác. Tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp và không kỳ thị, phân biệt đối xử đối với nạn nhân. Ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời, chính xác hành vi mua bán người...

Nhà nước ta đã xây dựng và triển khai nhiều chính sách phòng, chống mua bán người. Công tác phòng, chống mua bán người là nội dung của chương trình phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và được kết hợp với việc thực hiện các chương trình khác về phát triển kinh tế-xã hội. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia, hợp tác, tài trợ cho hoạt động phòng, chống mua bán người và hỗ trợ nạn nhân; khuyến khích cá nhân, tổ chức trong nước thành lập cơ sở hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật.

Nhà nước khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác phòng, chống mua bán người; bảo đảm chế độ, chính sách đối với người tham gia phòng, chống mua bán người bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc tài sản theo quy định của pháp luật. Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống mua bán người.

Trên bình diện quốc tế, Việt Nam là thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người; tham gia Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng, chống và trừng trị việc mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Cùng với đó, Việt Nam tiếp tục triển khai có hiệu quả các hiệp định hợp tác với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống mua bán người; tiếp tục nỗ lực triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế.

Triển khai Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, thời gian qua, Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống mua bán người với sự vào cuộc và tập trung cao độ của tất cả các bộ, ngành và địa phương. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi), các văn bản chính sách, pháp luật về phòng ngừa mua bán người, lao động cưỡng bức, hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng đã được ban hành. Ngày 18-7 vừa qua, các bộ: Lao động-Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán.

Lực lượng chức năng của Việt Nam và các nước, nhất là các nước láng giềng thường xuyên phối hợp tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người. Trong 6 tháng đầu năm 2022, khắc phục những khó khăn do đại dịch Covid-19, các lực lượng chức năng của Việt Nam đã phát hiện, điều tra, khám phá 33 vụ, với 75 đối tượng phạm tội mua bán người và các tội phạm có liên quan đến mua bán người; đã kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát nhân dân đề nghị truy tố 17 vụ; 66 nạn nhân từ các vụ mua bán đã được tiếp nhận, xác minh, giải cứu, hỗ trợ...

Nhằm nâng cao năng lực cho cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ về phòng, chống mua bán người, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng. Hàng trăm cán bộ của Việt Nam đã được bố trí tham gia các cuộc hội thảo, các lớp tập huấn chuyên đề, chuyên sâu về pháp luật và nghiệp vụ công tác phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm mua bán người và bảo vệ nạn nhân bị mua bán...

Trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ có những thông tin, đánh giá không chính xác về việc xuất khẩu lao động của Việt Nam. Có thể thấy rằng, pháp luật, chính sách của Nhà nước ta đã quan tâm, hỗ trợ cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) đã xóa bỏ các khoản phí môi giới và mở rộng phạm vi bảo vệ đối với người lao động. Cùng với đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ học phí học nghề, ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết; tiền ăn trong thời gian thực tế học; chi phí đi lại; hỗ trợ chi phí làm thủ tục hộ chiếu, visa, khám sức khỏe... Hỗ trợ chi phí đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề (Nghị định số 61/2015/NĐ-CP ngày 9-7-2015). Đối với người lao động thuộc hộ nghèo, hộ bị thu hồi đất nông nghiệp và người lao động là người dân tộc thiểu số nếu có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài thì được vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội. Còn người lao động thuộc hộ cận nghèo, người lao động là thân nhân của người có công với cách mạng được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ Quỹ Quốc gia về việc làm với mức vay tối đa là 100%.

Không phủ nhận rằng, Việt Nam vẫn đang trong tình trạng thiếu việc làm. Xuất phát từ nhu cầu nôn nóng muốn đi tìm việc ở nước ngoài mà có những người dân đã mắc lừa các tổ chức, cá nhân làm ăn phi pháp. Thời gian qua, Nhà nước ta đã xử lý rất nghiêm các hành vi vi phạm luật liên quan đến việc đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Cụ thể, ngay trong Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã viết: “Trong năm 2020, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội đã thanh tra 84 doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, xử phạt 32 doanh nghiệp do vi phạm hành chính, rút giấy phép kinh doanh do vi phạm luật về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.

Từ những dẫn chứng nêu trên, có thể thấy rằng không ai có thể phủ nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam và những kết quả đạt được trong công tác phòng, chống mua bán người tại Việt Nam. Trong những năm qua, quan hệ ngoại giao Việt Nam-Hoa Kỳ đã phát triển vượt bậc, trở thành quan hệ đối tác toàn diện, mang lại những hiệu quả thực chất. Thiết nghĩ đã đến lúc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nên chấm dứt đưa ra những báo cáo về vấn đề nhân quyền không đúng sự thật, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam mà nên làm những việc có ích để tiếp tục phát triển quan hệ với các quốc gia, đóng góp tích cực vào hòa bình và phát triển của nhân loại.

“Bẫy” suy thoái không cấp thẻ miễn trừ

 

“Bẫy” suy thoái không cấp thẻ miễn trừ

Không tự giác sẽ biến mình thành người có tội

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “Tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa ngay tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”. Nhận định ấy có nghĩa là, nơi nào có quyền lực nhà nước thì nơi ấy có nguy cơ xảy ra tham nhũng.

Nhận định ấy cũng rất đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh, khi mà từ 70 năm trước (năm 1952), Người từng viết: “Có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ quân địch, nghĩa là có công với cách mạng. Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác, mà biến thành người có tội với cách mạng”.

Phát biểu trước tòa, ông Đinh La Thăng cựu Ủy viên Bộ Chính trị, người từng được Đảng, Nhà nước giao rất nhiều trọng trách, đã rơi nước mắt nhắc lại những năm tháng tuổi trẻ với sự hy sinh, cống hiến tuổi xuân trên công trường thủy điện Sông Đà. Nghe ông nói, không ai phủ nhận ông đã có một thời tuổi trẻ sôi nổi, với một lý tưởng sống rất đẹp. Nhưng khi bước lên những nấc thang của quyền lực, đứng đầu một tập đoàn kinh tế, đứng đầu một bộ, ông đã cố ý (hoặc vô tình) làm trái các quy định của pháp luật, gây ra những hậu quả to lớn, nghiêm trọng cho kinh tế đất nước.

Ông nắm rõ quy định của pháp luật về quản lý tài sản Nhà nước, nhưng vẫn cố tình thu xếp cho Công ty Yên Khánh của Đinh Ngọc Hệ trúng thầu quyền thu phí một tuyến cao tốc, gây thất thoát 725 tỷ đồng. Ông biết rõ việc góp vốn của Nhà nước vào OceanBank là trái thẩm quyền, không đúng chức năng nhưng vẫn cố tình ký kết, làm thất thoát 800 tỷ đồng... Đó chỉ là hai trong nhiều vụ án mà ông Đinh La Thăng bị khởi tố, cho thấy ông đã “tự tung, tự tác”, tự cho mình quyền coi thường kỷ luật của Đảng, pháp luật Nhà nước.

Ông Nguyễn Bắc Son, cựu Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, người giữ vai trò quyết định trong thực hiện dự án MobiFone mua 95% cổ phần AVG bất chấp quy định của pháp luật. Hành vi của ông Son và đồng phạm gây thiệt hại tài sản Nhà nước 6.500 tỷ đồng. Riêng ông Son nhận 3 triệu USD tiền hối lộ trong vụ việc này. Một hành vi tham ô khủng khiếp, không gì bào chữa được. Ông Son từng là sĩ quan quân đội, đã tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, nhưng những phẩm chất cao quý mà ông tích lũy được trong quân ngũ đã bị bắn gục bởi “viên đạn bọc đường” khi đã lên đến một nấc rất cao của danh vọng.

Ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương là một ví dụ điển hình về sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ông đã sử dụng quyền lực được nhân dân ủy thác để vụ lợi trong việc tiếp nhận, bổ nhiệm con trai là Vũ Quang Hải làm kiểm soát viên Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam; quyết định điều động và đề cử Vũ Quang Hải tham gia Hội đồng quản trị Tổng công ty Bia-Rượu-Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) để bầu làm thành viên Hội đồng quản trị, Phó tổng giám đốc Sabeco. Trên cương vị Bộ trưởng, ông Vũ Huy Hoàng đã có ý kiến chỉ đạo Sabeco góp vốn bằng quyền sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng (TP Hồ Chí Minh) và tiền của Sabeco để thành lập liên doanh Sabeco Pearl, đầu tư thực hiện dự án "xây dựng khách sạn 6 sao" tại khu đất trên. Sau đó, ông lại chỉ đạo Sabeco thoái toàn bộ vốn góp tại Sabeco Pearl, dẫn tới quyền quản lý, sử dụng khu đất số 2-4-6 Hai Bà Trưng bị chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang tư nhân trái pháp luật, gây thất thoát hơn 2.700 tỷ đồng. Những hành vi của ông đã vi phạm quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm và quy định của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên; vi phạm Luật Phòng, chống tham nhũng, gây bức xúc trong xã hội.

Nếu nhắc tới sự tha hóa phẩm chất khi đã ngồi vào vị trí “chức trọng, quyền cao", chúng ta không khỏi đau xót khi nhắc đến ông Nguyễn Đức Chung, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội. Ông trưởng thành trong ngành công an, từng là người cảnh sát hình sự nổi tiếng dũng cảm, từng lập được không ít chiến công trên lĩnh vực phòng, chống tội phạm, được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân, trở thành một vị tướng công an khi độ tuổi còn trẻ. Với những phẩm chất đáng quý đó, người dân từng tràn trề hy vọng ông sẽ có những đóng góp xứng đáng khi trở thành người đứng đầu chính quyền TP Hà Nội. Nhưng sự suy thoái không có “thẻ miễn trừ” với bất kỳ ai, khi ông sa vào chủ nghĩa cá nhân, khi ông bỏ quên sự tu dưỡng, rèn luyện các phẩm chất đạo đức và để chủ nghĩa danh lợi lấn át. Ông bị tòa án tuyên phạm tội "chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước"; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” với tổng mức hình phạt trong 3 vụ án là 12 năm tù tính từ ngày bị bắt 28-8-2020. Đáng nói hơn, ông Nguyễn Đức Chung có học vị tiến sĩ luật, rất hiểu biết pháp luật nhưng lại cố tình vi phạm pháp luật.

Không thể đổ lỗi cho cơ chế

Một số trường hợp “quan chức” kể trên sa ngã trên những con đường khác nhau nhưng ở họ có một điểm chung: Họ từng là những cán bộ ưu tú của Đảng, Nhà nước nhưng khi được giao những chức quyền cao cấp, họ đã trượt xuống vũng bùn của chủ nghĩa cá nhân, đánh mất những phẩm chất đạo đức tốt đẹp mà họ đã đánh đổi cả tuổi xuân để tôi luyện. Ngự trị nơi đỉnh cao quyền lực, họ lơ là phòng bị, để “giặc trong lòng” đánh bại hoàn toàn. Sự tha hóa của những người có quyền lực hoàn toàn không phải là điều xa lạ với những người cộng sản, và không thể đổ lỗi cho bất kỳ cơ chế nào.

Cách đây ngót 180 năm, khi nghiên cứu sự tha hóa của quyền lực nhà nước ở Tây Âu, Các Mác đã đưa ra những cảnh báo: Quyền lực nhà nước càng lớn thì sự tha hóa của nó càng nguy hiểm, nó càng gần với tư cách một lực lượng tự trị thoát khỏi sự kiểm soát của con người. Các Mác coi giới quan chức tạo thành một xã hội đóng kín trong nhà nước. Nhà nước chỉ còn tồn tại dưới dạng những lực lượng quan chức cụ thể khác nhau và với mỗi quan chức cụ thể thì “mục đích nhà nước biến thành mục đích cá nhân của y, thành việc chạy theo chức tước, thành việc mưu danh, cầu lợi”.

Sự tha hóa của giới quan chức là biểu hiện của việc tha hóa quyền lực chính trị, đây dường như là căn bệnh chung của mọi kiểu nhà nước. Các Mác đặc biệt lưu ý sự tha hóa của quyền lực trong nền kinh tế thị trường, đó là hiện tượng tôn thờ đồng tiền, bất chấp đạo lý. Ông đã viết: “Sức mạnh của tiền lớn bao nhiêu thì sức mạnh của tôi cũng lớn bấy nhiêu... Tôi là người xấu, không thật thà, không có lương tâm, ngu ngốc, nhưng tiền được tôn thờ thì người có tiền cũng được tôn thờ, tiền là cái tốt cao nhất thì người có nó cũng tốt”.

Từ phân tích của Các Mác về nguy cơ tha hóa của những người giữ quyền lực mà những người cộng sản đặt ra yêu cầu rất cao của việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng. Lênin từng yêu cầu phải “lay động các tòa án nhân dân và dạy cho họ biết trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem bắn những kẻ lạm dụng chính sách kinh tế mới”, “đối với người cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài đảng”, “tôi rất mong chúng ta có thể đuổi ra khỏi đảng từ 10 vạn đến 20 vạn người đã len lỏi vào đảng và đã không những không biết đấu tranh chống bệnh giấy tờ cùng nạn hối lộ, mà còn cản trở cuộc đấu tranh này”.

Lênin cũng cảnh báo hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh chống sự suy thoái của những người giữ quyền lực nhà nước: Một là, quan niệm giản đơn, đây là căn bệnh dễ chữa trị nên những người cộng sản có thể hạn chế, khắc phục nó chỉ trong thời gian ngắn. Hai là, cho rằng đó là thuộc tính xã hội của quyền lực nhà nước nên sự tồn tại của tham nhũng là tất yếu, con người chỉ có thể hạn chế mà không thể xóa sạch nó.

PGS, TS Nguyễn Thanh Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên từng trả lời phóng viên Báo Quân đội nhân dân về văn hóa liêm chính trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay: “Trước đây, trong các cuộc kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã xây dựng nên một xã hội liêm chính với tinh thần “con cá, chột nưa”, kể cả trong thời bao cấp thì văn hóa “cho không lấy, thấy không xin, xin không cho” vẫn lan tỏa trong xã hội như một nếp sống đẹp. Đến khi mở cửa, hội nhập với thế giới, phát triển kinh tế thị trường, chúng ta đã sớm biết rõ tác hại từ mặt trái của nó, nói một cách hình ảnh là khi ta mở cửa thì cùng với những làn gió tươi mới, mát lành cũng không thể tránh khỏi có cả những làn gió độc bay vào.

“Văn hóa thực dụng” xuất hiện, dẫn tới nhiều cái xấu độc cũng bị ngộ nhận trở thành văn hóa. Đồng tiền chi phối cuộc sống khiến nhiều quan niệm văn hóa bị méo mó, lệch lạc. Ví dụ, bây giờ có những cán bộ liêm chính mà tác phong, lối sống quá giản dị thì thường bị dư luận chê là nghèo, cổ hủ, lạc hậu. Hoặc có những cán bộ trong sạch, gương mẫu nhưng không được xung quanh ủng hộ, cùng lắm là được “kính nhi viễn chi”, được an ủi, động viên riêng lẻ chứ ít được ủng hộ công khai. Hay những người đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực lại bị chính người thân phản đối, ghẻ lạnh. Đó là những vấn đề khiến văn hóa liêm chính chưa lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng”.

Lịch sử cách mạng Việt Nam chứng minh, từ khi trở thành Đảng cầm quyền cho đến nay, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về đạo đức khi được nhân dân giao phó giữ chức trọng, quyền cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ tối cao của dân tộc và Người đã hiến cả cuộc đời cho lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong lòng dân và trong trái tim nhân loại, Người là hiện thân của đạo đức mới, đạo đức cộng sản. Trong di sản mà Người để lại cho con cháu mai sau, có một kho báu vô tận đó là nền tảng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Trong bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.

Vì thế, chẳng phải ngẫu nhiên khi phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng tiêu cực ngày 30-6-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại giãi bày tâm sự: “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, bị mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt, xuôi tay, ta có thể tự hào rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời-sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự vẻ vang của giống nòi và hạnh phúc của nhân dân”.

Bằng con đường thực hành đạo đức cách mạng trong cơ chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất định những người cộng sản Việt Nam sẽ tránh được “bẫy” suy thoái của quyền lực. Con đường đó không hề bằng phẳng, dễ dàng, thậm chí sẽ phải trả giá bằng việc loại ra khỏi đội ngũ rất nhiều cán bộ cấp cao vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước. Cùng với thực hành đạo đức cách mạng, Đảng, Nhà nước còn phải thực thi kiểm soát quyền lực. Vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập ở những bài viết tiếp theo.

Việt Nam sẽ tham gia sâu rộng hơn vào hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ

 

Việt Nam sẽ tham gia sâu rộng hơn vào hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ

Sáng 12/8, tại Trụ sở Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng tiếp xã giao bà Pauline Tamesis, điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam.

Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến nhấn mạnh, năm 2022 có ý nghĩa quan trọng, là năm kỷ niệm 45 năm Việt Nam tham gia Liên hợp quốc. Trong suốt chặng đường vừa qua, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc, triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. 

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cũng ghi nhận thiện chí hợp tác và những hỗ trợ của Liên hợp quốc, các cơ quan chức năng của Liên hợp quốc tại Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là vai trò của Văn phòng Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc trong thời gian Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc (2020 - 2021). Đồng thời, bày tỏ cảm ơn Liên hợp quốc và các cơ quan chức năng đã phối hợp chặt chẽ, triển khai thành công nhiều hoạt động về khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam, nhất là các chương trình, dự án về khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh; đạt được kết quả tích cực, góp phần vào sự ổn định và phát triển đời sống của nhân dân tại các địa phương.

Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến mong muốn, thời gian tới, Liên hợp quốc tiếp tục đồng hành cùng Bộ Quốc phòng Việt Nam trong lĩnh vực khắc phục hậu quả sau chiến tranh thông qua hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, nâng cao năng lực, kinh nghiệm và xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin; tiếp tục phối hợp chặt chẽ, kịp thời và linh hoạt trong xây dựng, hoàn chỉnh hồ sơ các dự án về khắc phục hậu quả sau chiến tranh đang triển khai. 

Sau hơn 8 năm chính thức tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (từ năm 2014), Quân đội nhân dân Việt Nam đã triển khai thành công trên 500 cán bộ, chiến sĩ tới các phái bộ gìn giữ hòa bình và Trụ sở Liên hợp quốc. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á triển khai thành công 3 khóa huấn luyện vận hành trang bị công binh hạng nặng theo Chương trình Đối tác ba bên giữa Việt Nam - Liên hợp quốc - Nhật Bản, được lãnh đạo Liên hợp quốc đánh giá rất cao. Việt Nam luôn duy trì tỉ lệ nữ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc cao hơn tỉ lệ trung bình của các nước; được chỉ huy Phái bộ đánh giá cao về kết quả hoàn thành nhiệm vụ, tạo dấu ấn tốt với cộng đồng nước sở tại. Việt Nam cam kết tiếp tục duy trì, tăng cường tỉ lệ nữ tham gia; hướng tới tiêu chí tỉ lệ nữ trong lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam cao hơn 20% vào năm 2025. 

Thời gian tới, chủ trương của Việt Nam là tham gia sâu rộng hơn vào hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, bao gồm mở rộng số lượng các phái bộ có lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam cũng như hình thức triển khai. Bên cạnh lực lượng Quân đội, Việt Nam dự kiến sẽ cử lực lượng Công an nhân dân tham gia; đề nghị Liên hợp quốc tiếp tục ủng hộ những cam kết và quyết tâm chính trị của Việt Nam trong tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong lĩnh vực này.

Bà Pauline Tamesis cảm ơn lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã dành thời gian tiếp, bày tỏ ấn tượng tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam; đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam, đặc biệt là vai trò của Quân đội và lực lượng Công an trong việc hỗ trợ, kiềm chế, kiểm soát dịch COVID-19. Bà Pauline Tamesis nhấn mạnh, Liên hợp quốc sẽ đồng hành và hỗ trợ Chính phủ, nhân dân Việt Nam hồi phục kinh tế - xã hội tốt nhất sau đại dịch; hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu liên quan đến y tế, sức khỏe của người dân.

Bà Pauline Tamesis chia sẻ: “Tôi vừa vinh dự được ký Khung chiến lược hợp tác phát triển bền vững với Chính phủ Việt Nam. Đây là văn bản rất quan trọng, vạch ra chiến lược cũng như những ưu tiên hỗ trợ của Liên hợp quốc đối với Việt Nam trong 5 năm tới. Trong văn bản cũng nhấn mạnh vai trò của Liên hợp quốc hỗ trợ Việt Nam phục hồi sau đại dịch, đảm bảo không bỏ ai ở loại phía sau. Những điểm ưu tiên của Khung chiến lược hợp tác mới được xây dựng trong thời gian đại dịch COVID-19, thực hiện đúng nguyên tắc lấy nhân dân, lấy con người làm trung tâm; đảm bảo quyền con người, bình đẳng giới...”.

Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc đánh giá cao thành tựu đạt được của Việt Nam trong tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, trong đó tỉ lệ phụ nữ tham gia rất cao. Liên hợp quốc cam kết tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong hoạt động này. Vừa qua, Liên hợp quốc cùng với Chính phủ Việt Nam tổ chức Hội nghị quốc tế về Phụ nữ hòa bình và an ninh, với Bản cam kết hành động được 75 năm quốc gia thành viên ủng hộ được coi như tài liệu chính thức của Hội đồng bảo an cũng như Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Liên hợp quốc cũng đánh giá cao việc Việt Nam cử lực lượng Cảnh sát tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; 3 sĩ quan Công an chuẩn bị lên đường sang phái bộ Nam Sudan, một sĩ quan đã trúng tuyển đến làm việc tại Cục Cảnh sát gìn giữ hòa bình ở New York, Hoa Kỳ.

 

XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TINH, GỌN, MẠNH, TIẾN LÊN HIỆN ĐẠI, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI !


Xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là đòi hỏi khách quan, bảo đảm cho Quân đội đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.


Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”1. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”2.


Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, trực tiếp là đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cũng như yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, bước đầu đạt được một số kết quả quan trọng; bảo đảm sự cân đối, tương đối đồng bộ giữa các quân chủng, binh chủng, giữa cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Quân đội ta từ đội quân nhỏ, lẻ, trang bị giáo mác nhiều hơn súng đạn đã phát triển thành một tổ chức vũ trang; cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang ba thứ quân bao gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội ta từng bước phát triển thành một quân đội chính quy, vững mạnh, có đủ các trung đoàn, sư đoàn bộ binh mạnh và các quân chủng, binh chủng. Sau năm 1975, từ 11 quân khu và 2 bộ tư lệnh thành phố rút gọn lại thành 8 quân khu. Sau chiến tranh biên giới, đã giải thể một số quân đoàn trong quân khu, đặc khu Quảng Ninh; một số sư đoàn đủ quân trở thành sư đoàn khung thường trực. Năm 2008, tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.


Từ năm 2016 đến nay, Quân đội đã điều chỉnh 1.286 tổ chức, giải thể các trường nghề và 61 trường quân sự cấp tỉnh; tăng cường lực lượng bảo vệ biên giới, biển, đảo và lực lượng, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Các cơ sở sản xuất, sửa chữa, công nghiệp quốc phòng, đoàn kinh tế - quốc phòng được điều chỉnh hợp lý, giảm bớt các tổ chức trung gian, từng bước khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Các đơn vị dự bị động viên, phương tiện kỹ thuật được tổ chức, sắp xếp đủ 100% số đầu mối đơn vị theo quy định.


Để xây dựng Quân đội hiện đại, những năm qua, công nghiệp quốc phòng từng bước phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang và góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, nghiên cứu, thiết kế, làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được một số loại vũ khí chiến lược cần thiết cho phòng thủ đất nước; từng bước bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ biển, đảo,... Những kết quả này là tiền đề rất quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; đồng thời, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo, nhưng tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo,... diễn ra phức tạp, quyết liệt. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều loại vũ khí mới; cùng với đó, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao và chiến tranh phi tiếp xúc ngày càng trở nên phổ biến. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,... ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, sau hơn 35 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại cần quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:


Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh.


Đây là nội dung bao trùm, chỉ đạo xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện mục tiêu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, bảo đảm cho Quân đội có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để làm tốt vấn đề này, trước hết, cần tập trung quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/ 2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/ QUTW, ngày 02/4/2022, của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo,... Trên cơ sở đó, từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch tổng thể, phương pháp tiến hành chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi cụ thể, điều chỉnh tăng, giảm tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống Quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xây dựng, điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược theo quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, bảo đảm Quân đội có đủ khả năng làm nòng cốt cùng toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.


Tổ chức quán triệt sâu sắc nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương và kế hoạch của Bộ Quốc phòng về điều chỉnh tổ chức lực lượng đến các đối tượng, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị trong Quân đội và của cả hệ thống chính trị, thống nhất nhận thức và nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.


Quá trình điều chỉnh tổ chức Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp. Biện pháp thực hiện phải toàn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tế; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, tuyệt đối không được chủ quan, nóng vội, đơn giản một chiều hay hành chính hóa.


Hai là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.


Đây là vấn đề cơ bản, nguyên tắc bất di, bất dịch xuyên suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân, nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng; là nhân tố quyết định việc hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Quán triệt sâu sắc, kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội; theo đó, xây dựng Quân đội phải toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và trên mọi nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, lao động sản xuất và công tác. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, vì “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”3.


Việc xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh phải bảo đảm gọn về tổ chức, nâng cao chất lượng về mọi mặt, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong toàn quân. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng, kiên định lập trường, mục tiêu, lý tưởng, nhận thức sâu sắc tình hình nhiệm vụ, thấy được hết thuận lợi, khó khăn, xác định rõ trách nhiệm và quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Chú trọng tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,... Tích cực, chủ động đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kiên quyết, kiên trì thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, quy định của Trung ương, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, về những điều đảng viên không được làm, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, với các mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp.


Ba là, thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


Tổ chức, biên chế, trang bị là những nhân tố quan trọng cấu thành chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Vì vậy, trên cơ sở biểu tổ chức biên chế mới, các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra ở từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng cao, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động ngày càng sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là yêu cầu khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.


Trên tinh thần đó, từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


Bốn là, quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện đào tạo.


Đây là một trong những khâu then chốt, đột phá, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong điều kiện mới. Sức mạnh của Quân đội là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác chiến..., trong đó, con người là nhân tố quyết định. Vì thế, việc xây dựng nhân tố con người, trực tiếp là nguồn nhân lực chất lượng cao cần được chú trọng và xem như một yếu tố có ý nghĩa quyết định trong xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần chú trọng cả về số lượng và chất lượng theo lộ trình hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật của các quân chủng, binh chủng, lực lượng. Cần có sự đột phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, các chuyên gia đầu ngành, đội ngũ nhà giáo ở các học viện, nhà trường quân đội; quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị cần có quy hoạch, kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao bảo đảm nhu cầu sử dụng cả trước mắt và lâu dài; xây dựng tiêu chí nguồn nhân lực làm cơ sở xem xét, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ một cách chính xác.


Cùng với đó, phải đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các nhà trường quân đội, tạo nguồn cán bộ các cấp có đủ phẩm chất cách mạng, tư duy, năng lực chuyên môn, trình độ chỉ huy, quản lý,... theo chức trách. Xây dựng nhà trường, viện nghiên cứu tinh, gọn, mạnh, hiện đại; gắn đào tạo ở nhà trường với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở đơn vị; gắn nhà trường với chiến trường; gắn lý luận với thực tiễn; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy với kết quả huấn luyện của đơn vị. Trong đó, việc tổ chức huấn luyện phải chặt chẽ, linh hoạt, đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị, khí tài mới, hiện đại, sức cơ động và khả năng tác chiến trong điều kiện mới cho các đối tượng; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội. Trước mắt, cần tập trung nâng cao chất lượng các cuộc diễn tập, hội thao, hội thi; ban hành, triển khai thực hiện chiến lược và các đề án phát triển giáo dục - đào tạo trong Quân đội theo phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, góp phần xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.


Năm là, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật.


Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo4; Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26/01/2022, về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Theo đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại; có quy mô tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động phù hợp; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Gắn phát triển công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới những công nghệ hiện đại, có hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân.


Để đạt được mục tiêu đề ra, cần sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Trước mắt, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng với quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất”, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhiệm vụ của từng cấp; bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất; đổi mới tư duy sản xuất vật tư kỹ thuật theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, xã hội hóa,... Tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, nhằm tận dụng, huy động các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa Quân đội. Theo đó, cùng với đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực, cần thúc đẩy hợp tác trong phát triển công nghiệp quốc phòng, kỹ thuật quân sự, kết hợp với mua sắm vũ khí, khí tài mới, hiện đại và gắn với chuyển giao công nghệ, nhất là các công nghệ mới, hiện đại.


Xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho Quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm này là của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhưng trước hết và chủ yếu là của cấp ủy, chỉ huy các cấp cùng cán bộ và chiến sĩ toàn quân.


Đến giờ, người dân trong vùng vẫn nhớ về câu chuyện con trai cô Dén. Khi cuộc chiến diễn ra, đoàn người sơ tán từ thị xã Cao Bằng, qua cầu Tài Hồ Sìn, tìm đường về Bắc Cạn và Thái Nguyên. Đoàn gặp một trại lính Trung Quốc, ai cũng bảo nhau đi thật khẽ. Thằng con cô Dén đã bú no nê và được ủ ấm áp, nhưng nó bất chợt khẽ cất tiếng. Ai nấy đều nín thở, đoàn người có thể nằm hết dưới họng súng Trung Quốc nếu như thằng bé cất tiếng khóc to. Cô Dén phải bịt chặt miệng con lại cho nó bớt khóc, nó lại càng giãy mạnh hơn… 


Đoàn dân thường vượt qua được đồn canh cũng là lúc thằng bé không còn thở nữa. Nó mới hai tháng tuổi. Tự tay mình kết thúc cuộc đời của đứa con, cô Dén không nấc được thành tiếng nào. Đoàn người đắp cho thằng bé một ngôi mộ tạm và tiếp tục trên đường lánh nạn.


Chú Dương, hồi ấy là một tự vệ cho một trường học ở biên giới, cho biết khi nhìn thấy cảnh hàng ngàn lính Trung Quốc vượt qua biên giới, chú không thấy sợ mà ngược lại còn thấy căm phẫn và ham muốn chiến đấu vì trước đó Trung Quốc đã nhiều lần tấn công biên giới Việt Nam một lén lút, cố tình kích động chiến tranh. Nhưng chủ trương bên trên phải là nín nhịn và thông qua con đường ngoại giao.


“Đó là lúc tôi muốn trả thù. Trước đó, từ một tự vệ, tôi có ghi danh vào lực lượng địa phương học thêm về vũ khí để chống lại quân xâm lược. Ai cũng sợ chết thì ai chiến đấu. Tôi chưa từng tham gia đánh Mỹ, nhưng lần này tôi nhất quyết tham gia đánh Trung Quốc" - chú nói.


Nguyễn Duy Thức là một chiến sĩ chiến đấu tại mặt trận 1979. Anh nhớ lại về cuộc chiến năm ấy, quân Trung Quốc ào lên boongke như thác lũ. Anh và đồng đội đã “bắn nhiều đến mức súng AK đỏ nòng và không thể bắn được nữa”. Trước đó, anh và đồng đội đã được cảnh báo về một cuộc chiến sẽ diễn ra, nhưng nhiều người vẫn nghĩ rằng mới chỉ vào năm trước thôi, Trung Quốc vẫn là người đồng chí của Việt Nam.


Cô Hà Thị Hiền, lúc ấy mới chỉ 14 tuổi, cùng cha mẹ chạy tránh làn sóng quân địch ngay sau khi vừa nghe thấy tiếng súng nổ ở phía bên kia biên giới. Một chút thời gian sau, mẹ cô bị bắn gục ở ngay trước mắt cô, còn cha cô cũng bị thương.


"Có hàng trăm người đã bị bắn gục sau đó" - cô nói thêm. “Tôi nhìn thấy một người phụ nữ bị chặt chân, nằm trên mặt đất. Giọng của cô ấy thều thào muốn giúp đỡ nhưng tôi không thể làm gì được".


Cô Hiền kể lại rằng, trong đêm tối, cô được những người lính Việt Nam cứu và bố trí một người phụ nữ cao tuổi chăm sóc, còn họ lao ngay vào chiến trường. Cô và nhiều người trốn ở trong một hang động đá vôi. Những người còn sống trong hang động đá vôi còn kêu gọi những linh hồn đã khuất che chở cho họ khỏi quân thù.


Nữ dân quân dân tộc thiểu số Sầm Thị Đòng đã chuẩn bị cho cuộc chiến từ trước Tết. Bà sắp sẵn quần áo, tư trang và chuẩn bị chết khi sẵn sàng. Là một người phụ nữ có con nhỏ, bà nằm trong đối tượng được phép sơ tán nhưng bà nói không. Bà ở lại cầm súng để bảo vệ bản làng cùng với một tổ đội súng cối toàn là những chiến binh nữ. Không ai nặng quá 40 cân và cao quá 1 mét rưỡi vậy mà họ mang được một khẩu cối 60mm nặng 20 cân cùng với bốn thùng đạn nặng vài chục cân nữa, băng qua 4 cây số đường núi đèo hiểm trở.


Hai đồng đội của cô Đòng ngã xuống do mảnh đạn văng trúng, 4 nữ chiến binh còn lại vừa tiếp tục chiến đấu, vừa băng bó cho đồng đội. 


Sau mấy chục năm, cô vẫn còn nhớ những cái xác cụt chân, cụt tay, không nhận rõ mặt người đã nằm lại, không biết họ đã được chôn cất thế nào. Đánh nhau với địch không sợ bằng lúc chôn cất anh em, cứ nhắm mắt vào lại thấy máu!


"Không sợ chết trên mặt trận, chỉ sợ nhớ về những xác người”

Những đánh giá sai lệch về công tác phòng, chống mua bán người ở Việt Nam

 Chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Trong mọi chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm.i

Đánh giá phiến diện, thiếu khách quan

Ngày 19/7 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo tình hình buôn người năm 2022. Đây là báo cáo hằng năm theo Đạo luật Bảo vệ nạn nhân bị mua bán của Hoa Kỳ năm 2000 do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình lên Quốc hội nước này, trong đó nhận xét công tác phòng, chống mua bán người của 188 quốc gia trên thế giới nhằm kêu gọi Chính phủ các nước thực hiện nghiêm túc Công ước của Liên hợp quốc (LHQ) về phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung.

Trong báo cáo tình hình buôn người năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xếp Việt Nam trong nhóm 3, tụt 18 bậc so với năm 2021 (năm 2021, đánh giá Việt Nam thuộc nhóm 2) cùng với các nước như Brunei, Campuchia, Malaysia, Myanmar tại Đông Nam Á và một số nước khác như Trung Quốc, Cuba... Cũng theo báo cáo này, những nước nằm trong nhóm 3 có thể bị hạn chế nhận một số viện trợ từ Hoa Kỳ trong tương lai. Báo cáo trên có những nhận xét không khách quan, không phản ánh những nỗ lực to lớn của Việt Nam trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người trong thời gian qua.

Liên quan đến vấn đề trên, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng ngày 21/7 khẳng định: “Bộ Ngoại giao Mỹ ra báo cáo năm 2022 về tình hình mua bán người trên thế giới với các thông tin không xác thực, không phản ánh đầy đủ, chính xác về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam”.

Không ngừng nỗ lực đấu tranh với nạn buôn người

Việc nhìn nhận, đánh giá một vấn đề cần phải dựa trên những thông tin xác thực, có các hoạt động kiểm chứng, khảo sát thực tế, nếu không sẽ đưa ra những nhận xét thiếu khách quan, phiến diện. Điều này tác động không tốt đến quan hệ ngoại giao hai nước, gây ra những hiểu lầm đáng tiếc và tạo cớ để các thế lực thù địch suy diễn, xuyên tạc về công cuộc phòng, chống tội phạm mua bán người ở Việt Nam nói riêng, công tác đảm bảo quyền con người nói chung.

Thực tế, việc phòng, chống mua bán người được Đảng, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và được tiến hành trên nhiều lĩnh vực, từ phòng ngừa, phát hiện, xử lý tội phạm cũng như hỗ trợ nạn nhân. Việt Nam không ngừng hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về phòng, chống mua bán người. Những nỗ lực, cố gắng của Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người thời gian qua là toàn diện, rõ nét. 

Tại Điều 150 và Điều 151, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định rõ về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Đặc biệt, Luật Phòng, chống mua bán người được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2012 đã quy định khung pháp lý quan trọng làm cơ sở cho công tác phòng ngừa, phát hiện và xử lý tội phạm mua bán người. Với mục tiêu huy động mọi nguồn lực, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người trên phạm vi toàn quốc, ngày 10/5/2016, Thủ tướng Chính phủ quyết định lấy ngày 30/7 hằng năm là “Ngày Toàn dân phòng, chống mua bán người”. Nghị định số 62/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định căn cứ xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân của họ. Ngày 11/2/2019, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao ban hành Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về “Tội mua bán người”; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 193/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, quyết định này có hiệu lực từ ngày 9/2/2020. Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 1944/QĐ-TTg ngày 18/12/2021 của Chương trình thực hiện Kết luận số 13-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới và Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025, định hướng đến năm 2030, nhất là các phương án, kế hoạch, giải pháp đảm bảo ANTT, phòng, chống tội phạm trong và sau dịch bệnh COVID-19.

Ngày 18/7 vừa qua, hướng tới Ngày Thế giới và Toàn dân phòng chống mua bán người, các bộ: Lao động, Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng và Ngoại giao cũng đã ký Quy chế phối hợp trong công tác tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả công tác phối hợp liên ngành, tiến hành xác minh, xác định, giải cứu, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân và trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người.

Việt Nam cũng tích cực hợp tác quốc tế về phòng, chống mua bán người, phát huy vai trò của cơ quan đại diện ở nước ngoài trong việc nắm tình hình, kịp thời phát hiện và giải cứu nạn nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hồi hương công dân Việt Nam là nạn nhân bị mua bán trở về nước. Các điều ước quốc tế, hiệp định song phương, đa phương, các thỏa thuận hợp tác về phòng, chống mua bán người mà Việt Nam là thành viên được triển khai thực hiện có hiệu quả. Theo đó, ngày 20/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Kế hoạch triển khai thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của LHQ. Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện Kế hoạch triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM) nhằm củng cố môi trường di cư minh bạch, ngăn chặn nguy cơ mua bán người trong các hoạt động di cư quốc tế, trong đó đề ra các giải pháp toàn diện và bao trùm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý di cư, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người di cư nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu giảm nguy cơ mua bán người, giảm tội phạm mua bán người, tiếp nhận, bảo vệ và hỗ trợ hiệu quả các nạn nhân của thực trạng mua bán người. Trên thực tế, tình hình phòng, chống mua bán người trong nước và qua biên giới cũng luôn được rà soát để kịp thời có biện pháp xử lý phù hợp, khắc phục những khó khăn do đại dịch COVID -19 gây ra.

Không chỉ xâm hại quyền con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, đạo đức, nhân phẩm, tính mạng của các nạn nhân, tội phạm mua bán người còn gây ảnh hưởng xấu đến nền tảng đạo đức, giống nòi, thuần phong mỹ tục, tác động trực tiếp đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm ấy, những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam từ Trung ương đến địa phương luôn thể hiện trách nhiệm cao, thái độ kiên quyết trong phối hợp đấu tranh, ngăn chặn, xử lý tội phạm mua bán người. Các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương đã chú trọng xây dựng, duy trì hoạt động các chuyên trang, chuyên mục, chương trình phát thanh, truyền hình tuyên truyền về phòng, chống mua bán người, trong đó tập trung tuyên truyền về các phương thức, thủ đoạn mới, địa bàn trọng điểm của tội phạm này, những đối tượng có nguy cơ cao trở thành nạn nhân, quyền lợi mà nạn nhân được hỗ trợ và đường dây nóng tiếp nhận thông tin về nạn nhân và vụ việc. Đồng thời, đẩy mạnh công tác truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng và mạng xã hội...

Về nhiệm vụ hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, Việt Nam đang tích cực xây dựng, triển khai quy trình chuẩn về hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng; xây dựng quy chế phối hợp liên ngành, liên cấp về tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và cung cấp kết nối dịch vụ tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân và người nghi là nạn nhân bị mua bán. Củng cố, phát triển, cải thiện chất lượng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách Nhà nước trong công tác hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, bảo đảm tính sẵn có, dễ tiếp cận; đầu tư, nâng cấp trang thiết bị, xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân và thí điểm các mô hình hỗ trợ nạn nhân hòa nhập cộng đồng. Đồng thời, lồng ghép nội dung phòng, chống mua bán người vào các chương trình phòng, chống tội phạm, phòng, chống tệ nạn xã hội, giảm nghèo, đào tạo nghề, giải quyết việc làm, bình đẳng giới, bảo vệ trẻ em và các chương trình phát triển kinh tế xã hội khác…

Theo số liệu của Cục Cảnh sát hình sự, từ năm 2010-2020, trên địa bàn cả nước đã điều tra, khám phá 4.116 vụ, khởi tố 6.012 bị can phạm tội mua bán người ra nước ngoài; trong số này có 419 vụ, 476 bị can mua bán trẻ em ra nước ngoài. Theo báo cáo của các TAND, kết quả xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự từ năm 2016 đến năm 2021 về tội mua bán người đã giải quyết là 450 vụ/506 vụ án đã thụ lý; tội mua bán người dưới 16 tuổi đã giải quyết là 190 vụ/225 vụ án thụ lý. Đây là những con số “biết nói” minh chứng những nỗ lực không biết mệt mỏi của Việt Nam trong phòng, chống nạn mua bán người.

Cần phải nhìn nhận đúng một thực tế là không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên thế giới, hoạt động mua bán người tiếp tục diễn biến phức tạp. Ðây là công việc nhiều khó khăn, trở ngại nhưng với quyết tâm chính trị và bằng kinh nghiệm của mình, Việt Nam sẽ tiếp tục huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham gia phòng ngừa, ngăn chặn, tiến tới đẩy lùi tội phạm mua bán người. Trong bối cảnh tội phạm mua bán người hình thành các đường dây, tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam chủ trương tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới, các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tội phạm mua bán người.

Liên quan đến bản Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nhấn mạnh: “Chúng tôi mong muốn phía Hoa Kỳ trong thời gian tới hợp tác chặt chẽ hơn nữa để có đánh giá đầy đủ về tình hình và nỗ lực phòng, chống mua bán người của Việt Nam. Chúng tôi cũng sẵn sàng trao đổi với các nước, trong đó có cả Hoa Kỳ cũng như các bên liên quan về các vấn đề hợp tác cụ thể để cùng nhau triển khai hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người”.