Chủ Nhật, 2 tháng 4, 2023

VÌ SAO CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN LÀ NỘI DUNG QUAN TRỌNG TRONG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 

Hiện nay, một số người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta cho rằng, lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu nên nó đã “cáo chung cùng với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình xô viết ở Đông Âu và Liên Xô”.
Theo họ, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX ở châu Âu; nó chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của một số nước ở châu Âu và Liên Xô; hoàn toàn không phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh “du nhập một học thuyết ngoại lai vào Việt Nam là hoàn toàn không phù hợp”, là sai lầm.
Họ cho rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và thất bại của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam là do Đảng ta “gặp may”, “bản thân Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tài cán gì”. Từ đó, họ vu khống rằng sư lạc hậu, kém phát triển của Việt Nam là do Đảng ta và Chủ tịch Hổ Chí Minh lấy “chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Họ lập luận rằng, chính sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô Viết ở Liên Xô và Đông Âu cũng như sự điều chỉnh, thích nghi của các nước tư bản phát triển là nhờ tận dụng thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, nhất là thành tựu của cuộc mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều đó thêm một lần nữa đặt ra yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam là phải “thay máu cho hệ tư tưởng”, cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thay vào đó là một lý luận khác phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, lý luận đó không có gì khác là hệ tư tưởng tư sản.
Nhân dân ta không hề ngạc nhiên trước những luận điệu xuyên tạc ấy bởi “điệp khúc này” đã tua đi tua lại nhiều lần kể từ ngày chủ nghĩa Mác còn là “một bóng ma ám ảnh châu Âu” cho đến khi trở thành hệ tư tưởng thống trị phong trào công nhân quốc tế từ những năm 70 của thế kỷ XIX; là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế trong sự nghiệp đấu tranh chống các thế lực phản động, phản cách mạng, giành thắng lợi về tay mình. Chính sự ra đời của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới là minh chứng hùng hồn bác bỏ sự xuyên tạc ấy.
Là con người có lương tâm và trách nhiệm thì đương nhiên phải thừa nhận một sự thật không thể chối cãi: Chủ nghĩa Mác - Lênin là một khoa học, có tính cách mạng và nhân văn sâu sắc. Đó là điểm khác biệt căn bản mà các luận thuyết của các bậc tiền bối và cùng thời với C. Mác đã không thể có được bởi có học thuyết của họ dựa trên lập trường thế giới quan duy vật nhưng phương pháp tư duy lại siêu hình; có học thuyết, phương pháp tư duy biện chứng nhưng quan điểm lại rơi vào duy tâm, tôn giáo hoặc rơi vào chủ nghĩa xã hội không tưởng.
Vượt lên trên mọi thiên kiến và các rào cản đương thời, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện ra quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Qua đó chỉ rõ quy luật phát triển của lịch sử, xã hội loài người không phải do thánh thần, chúa trời tạo ra mà do những mâu thuẫn nội tại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất dẫn đến những mâu thuẫn không thể tránh khỏi của xã hội biểu hiện ở đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
Với quan điểm duy vật biện chứng, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin và những người cộng sự đã chấm dứt sự lũng đoạn của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, chủ nghĩa duy vật siêu hình trong giải thích sai lầm các hiện tượng tự nhiên, xã hội và lịch sử, tìm ra quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử nhân loại.
Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin không những được thể hiện ở giá trị của phép biện chứng duy vật và chủ nghĩa nhân đạo trong hai phát kiến vĩ đại của C. Mác: Quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, mà còn thể hiện sâu sắc ở việc C. Mác và Ph. Ăngghen phát hiện ra vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân, chính giai cấp này là “người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, kết thúc chế độ người áo bức, bóc lột người; xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn.
Điều này là hoàn toàn khách quan bởi lịch sử xã hội loài người là một quá trình lịch sử - tự nhiên, theo quy luật vận động của nó, cái mới sẽ thay thế cái cũ, tiến bộ sẽ thay thế lạc hậu; chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản như chủ nghĩa tư bản đã từng thay thế chủ nghĩa phong kiến.
Lý luận và thực tiễn cách mạng thế giới từ Công xã Pa ri, đến Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và thực tế công cuộc cải cách, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay đã khẳng định sức sống mãnh liệt, sự trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin; khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin thật sự là “công cụ nhận thức vĩ đại” để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới. Bản chất chân lý này thể hiện ở chỗ:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay chỉ ra mục tiêu, con đường, lực lượng, chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bất công; đem lại cuộc sống hoà bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người dân.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin đã tìm ra các quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, vạch ra những “bí mật” của các hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra động lực và chủ thể phát triển của lịch sử chính là con người và sản xuất vật chất - cơ sở quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội. Dù ai có xuyên tạc hoặc cố tình bôi đen, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự thật ấy vĩnh viễn không thể thay đổi. Đây là điều khách quan, cơ sở khoa học để luận giải sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự thống nhất biện chứng giữa học thuyết duy vật với phương pháp biện chứng, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính đảng, tính cách mạng và tính khoa học, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là một học thuyết mở, sống động, có khả năng tự đổi mới, tự phát triển trong dòng chảy tư duy, trí tuệ của nhân loại, luôn thu nạp, tích hợp những thành tựu, tinh hoa trí tuệ mới nhất, tiến bộ nhất của nhân loại để không ngừng phát triển. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học thuyết giáo điều, kinh viện bởi linh hồn sống động của nó là phép biện chứng duy vật không bao giờ lùi bước, chấp nhận, thỏa hiệp với quan điểm duy tâm, tôn giáo, phương pháp tư duy siêu hình.
Năm tháng sẽ đi qua, một số luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin có thể không còn phù hợp với thực tiễn ngày nay; đó cũng là lẽ đương nhiên, nhưng tinh hoa của phép biện chứng duy vật, quan niệm duy vật về lịch sử, học thuyết giá trị thăng dư và chủ nghĩa nhân văn với khát vọng giải phóng con người cùng với hệ thống tư tưởng cốt lõi của nó là những giá trị vĩnh hằng, sống mãi. Chính giá trị bền vững này mà chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động của các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam, nhờ có nó mà đứng trước những biến động của thời cuộc, tự tin khẳng định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Sự thật khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin không lỗi thời, chỉ có những người vận dụng nó lỗi thời hoặc mắc những sai lầm, khuyết điểm trong quá trình xây dựng đất nước. Hãy dừng việc quy kết, đỗ lỗi cho chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, lạc hậu.
Đối với nước ta, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta giành được trong hơn 9 thập kỷ qua đã khẳng định thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là chân lý, bởi ngày nay, học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chắc chắn nhất, sâu sắc nhất và chân chính nhất, là “cẩm nang thần kỳ” cần thiết để đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ảnh minh họa (Tạp chí Cộng sản)

PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG TIÊU CỰC TRÁNH "TRƯỚC NÓNG SAU LẠNH"


Quý I năm 2023, các địa phương trong cả nước khởi tố mới 512 vụ án với 1.283 bị can phạm tội về tham nhũng; số vụ án có cán bộ, đảng viên bị khởi tố do hành vi tiêu cực là 225 vụ án với 835 bị can.
Những con số đó được đưa ra tại hội nghị giao ban ngành nội chính Đảng và ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) tỉnh, thành phố cho thấy quyết tâm, nỗ lực trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực, đưa nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này không chỉ là tuyên ngôn chính trị mà trở thành hành động thực tế từ Trung ương tới cơ sở.
Rõ ràng, cuộc chiến PCTNTC chỉ thực sự thành công khi “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, không chỉ ở Trung ương mà cần sự vào cuộc quyết liệt của địa phương, cơ sở. Thế nhưng, thực tế cho thấy, một thời gian dài, ở không ít nơi vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”. Không đâu nắm rõ tình hình địa phương hơn cấp ủy, chính quyền, những người đứng đầu tại cơ sở, nhưng nghịch lý ở chỗ nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực lại không được phát hiện từ đây... Nguyên nhân của thực trạng đó được thực tiễn đưa ra câu trả lời, bởi một số cấp ủy, người đứng đầu e dè, nể nang, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy lên cấp trên; sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng yếu kém, còn hình thức trong thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh...
Chính bởi tồn tại nêu trên nên khi chủ trương thành lập ban chỉ đạo PCTNTC tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (ban chỉ đạo) được thực thi, cán bộ, đảng viên và nhân dân rất kỳ vọng vào cuộc đấu tranh này sẽ tạo nên một “vòng tròn khép kín” từ Trung ương tới cơ sở. Kể từ khi thành lập đến nay, các ban chỉ đạo (BCĐ) triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng và đạt được một số kết quả tích cực, nhất là đưa nhiều vụ án, vụ việc vào theo dõi, chỉ đạo để tập trung xử lý; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra để phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực.
Bên cạnh kết quả đạt được, thực tiễn hoạt động của các BCĐ cũng xuất hiện những tồn tại, hạn chế. Một số địa phương chưa quán triệt nghiêm quy định của Ban Bí thư về thành phần tham gia, bố trí nhân sự BCĐ chưa bảo đảm cơ cấu, thành phần. Một số BCĐ chậm ban hành quy chế làm việc, chương trình công tác, chưa cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế địa phương. Một số ban nội chính tỉnh ủy, thành ủy lúng túng về phương pháp, cách làm trong tham mưu, phục vụ hoạt động của BCĐ...
Dư luận bày tỏ sự thấu hiểu trước những tồn tại, hạn chế bởi các BCĐ đi vào hoạt động chưa đầy một năm, đang trong quá trình vừa làm, vừa hoàn thiện, rút kinh nghiệm. Thế nhưng, vấn đề được đông đảo người dân mong mỏi là tính bền vững xuyên suốt, tránh tình trạng hình thức, tắc trách, được chăng hay chớ, lúc ra mắt thì rầm rộ nhưng sau đó thì hoạt động thưa thớt dần. Muốn thế, các BCĐ cần có chương trình, kế hoạch, quy chế công tác một cách bài bản, kiểm tra, đôn đốc thường xuyên; phải thực sự là một tập thể mạnh, đoàn kết thống nhất cao. Mỗi thành viên cần hết sức gương mẫu, công tâm, trong sạch, không bị cám dỗ bởi bất cứ lợi ích nào và cũng không ngại bất cứ lực cản không trong sáng nào.
Cùng với nắm vững chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, “đúng vai, thuộc bài", không làm thay, lấn sân sang cơ quan khác, các BCĐ cần kiên quyết loại bỏ “mắt xích” yếu, bảo đảm bộ máy vận hành và công tác PCTNTC ở địa phương, cơ sở tiến hành thông suốt, tránh “trước nóng, sau lạnh”.
ST

KHUYẾN KHÍCH CÁN BỘ NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM


Đổi mới, sáng tạo là yêu cầu quan trọng, cần thiết trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
Nội dung này luôn được nhấn mạnh trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đó là cần có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Để đáp ứng mục tiêu trên, đang rất cần những giải pháp, chính sách tập trung, đủ mạnh để khuyến khích đối với cán bộ và nhất là cơ chế để bảo vệ cán bộ trong những trường hợp quyết định sáng tạo, đột phá vì lợi ích chung.
Thực tiễn lãnh đạo, quản lý, điều hành công việc của không ít cán bộ vẫn còn những bất cập, vướng mắc.
Nhiều công việc đòi hỏi phải đi tắt, đón đầu, vấn đề mới nảy sinh, tình huống cấp bách chưa có tiền lệ, chưa được quy định, chưa có kinh nghiệm, dễ gây rủi ro, sai sót, thiệt hại hoặc dễ bị lợi dụng để làm trái, trục lợi, khiến cho cán bộ nói chung chưa phát huy được hết năng lực, tinh thần đổi mới, sáng tạo, thậm chí trì trệ vì e ngại bị xem xét trách nhiệm hình sự hoặc xử lý kỷ luật.
Bộ Nội vụ đang tổ chức lấy ý kiến để trình Chính phủ dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
Một trong những nội dung đáng quan tâm là việc quy định cụ thể các trường hợp cán bộ khi đề xuất thực hiện các kế hoạch, đề án, ý tưởng đổi mới nhưng xảy ra sai sót, gây thiệt hại, sẽ được áp dụng các biện pháp bảo vệ theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đó là, cán bộ thực hiện đề xuất trong tình thế cấp thiết, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự; cán bộ bị cản trở, gây khó khăn trong quá trình thực hiện đề xuất; cán bộ thực hiện đề xuất báo cáo cấp có thẩm quyền về việc chấm dứt thực hiện đề xuất khi thấy có rủi ro, thiệt hại xảy ra hoặc có khả năng xảy ra thiệt hại.
Cán bộ thực hiện đề xuất phải chấp hành quyết định của cấp trên sau khi đã báo cáo, đề xuất cấp có thẩm quyền về việc chấm dứt thực hiện đề xuất nhưng cấp có thẩm quyền vẫn quyết định tiếp tục thực hiện đề xuất.
Cán bộ thực hiện đề xuất chấm dứt ngay việc thực hiện đề xuất khi có yêu cầu của cấp có thẩm quyền; được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi dân sự khi thực hiện đề xuất đã được phê duyệt và cán bộ thực hiện đề xuất đã qua đời.
Nội dung nêu trên đang nhận được sự quan tâm sâu sắc của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân bởi ý nghĩa chính trị rất lớn và có tác động sâu rộng trong thực tiễn.
Tuy nhiên, để vấn đề này phát huy hiệu quả tích cực, góp phần tạo cơ sở pháp lý, tạo cơ chế đủ mạnh khuyến khích, bảo vệ cán bộ thì cần tập trung tuyên truyền nâng cao nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, nhất là nâng cao nhận thức của cấp ủy, người đứng đầu chính quyền các cấp về ý nghĩa và tầm quan trọng, từ đó xây dựng cơ chế phù hợp chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của cơ quan, đơn vị.
Thường xuyên phổ biến, tập huấn các quy định pháp luật liên quan cho đội ngũ, coi đây là nhiệm vụ chính trị lâu dài để lan tỏa sâu sắc tới từng cán bộ, công chức, viên chức và người lao động, giúp họ thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của bản thân.
Mặt khác, đây là chính sách mới, cho nên cần mạnh dạn thí điểm nhưng phải thận trọng, vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm, tiến tới luật hóa nhằm tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ trong việc khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, hạn chế các hành vi lạm dụng, lợi dụng chính sách đúng đắn này để trục lợi, tham nhũng, tiêu cực hoặc bao che cho hành vi sai phạm.
Đồng thời tạo sức răn đe các trường hợp gây cản trở, khó khăn cho người thực hiện đề xuất, ý tưởng đổi mới.
Về lâu dài, cần rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đồng bộ, thống nhất, khắc phục tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các luật gây khó khăn cho việc áp dụng.
Tích cực số hóa trong từng ngành, lĩnh vực nhằm công khai, minh bạch các quy định pháp luật, giúp người thực thi công vụ tiếp cận, tra cứu thuận lợi và đầy đủ cũng như bảo đảm phát huy quyền giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức, đoàn thể chính trị-xã hội và nhân dân nhất là kịp thời phát hiện, chấn chỉnh thiếu sót nếu có trong quá trình thực hiện các đề xuất, cách làm đổi mới, sáng tạo, trong xử lý, triển khai công việc ở những lĩnh vực cần đi tắt, đón đầu hay các vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, tình huống cấp bách chưa có tiền lệ.
Báo Nhân dân

TRƯỚC KHI CỐ TÌNH XUYÊN TẠC, VU CÁO HÃY NHỚ ĐẾN NHỮNG NỘI DUNG NÀY


Các thế lực chống phá, thế lực xấu luôn cố tình xuyên tạc, vu khống về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Những luận điệu cũ rích thường được chúng đưa ra là: Chúng xuyên tạc mục tiêu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” của quân và dân ta; chúng cho rằng đó là cuộc “nội chiến’, “huynh đệ tương tàn”, “miền Bắc xâm lược miền Nam”; chúng ca ngợi “Việt Nam Cộng hòa” là tốt đẹp và chưa bao giờ là “nô dịch” của Mỹ, Mỹ vào miền Nam chỉ là để giúp đỡ đồng minh Việt Nam Cộng hòa; chúng xuyên tạc từ sau ngày 30 – 4 – 1975 đến nay Việt Nam rơi vào “thảm cảnh”, “bế tắc”, bị cô lập, bị cả thế giới lên án, không tôn trọng “thể chế chính trị xấu xa, mục ruỗng” ở Việt Nam…
Có rất nhiều thực tế, lý lẽ, cơ sở để đập tan sự xuyên tạc, vu khống thâm độc, xấu xa với mục đích chống phá nêu trên của các thế lực thù địch, thế lực xấu. Chúng ta không nhắc lại quá khứ để gây mâu thuẫn, gây hận thù mà chỉ nhằm chứng minh sự thật lịch sử đã diễn ra để phản bác sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch và những thông tin xấu độc.
Và trong nội dung bài viết này, tác giả cũng chỉ xin đề cập đến mấy nội dung sau:
Không ai có thể phủ nhận hành động đưa quân xâm lược miền Nam Việt Nam của đế quốc Mỹ là nhằm xâm chiếm, chia rẽ khối thống nhất của dân tộc Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, là căn cứ quân sự của chúng. Chính quyền Mỹ đã tiêu tốn hàng trăm tỉ USD, huy động khoảng 3 triệu lượt lính Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam Việt Nam (lúc cao nhất quân đội Mỹ đã đưa đến miền Nam 638. 000 quân). Quân xâm lược Mỹ đã gây ra nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam. Ở miền Nam, quân đội Mỹ thường xuyên giết hại, đốt phá, cướp bóc, trong đó có những vụ thảm sát dân thường rất dã man. Xin đơn cử như ngày 16 – 3 – 1968, quân Mỹ đã gây ra vụ thảm sát Mỹ Lai ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, lính Mỹ đã giết hại đến hơn 500 người dân. Với miền Bắc Việt Nam, quân Mỹ đã dùng máy bay, tàu chiến bắn phá ác liệt nhằm “đưa miền Bắc Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá”. Đặc biệt, trong 12 ngày đêm tháng 12 – 1972, Mỹ đã dùng cả pháo đài bay B52 để đánh phá vào Hà Nội và nhiều địa phương ở miền Bắc Việt Nam, trong đó có cả bệnh viện, trường học, khu phố… giết hại nhiều thường dân như ở Bệnh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên… Chỉ qua mấy sự thật ấy thôi, thử hỏi Việt Nam có phải chiến đấu đánh đuổi đế quốc Mỹ cút khỏi Việt Nam không? Xin nhớ, vào những năm tháng ấy, “Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được cả dân tộc Việt Nam đồng tâm quyết chí thực hiện và đã thực hiện thắng lợi trọn vẹn: “… Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn tiếp tục phải chiến đấu quét sạch nó đi…”.
Thiết nghĩ cũng cần nhắc đến ý kiến của những người Mỹ đã từng ở trong cuộc và dư luận Mỹ về cuộc chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam. Như tướng McNamara, cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, người được coi là “Kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ông ta từng viết: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp. Chúng tôi đã mắc nợ các thế hệ tương lai trong việc giải thích tại sao lại sai lầm như vậy”. Còn trong cuốn sách có nhan đề “Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ xuất bản tại Mỹ năm 1991, đã nói thẳng: “Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam”.
Chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa cấu kết với Mỹ, phá hoại Hiệp định Giơ – ne – vơ về lập lại hòa bình ở Việt Nam và Đông Dương, âm mưu “Bắc tiến”, gây bao tội ác với chính nhân dân miền Nam. Đạo Luật 10/59 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã giết hại hàng loạt cán bộ kháng chiến và người dân miền Nam; quân đội Việt Nam Cộng hòa và đã trực tiếp tiến hành hoặc tham gia cùng quân xâm lược gây ra nhiều vụ thảm sát giết hại dân thường, như vụ thảm sát ở xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Đà (cũ), chúng đã xả súng giết chết hàng trăm người dân, hầu hết là phụ nữ và trẻ em. Chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa thực chất phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ, tham nhũng, mục ruỗng. Chính Nguyễn Văn Thiệu, người nhiều năm là Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã từng nói: “Nếu Mỹ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập”. Còn nguyên Bộ trưởng Kinh tế của Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Tiến Hưng thì nhận xét về Việt Nam Cộng hòa: “Lãnh đạo thì độc tài, thiếu khả năng, quá tin vào Mỹ, tham nhũng, có khi còn xa hoa quá mức… sự lệ thuộc vào Hoa Kỳ gần như hoàn toàn, cả về vật chất và tâm lý…”.
Cũng như đã đề cập ở phần trên, chính sức mạnh vô địch của ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, tinh thần đoàn kết, quyết tâm, anh dũng chiến đấu hy sinh của nhân dân cả nước và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng dưới sự đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, cùng sự đoàn kết giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân tiến bộ Mỹ đã trở thành sức mạnh vô địch để Việt Nam “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, đưa Việt Nam thống nhất bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vững mạnh, hùng cường.
Thực tế những năm qua đã chứng minh: Việt Nam đã và đang ngày càng có uy tín với cộng động quốc tế, được cộng đồng quốc tế tin tưởng, tôn trọng. Đó là kết quả của đường lối đối ngoại đúng đắn, phù hợp mà Việt Nam đã và đang khẳng định, duy trì. Ngày 29 – 3 – 2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, là bạn bè, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Về mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh những kết quả đạt được trong quan hệ giữa hai nước là phù hợp với nguyện vọng của nhân dân hai nước, được thúc đẩy trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của mỗi nước, hiểu biết lẫn nhau, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi và theo tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”. Tổng thống Hoa Kỳ nhất trí với ý kiến trên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và khẳng định Việt Nam là đối tác quan trọng, ủng hộ một Việt Nam “độc lập, tự cường và thịnh vượng”, tái khẳng định tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thể chế chính trị của Việt Nam, nhất trí rằng sự tôn trọng là một nền tảng quan trọng của quan hệ hai nước.
Nhân dân Việt Nam không lạ gì những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, vu cáo, nói láo với mục đích chống phá của các thế lực thù địch, thế lực xấu. Và chúng ta cũng đủ bản lĩnh, kinh nghiệm để chiến thắng sự chống phá đó như thực tế đã diễn ra. Xin nhắc các thế lực thù địch, thế lực xấu: trước khi xuyên tạc, vu khống, nói láo về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì hãy nhớ đến những nội dung trên cũng như những sự thật lịch sử khác đã diễn ra chứng minh thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chính nghĩa, anh dũng của nhân dân Việt Nam.
ST
Có thể là hình ảnh về 3 người

NHIỀU CHÍNH SÁCH "KHÁ MẠNH TAY" ĐỂ TINH GIẢN BIÊN CHẾ


Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách là một nội dung đột phá. Theo đó, sẽ tăng thêm biên chế đối với cấp xã, nên phải báo cáo Bộ Chính trị để bổ sung số biên chế này. Về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, Bộ Nội vụ đề xuất chính sách "khá mạnh tay" để có thể thực hiện ngay việc sắp xếp.
Đề xuất tăng thêm biên chế cán bộ, công chức cấp xã
Bộ Nội vụ đang xây dựng dự thảo các nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế; khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung; cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách.
Theo đồng chí Phạm Thị Thanh Trà, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự đảng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, việc xây dựng 3 nghị định này liên quan đến việc tạo điều kiện cho sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã tới đây.
Đồng thời khẳng định, năm 2023, 2024 là thời điểm tập trung cao nhất để sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã cho nên cần phải chuẩn bị đầy đủ các cơ chế, chính sách để tổ chức thực hiện.
Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách là một nội dung đột phá. Theo đó, sẽ tăng thêm biên chế đối với cấp xã, nên phải báo cáo Bộ Chính trị để bổ sung số biên chế này.
Khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm
Nghị định quy định về chính sách tinh giản biên chế phải tích hợp một số nghị định liên quan đến chính sách tinh giản biên chế.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho biết, dự thảo nghị định đưa ra chính sách "khá mạnh tay" để có thể thực hiện ngay việc sắp xếp.
Về dự thảo Nghị định khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, Bộ trưởng Phạm Thị Thanh Trà cho rằng, đây là nghị định rất khó, mang tính chính trị cao.
Trong bối cảnh chúng ta đang tích cực đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, một bộ phận cán bộ có tư tưởng chần chừ, giữ an toàn, sợ sai, cần có những cơ chế, chính sách để cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.
Về dự thảo Nghị định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, gồm 3 chương, 15 điều. Cần sớm trình Chính phủ ban hành để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung nhằm thể chế hóa chủ trương tại Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị.
Về đối tượng áp dụng, có hai loại ý kiến: Ý kiến thứ nhất, đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước; ý kiến thứ hai, đối tượng áp dụng là cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước (kể cả cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn, nghiệp vụ không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý).
Về nguyên tắc khuyến khích, bảo vệ cán bộ, có 5 nguyên tắc: (1) Khuyến khích mọi cán bộ năng động, sáng tạo trong phạm vi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; (2) Phải được tiến hành kịp thời, dân chủ, công khai, minh bạch; (3) Phải bảo đảm không trái Hiến pháp và Điều lệ Đảng; (4) Khi thực hiện mà xảy ra thiệt hại thì phải xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, được xem xét miễn xử lý trách nhiệm; (5) Trường hợp lợi dụng chủ trương thì bị xử lý nghiêm.
Về dự thảo Nghị định quy định về tinh giản biên chế (thay thế Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20-11-2014, Nghị định số 113/2018/NĐ-CP ngày 31-8-2018 và Nghị định số 143/2020/NĐ-CP ngày 1-12-2020), gồm 5 chương và 25 điều.
Dự thảo đã đưa ra các nội dung sửa đổi, bổ sung về đối tượng áp dụng, các trường hợp tinh giản biên chế, các chính sách tinh giản biên chế, chính sách nghỉ hưu trước tuổi đối với cán bộ, công chức cấp xã có tuổi thấp hơn tối đa đủ 10 tuổi đến trên 5 tuổi so với tuổi nghỉ hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, chính sách tinh giản biên chế đối với cán bộ, công chức, viên chức và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030 nghỉ ngay trong thời gian 6 tháng kể từ khi có quyết định sắp xếp của cơ quan có thẩm quyền.
Về dự thảo Nghị định quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố (thay thế các Nghị định số 114/2003/NĐ-CP, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, Nghị định số 112/2011/NĐ-CP và Nghị định số 34/2019/NĐ-CP), gồm 4 chương và 40 điều.
Dự thảo đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung về quy định chức danh, số lượng, tiêu chuẩn (khung năng lực) và nhiệm vụ cụ thể (bản mô tả công việc) của từng chức vụ, chức danh cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, về chế độ phụ cấp đối với người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, chế độ hỗ trợ đối với người trực tiếp tham gia hoạt động ở thôn, tổ dân phố, phụ cấp kiêm nhiệm,.../.
Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 1 người và đang đứng

LỜI BÁC DẶN NĂM XƯA: “TRÍ TUỆ VÀ SÁNG KIẾN CỦA QUẦN CHÚNG LÀ VÔ TẬN”


Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng”.
Cách đây tròn 65 năm, trong lưu bút ghi tại triển lãm ngành Hậu cần quân đội (1-4-1958), Bác Hồ viết: “Trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô cùng tận”.
Đây không chỉ là lời nhắc nhở với riêng cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân đội, mà là cho đến hôm nay vẫn là bài học đạo đức dành cho tất cả chúng ta về ý thức gần dân, trọng dân và phát huy sức mạnh của Nhân dân trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào.
Không quá khi nói biểu tượng sức mạnh của dân tộc Việt Nam là lòng dân. Lời Bác nhắc nhớ cảnh dân làng góp cơm, góp cà để cậu bé Gióng vươn mình thành người khổng lồ đánh đuổi giặc Ân. Những tích truyện dân gian về các bậc tiên hiền đã dựa vào sức mạnh của Nhân dân để đánh đuổi ngoại xâm, giữ yên bờ cõi vẫn truyền miệng đời đời. Là tiếng hô “Sát Thát” rung chuyển điện Diên Hồng của bô lão cả nước, “chúng chí thành thành” bảo vệ non sông xã tắc vững vàng trước vó ngựa Nguyên Mông. Là Lê Lợi trong những ngày khởi nghĩa Lam Sơn còn trong trứng nước, đã được những vợ chồng lão nông đang bắt cá, bà hàng nước ven đường cứu giúp lúc gian nguy; được dân bản dưới chân núi Phay Lệnh, Phay Tong giúp đặt bẫy Pát giết bầy chó ngao của giặc Minh... Là Quang Trung Nguyễn Huệ trọng sĩ, cầu hiền, nhất mực tôn La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là “bậc thầy để thờ”, 2 lần tìm để hỏi kế diệt giặc; thâu nạp quanh mình những sĩ phu đứng đầu đất Bắc Hà như Ngô Văn Sở, Đặng Tiến Đông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm... thành những cánh tay đắc lực cho sự nghiệp thống nhất sơn hà.
Và, chẳng phải hình ảnh chiếc xe thồ là biểu tượng cho sáng kiến của Nhân dân, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đấy sao.
Ta càng thêm nhớ ông Ké, già Thu trong những ngày hoạt động trong sự đùm bọc nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc. “Đồng bào Thổ, đồng bào Nùng, đồng bào Mán... người thì giúp chúng tôi ăn, kẻ thì cho chúng tôi áo. Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu, bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mạng...” (Lòng nhân ái và đức khoan dung, NXB Hà Nội, 2020). Trong căn lán Nà Lừa - Tân Trào trước ngày tổng khởi nghĩa, Bác lâm bệnh nặng, được “Ông cụ lang già người Tày xem mạch, sờ trán Bác rồi đốt cháy một thứ củ vừa đào trong rừng về, hòa vào cháo loãng. Sau đó Bác tỉnh. Hôm sau, Bác ăn thêm vài lần với cháo loãng nữa, cơn sốt nhẹ dần...” (Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký) - chẳng phải cũng là biểu hiện sinh động của trí tuệ quần chúng.
Hoạt động cách mạng trong sự đùm bọc của Nhân dân, vì thế mà trong suốt sự nghiệp cách mạng của mình, Bác luôn đề cao tư tưởng trọng dân, vì Nhân dân phục vụ, coi trọng sức mạnh vĩ đại của Nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân. Khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì thành vô địch”. “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được... Việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt”.
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị là Chủ tịch nước, Người đã có bài viết với tiêu đề “Tìm người tài-đức” đăng trên Báo Cứu quốc để quy tụ, tập hợp nhân sĩ, trí thức mang tài năng, đảm lược ra giúp nước. Cùng với lời hiệu triệu, ứng xử của Bác với nhân sĩ, trí thức cũng trở thành những bài học luôn nóng hổi tính thời sự. Ví như chuyện, sau khi Hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với phía Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946 nhằm kéo dài hòa bình. Trước lúc trở về Tổ quốc, Bác gặp và nói với kỹ sư Phạm Quang Lễ - thời điểm đó đang được nước Pháp hết sức trọng dụng vì tài năng, rằng: “Bác về nước, chú chuẩn bị về với Bác. Hai ngày nữa ta lên đường”. Chỉ thế thôi và cách mạng Việt Nam có được một Thiếu tướng, Giáo sư, Anh hùng Lao động Trần Đại Nghĩa sau này.
Học tập và làm theo tư tưởng trọng dân và phong cách gần dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cấp ủy, chính quyền cần luôn quan tâm phát huy dân chủ, đề cao ý kiến của Nhân dân. Có các giải pháp để tiếp tục tập hợp, đoàn kết, cổ vũ và khuyến khích Nhân dân hăng hái tham gia các phong trào thi đua yêu nước “đem sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân”.
ST
Có thể là hình ảnh về 2 người

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 03/4


“Giúp nhân dân nước bạn là tự giúp mình” .
Trích trong thư gửi các đơn vị bộ đội có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3 tháng 4 năm 1953: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”.
Thực hiện tuyên bố chung “Đoàn kết Việt - Miên - Lào chống Pháp”, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho Quân đội nhiệm vụ vừa giúp bạn tổ chức, xây dựng lực lượng, vừa cùng quân và dân nước bạn trực tiếp chiến đấu chống quân thù. Người căn dặn cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta tham gia làm nhiệm vụ quốc tế phải coi việc giúp đỡ bạn là tự giúp mình.
Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta đã luôn sát cánh, gắn bó, chiến đấu và sẵn sàng hy sinh để giúp đỡ quân đội và nhân dân các nước bạn trên tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả, trong sáng và vô tư, cùng nhau đánh bại kẻ thù chung để giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của đế quốc, thực dân, xây dựng và phát triển đất nước.
Mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc. Đó là mối quan hệ mẫu mực hiếm có, trong sáng, rất mực thủy chung, được xây đắp trên tinh thần quốc tế vô sản, tạo nên một sức mạnh giúp nhân dân hai nước vượt qua mọi khó khăn, giành được thắng lợi cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung, làm cho hai dân tộc ngày càng phát triển.
Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, nhưng mối quan hệ đặc biệt Việt - Lào vẫn được Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội hai nước không ngừng củng cố và tăng cường. Hợp tác chính trị ngày càng bền chặt, hợp tác quốc phòng - an ninh được giữ vững, hợp tác kinh tế không ngừng được tăng cường, hợp tác giáo dục, văn hóa, xã hội ngày càng đa dạng… mang lại hiệu quả và lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thương nhau mấy núi cũng trèo/ Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/ Việt - Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, tích cực giúp đỡ bạn, nhất là Quân đội Lào và Campuchia, đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, góp phần giữ vững môi trường hòa bình trong khu vực và trên thế giới./.
Có thể là hình ảnh về 1 người và văn bản cho biết 'TƯ TƯỞNG Há CHÍ MINH MÃI MÃI SOI SÁNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM'

GIỚI HẠN NÀO CHO SÁNG TẠO, DÁM NGHĨ, DÁM LÀM?


Những ngày cuối tháng 3-2023, Bộ Nội vụ tổ chức nhiều cuộc hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Đây là nghị định cụ thể hoá Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Đây là vấn đề mới, khó thu hút sự quan tâm không chỉ đội ngũ cán bộ, đảng viên mà toàn xã hội. Bởi cuộc sống luôn biến động, nhất là khi tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, suy thoái kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh… đang đặt ra những khó khăn, thách thức không thể giải quyết trong một sớm, một chiều. Không có cơ chế khuyến khích, tạo động lực cho cán bộ sáng tạo, dám đột phá, đương đầu với thử thách, khó thúc đẩy được công cuộc đổi mới đi lên.
Nhưng sáng tạo, dám nghĩ, dám làm đến đâu?
Lằn ranh giữa đổi mới, thực hiện các ý tưởng sáng tạo, dám làm những suy nghĩ chưa từng có với cố ý làm trái rất mỏng manh. Hơn nữa, dù đã có rất nhiều tiến bộ nhưng hệ thống pháp luật của ta chưa đồng bộ. Cùng một vấn đề, áp dụng luật này thì đúng, nhưng khi thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra áp dụng luật khác thì thành sai. Thời điểm này có thể đúng, khi kiểm tra ở thời điểm khác lại sai, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung chưa được thể chế hóa…
Tuy nhiên, không vì thế mà cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý có tinh thần trách nhiệm cao chùn bước.
Quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thực tiễn đòi hỏi cán bộ phải có tư duy sáng tạo, cách làm đột phá, tháo gỡ, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt trong cơ chế, chính sách. Trong đó có những vấn đề chưa được quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn, nhằm mang lại giá trị, hiệu quả thiết thực, tạo được chuyển biến mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của đất nước, dân tộc. Không có một Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc dám vượt lên đường lối làm ăn tập thể để “giao khoán ruộng" cho nông dân, làm sao chúng ta có được "khoán 10", nhờ đó mà đất nước mới thoát khỏi nền nông nghiệp năng suất thấp?
Việt Nam chẳng những không phải vất vả lo dân thiếu lương thực mà còn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo, khi tiềm năng đất đai, lao động, sự sáng tạo của nông dân được khai thác triệt để. Mặc dù khi đó, cái giá phải trả của người đi tiên phong là những sóng gió, thăng trầm. Không có một Tổng Bí thư Trường Chinh với tầm nhìn sáng suốt, bản lĩnh quyết đoán làm sao những sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của cấp được bảo vệ, thực hiện thành công trên cả nước?
Giữa bao vây cấm vận, muôn vàn bao khó khăn bộn bề của đất nước, không có bước đi mang tính "vượt rào" của Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt; không có tinh thần kiên định "nói và làm" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh làm sao chúng ta có sức mạnh phá bỏ những rào cản nằm ngay trong chính bộ máy lãnh đạo, xoá bỏ tình trạng trì trệ, bảo thủ, tháo gỡ những vấn đề bức xúc của đất nước và làm sao có được thành tựu rạng rỡ của sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua?
Có được tinh thần sáng tạo, dám nói, dám làm ấy phải chăng không chỉ có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với sự nghiệp của Đảng mà trong suy nghĩ của những cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn ghi lòng tạc dạ lời dạy của Bác Hồ làm kim chỉ nam trong mọi hành động: Việc gì có lợi cho dân ta phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh. Đấy cũng là giới hạn rộng lớn mà mỗi cán bộ, đảng viên thoả sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích của Nhân dân, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Xây dựng Đảng
Có thể là hình ảnh về 8 người và mọi người đang đứng

ÔNG CHA TA ĐÁNH GIẶC: NGHI BINH BẢO VỆ ĐOÀN XE


Cuối tháng 2-1969, Tiểu đoàn 102, Binh trạm 32, Bộ tư lệnh Đoàn 559 được lệnh vào nhận hàng hóa ở huyện Bố Trạch (Quảng Bình) và vận chuyển vào chiến trường miền Nam. Tiểu đoàn đã huy động hơn 80 xe vận tải các loại gồm Zil-157, Zil-130, A-30 để chở vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm từ miền Trung chi viện cho miền Nam ruột thịt.
Những ngày đầu xuân, những chú "tuấn mã Trường Sơn" phủ kín lá ngụy trang nối đuôi nhau hành quân vào chiến trường. Trời gần sáng rõ, chiếc xe đi đầu xuyên qua rừng già ra khoảng trống ở lưng chừng núi, bị máy bay trinh sát OV-10 phát hiện và bắn đạn khói. Nhận biết tình huống chẳng lành, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng nhanh chóng chỉ huy đoàn xe lùi lại phía sau, ẩn nấp vào các vách đá, dưới những tán cây cổ thụ, bẻ cành cây ngụy trang kín thân xe.
Với sự “chỉ điểm” của chiếc OV-10, ít phút sau, chiếc phản lực bổ nhào xuống cắt bom đánh phá nhưng không trúng mục tiêu. Khu vực này chưa có trận địa pháo phòng không yểm trợ nên cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 102 chỉ còn cách đánh trả với các loại vũ khí có trong tay. Rất nhanh chóng, sau khi trao đổi với Ban chỉ huy Tiểu đoàn, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng yêu cầu bộ đội lấy súng tiểu liên AK, CKC cơ động ra vị trí cách xa xe ô tô, lợi dụng địa hình, địa vật, khi chiếc OV-10 bay xuống thấp trinh sát mục tiêu là nổ súng ngăn chặn. Do địa hình hai bên là núi cao nên chiếc máy bay OV-10 không dám bay thấp vì sợ bị trúng đạn, việc “chỉ điểm” vì thế không chính xác. Vậy nên máy bay phản lực chỉ thả các loạt bom vu vơ, không trúng được đoàn xe.
Tuy nhiên, kẻ địch cũng không chịu thua, chúng giả vờ quay đi, một lúc sau trở lại trinh sát xem ta có động tĩnh gì không. Lúc này, đoàn xe của Tiểu đoàn 102 vẫn án binh bất động dưới tán rừng già. Chỉ khi nhận thấy tình hình đã an toàn, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Thuận Quảng mới cho lệnh đơn vị tiếp tục lên đường xốc tới miền Nam.
(Ghi theo lời kể của Đại tá Nguyễn Thuận Quảng, nguyên giảng viên Khoa Hậu cần-Kỹ thuật, Học viện Quốc phòng).
Báo QĐND
Có thể là hình ảnh về 3 người, mọi người đang đứng và ngoài trời