Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

Nhất quán chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa


Trong dòng chảy toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, thực hiện chính sách đối ngoại cân bằng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại là một trong những lựa chọn của không ít các quốc gia trên thế giới nhằm tối ưu hóa lợi ích quốc gia.

Trong lịch sử thế giới, mọi quốc gia, dân tộc trong giải quyết các mối quan hệ đối ngoại đều đề cao và đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc mình lên trên hết. Đặc biệt, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, vừa là đối thủ, vừa là đối tác của nhau. Không có một quốc gia nào vì quyền lợi nước khác mà hy sinh quyền lợi của nước mình. Do đó, quan điểm liên minh với nước này để chống nước khác hoàn toàn là phi thực tế. Hơn nữa, nếu chỉ trông chờ ảo tưởng vào sự trợ giúp của nước ngoài thì quốc gia đó sẽ trở thành quân cờ trong bàn cờ chiến lược của họ. Nếu chỉ dựa vào một bên, rơi vào quỹ đạo ảnh hưởng của nước khác, không sớm thì muộn, sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác, thậm chí còn làm trầm trọng, căng thẳng và phức tạp thêm tình hình. Nó sẽ khiến quốc gia phải lệ thuộc vào chính sự lựa chọn này, là một trong những nguồn gốc làm mất tính độc lập, tự chủ, làm xói mòn sức mạnh, vị thế của đất nước. Nhiều bài học xương máu của các nước trong lịch sử và cả hiện tại minh chứng rõ điều đó.

Bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay buộc các nước, nhất là các nước vừa và nhỏ, phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, giữ cân bằng quan hệ trên tinh thần đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế. 

Mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta thể hiện  trong các văn kiện Đại hội. Trong hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong thời gian vừa qua, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa giúp Việt Nam tạo dựng một mạng lưới quan hệ rộng khắp, tranh thủ được nhiều yếu tố thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế. 

Thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, đan xen lợi ích với các đối tác chính là nhằm giúp đất nước tránh bị “ngả” về một bên, tránh bị lệ thuộc hoặc bị “kẹt” trong những toan tính chiến lược của các nước khác, bảo đảm sự vững vàng về tâm thế độc lập, tự chủ thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước trên thế giới.

Lịch sử dân tộc đã chứng minh, để bảo vệ được chủ quyền, độc lập dân tộc,  ông cha ta đã phải rất khéo léo trong việc xử lý mối quan hệ bang giao. Nằm ở vị trí địa - chính trị xung yếu, trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam luôn phải đối mặt với việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn. Do vậy, sự lựa chọn duy nhất trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ buộc ông cha ta phải đứng lên chống ngoại xâm, giành và bảo vệ vững chắc độc lập, song vẫn phải giữ đối sách ứng xử mềm, khôn khéo nhằm bình ổn đất nước, giữ yên bờ cõi.

Ngoại giao đa phương trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chính sách đối ngoại làm bạn với tất cả các nước, không gây thù oán với ai đã được Người vận dụng khéo léo trong mọi hoàn cảnh. Năm 1947, thay mặt nhân dân, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người gửi thông điệp tới nhân dân toàn thế giới là: Việt Nam chủ trương làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai. Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới; mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đối với kẻ thù khi bị sa lầy, bại trận, Người luôn tạo điều kiện, sẵn sàng mở cho đối phương một con đường rút lui trong danh dự. Trong ứng xử với các nước lớn, Người luôn khôn khéo xây dựng và giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp, tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của dân tộc. Khoan hòa, nhưng rất kiên quyết, kiên định nguyên tắc với kẻ thù. Người từng chỉ rõ, nguyên tắc thì phải vững chắc, nhưng sách lược cần linh hoạt. Chính vì vậy, cách ứng phó linh hoạt, mềm dẻo của Người, thậm chí có lúc chấp nhận lùi một bước để tiến những bước xa hơn, không những tranh thủ được thời cơ vàng để đưa cách mạng tiến lên, mà còn thu phục được sự nể trọng của đối phương.

Đường lối ngoại giao đa phương của Việt Nam ngày nay mang dấu ấn đậm nét tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đó là, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Trong triển khai chính sách đối ngoại đa phương, Việt Nam xây dựng, củng cố, phát triển mạng lưới quan hệ quốc tế đa dạng, duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, “coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng;... đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy”.

Đối với các nước lớn, Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại “không chọn bên”, đặt mục tiêu lợi ích quốc gia trong ứng xử với các nước này. Tăng cường đa dạng hóa, mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác sẽ giúp tạo nên một không gian lựa chọn rộng lớn nhiều chiều, nhiều tuyến, nhiều tầng nấc... nhằm tránh bị lệ thuộc vào một vài đối tác, thị trường, thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, góp phần huy động những nguồn lực và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong điều kiện hiện nay, giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn được hiểu là không ngả nghiêng, dao động, không chịu sức ép trước sự lôi kéo, tác động ảnh hưởng từ bên ngoài. Cân bằng trong quan hệ đối ngoại thể hiện sự độc lập, tự chủ trong chính sách, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một bên. Trong thế giới toàn cầu hóa và cạnh tranh nước lớn, giữ được thế cân bằng đòi hỏi phải có thực lực và tinh thần tự chủ. Trong hơn 35 năm đổi mới, thực lực cũng như  vị trí, vai trò của Việt Nam trên thế giới không ngừng được nâng cao. Quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, khu vực ngày càng mở rộng, đi vào thực chất, hiệu quả. Việt Nam giữ vững chính sách quốc phòng “bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Theo đó, chúng ta không dựa vào bên nọ để chống bên kia và ngược lại; phát triển quan hệ đối ngoại đa phương, thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược; gia tăng đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tranh thủ tối đa và tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó hiệu quả với mọi hình thức chiến tranh xâm lược...

Đứng vững trên cơ sở luật pháp quốc tế, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.

Thực tế sinh động diễn ra trong hơn 35 năm đổi mới, nhất là những năm gần đây, đã minh chứng cho tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Với mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam đã góp phần bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định; chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; đời sống nhân dân được nâng cao, cải thiện. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và đối tác toàn diện với 13 nước. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Trong thực hiện đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đối với những vấn đề phức tạp của các quốc gia, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn phát huy vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối ngoại. Vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Thực tế đó là minh chứng không thể phủ nhận về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược phức tạp và nhiều xu hướng tập hợp lực lượng đa chiều hiện nay, NTM./.

 

 

Sự chống phá chủ trương, đường lối đối ngoại của Việt Nam


Trong thời gian qua, tình hình thế giới và khu vực chuyển biến nhanh chóng với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song các nhân tố bất ổn ngày càng gia tăng. Đặc biệt, trong hơn hai năm qua, đại dịch COVID-19 tác động nghiêm trọng và để lại hậu quả nặng nề trên mọi mặt của đời sống xã hội ở hầu hết các quốc gia. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt hơn, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa đơn phương, chủ nghĩa bảo hộ trỗi dậy. Các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ. Quá trình định hình lại cấu trúc chính trị, kinh tế thế giới đang diễn ra ngày càng nhanh với những tập hợp lực lượng đa dạng, phức tạp, đan xen, tác động nhiều chiều đến hòa bình, an ninh và phát triển của các nước.

Lợi dụng bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, nhiều biến động mới; tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ráo riết tung ra những luận điệu xuyên tạc nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Mục tiêu cuối cùng mà sự chống phá của các thế lực này hướng tới không gì khác là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Sự tinh vi của những thủ đoạn này ở chỗ, họ lợi dụng không gian mạng xã hội - nơi khởi phát nhanh chóng những thông tin thật - giả, đúng - sai, tốt - xấu... đa chiều, phức tạp, để tung ra thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thậm chí, một số “nhà hoạt động”, “nhà dân chủ”, “học giả” tự xưng..., kể cả ở ngoài nước, đưa ra những “ý kiến”, “tư vấn”, “phản biện”, tạo những “cơn sóng ngược” trên mạng xã hội, mưu toan gieo rắc tâm lý hoang mang, mất phương hướng, tạo sự bức xúc, tâm lý chống đối, gây mất ổn định xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.

Chẳng hạn, họ xuyên tạc rằng đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay là “đu dây”, “tự sát”, bị lệ thuộc, chi phối bởi các cường quốc; rằng sự lạc hậu về chính sách đối ngoại sẽ khiến Việt Nam khó giữ được các quan hệ an ninh với các “phên dậu láng giềng”. Rồi họ đưa ra “lời khuyên”, “chỉ đường” cho Việt Nam nên bỏ chính sách “bốn không” để nghiêng về phương Tây, gắn với thực hiện “dân chủ hóa Việt Nam”. Xem đây là giải pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Và rằng, một nền dân chủ đích thực sẽ giúp đất nước thoát khỏi tình thế suy yếu, bị chèn ép...

Tính chất nguy hiểm của các luận điệu nêu trên là tạo ra sự hoang mang, dao động, gây chia rẽ từ bên trong, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam với các nước, nhất là các nước đối tác, đối tác chiến lược, khiến dư luận trong và ngoài nước hiểu sai lệch về Việt Nam.

“Chiến dịch quân sự đặc biệt” mà Nga thực hiện ở U-crai-na là một sự kiện quốc tế được các thế lực thù địch, phản động, lợi dụng triệt để nhằm bóp méo, xuyên tạc chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam hết sức khách quan, rõ ràng, thể hiện qua bốn lần bỏ phiếu, đó là đều khẳng định lập trường nhất quán về giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ, không sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, tiếp tục kêu gọi các bên giảm căng thẳng, ngừng bắn, nối lại đối thoại, tìm giải pháp lâu dài cho các bất đồng trên cơ sở tính tới quyền và lợi ích chính đáng của các bên liên quan. Phát biểu của Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc trong Phiên họp lần thứ 11 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thể hiện rất rõ quan điểm rằng, Việt Nam hết sức lo ngại về tình hình xung đột vũ trang hiện nay ở U-crai-na, một quốc gia có chủ quyền, thành viên của Liên hợp quốc. Việt Nam cho rằng, điều cấp bách hiện nay là cần kiềm chế tối đa và chấm dứt ngay lập tức việc sử dụng vũ lực để tránh thêm thương vong và tổn thất, đặc biệt là đối với dân thường. Việt Nam kêu gọi các bên liên quan giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và đàm phán thông qua tất cả các kênh, nhằm đạt được giải pháp lâu dài có tính đến lợi ích và quan ngại của tất cả các bên, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, trên các trang mạng, diễn đàn, tài khoản mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân thù địch, chống đối liên tục đăng tải tin, bài, cố tình đưa ra những luận điệu sai trái, suy diễn, võ đoán, quy chụp rằng quan điểm của Việt Nam là “mơ hồ”, “không kiên định”, “lập trường không dứt khoát”, “rõ ràng”; rằng Việt Nam “lạc lõng” trước thời cuộc. Từ đó, họ đưa ra những kết luận hàm hồ, vô căn cứ rằng Việt Nam sẽ “mất đi sự ủng hộ của các nước vì thực chất đã “chọn phe”…. NTM./.

 

 

Thành tựu trong thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam



Năm 1990, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên minh châu Âu; năm 1995 bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung hợp tác với Liên minh châu Âu và chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Năm 2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ - đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đầu tư, thương mại và tăng trưởng của nền kinh tế nước ta. Đến năm 2007, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Cùng với quá trình hội nhập khu vực và toàn cầu, Việt Nam cũng tăng cường hợp tác song phương, triển khai mạnh mẽ quan hệ hợp tác với các đối tác quan trọng, nhất là xây dựng khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; là đối tác chiến lược toàn diện với các nước Ân Độ, Trung Quốc và Nga. Đặc biệt, Việt Nam là nước duy nhất trong ASEAN đã thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược và Đối tác chiến lược toàn diện với toàn bộ 5 nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ nhóm nước G7 và 13/20 nước G20 và 8/9 nước trong ASEAN. Các đối tác này chiếm 8/10 thị trường xuất khẩu chính, với 60,7% tổng giá trị xuất khẩu; 9/10 thị trường nhập khẩu chính với 74,7% tổng giá trị nhập khẩu, 76,7% tổng lượng khách du lịch; đóng góp 74% tổng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.

Cơ sở quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện đã ký kết góp phần củng cố môi trường hòa bình, hữu nghị hợp tác với các đối tác quan trọng, đặc biệt là với các nước lớn, với các nước láng giềng có chung đường biên giới. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ đối tác với các nước lớn, có vai trò quan trọng giúp Việt Nam xử lý tốt quan hệ với các nước lớn, đưa hợp tác trở thành chủ đạo và kênh trao đổi giảm thiểu sự khác biệt trong quan hệ với các nước này, tạo điều kiện để tăng cường lòng tin. Thông qua các quan hệ song phương được thiết lập tạo ra sự đan xen lợi ích, giúp Việt Nam tranh thủ được nguồn lực quốc tế để phát triển đất nước và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, thể hiện thông qua vị trí của Việt Nam trong chính sách đối ngoại của các nước cũng như trong các khuôn khổ hợp tác đa phương.

Đến nay, Việt Nam đã hai lần đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Vai trò, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao đã chứng minh cho chủ trương, đường lối hội nhập đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Thực lực tổng hợp của quốc gia, sự đoàn kết và nỗ lực quyết tâm của toàn thể dân tộc, tính đúng đắn thể hiện mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là những yếu tố quyết định tạo nên vị thế, uy tín của đất nước. Điều đó minh chứng đất nước Việt Nam đang vững bước phát triển đi lên với một tư thế mới của những con người làm chủ độc lập và làm chủ vận mệnh của mình; với một vị thế mới, vị thế của một đất nước độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định đang trên đà phát triển và chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong các “sân chơi” khu vực và toàn cầu. Thực tế đó vừa minh chứng hùng hồn để đập tan sự xuyên tạc, chống phá; vừa thể hiện tính đúng đắn, sáng tạo và hiệu quả của đường lối, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vừa phản ánh Việt Nam có khả năng, có thực lực để giữ vững độc lập, tự chủ.

Những thành tựu không thể phủ nhận của chính sách và công tác đối ngoại của nước ta trong thời kỳ đổi mới chính là minh chứng để khẳng định đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta; vừa là luận cứ xác đáng để đấu tranh bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tỉnh táo nhận diện những luận điệu đó để có cách thức đấu tranh hợp lý chính là cách để mỗi chúng ta tiếp tục bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới./.