Trong dòng chảy toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, thực hiện chính sách đối ngoại cân bằng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại là một trong những lựa chọn của không ít các quốc gia trên thế giới nhằm tối ưu hóa lợi ích quốc gia.
Trong lịch sử thế giới, mọi quốc gia, dân tộc trong giải quyết các mối quan hệ đối ngoại đều đề cao và đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc mình lên trên hết. Đặc biệt, trong quan hệ quốc tế đương đại, các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, vừa là đối thủ, vừa là đối tác của nhau. Không có một quốc gia nào vì quyền lợi nước khác mà hy sinh quyền lợi của nước mình. Do đó, quan điểm liên minh với nước này để chống nước khác hoàn toàn là phi thực tế. Hơn nữa, nếu chỉ trông chờ ảo tưởng vào sự trợ giúp của nước ngoài thì quốc gia đó sẽ trở thành quân cờ trong bàn cờ chiến lược của họ. Nếu chỉ dựa vào một bên, rơi vào quỹ đạo ảnh hưởng của nước khác, không sớm thì muộn, sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác, thậm chí còn làm trầm trọng, căng thẳng và phức tạp thêm tình hình. Nó sẽ khiến quốc gia phải lệ thuộc vào chính sự lựa chọn này, là một trong những nguồn gốc làm mất tính độc lập, tự chủ, làm xói mòn sức mạnh, vị thế của đất nước. Nhiều bài học xương máu của các nước trong lịch sử và cả hiện tại minh chứng rõ điều đó.
Bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay buộc các nước, nhất là các nước vừa và nhỏ, phải có chính sách đối ngoại khôn khéo, giữ cân bằng quan hệ trên tinh thần đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong các văn kiện Đại hội. Trong hơn 35 năm đổi mới, nhất là trong thời gian vừa qua, chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa giúp Việt Nam tạo dựng một mạng lưới quan hệ rộng khắp, tranh thủ được nhiều yếu tố thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, nâng cao vị thế quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa, đan xen lợi ích với các đối tác chính là nhằm giúp đất nước tránh bị “ngả” về một bên, tránh bị lệ thuộc hoặc bị “kẹt” trong những toan tính chiến lược của các nước khác, bảo đảm sự vững vàng về tâm thế độc lập, tự chủ thông qua sự gia tăng tùy thuộc lẫn nhau giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Lịch sử dân tộc đã chứng minh, để bảo vệ được chủ quyền, độc lập dân tộc, ông cha ta đã phải rất khéo léo trong việc xử lý mối quan hệ bang giao. Nằm ở vị trí địa - chính trị xung yếu, trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, Việt Nam luôn phải đối mặt với việc xử lý mối quan hệ với các nước lớn. Do vậy, sự lựa chọn duy nhất trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ buộc ông cha ta phải đứng lên chống ngoại xâm, giành và bảo vệ vững chắc độc lập, song vẫn phải giữ đối sách ứng xử mềm, khôn khéo nhằm bình ổn đất nước, giữ yên bờ cõi.
Ngoại giao đa phương trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chính sách đối ngoại làm bạn với tất cả các nước, không gây thù oán với ai đã được Người vận dụng khéo léo trong mọi hoàn cảnh. Năm 1947, thay mặt nhân dân, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người gửi thông điệp tới nhân dân toàn thế giới là: Việt Nam chủ trương làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai. Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng có chung biên giới; mở rộng bang giao với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đối với kẻ thù khi bị sa lầy, bại trận, Người luôn tạo điều kiện, sẵn sàng mở cho đối phương một con đường rút lui trong danh dự. Trong ứng xử với các nước lớn, Người luôn khôn khéo xây dựng và giữ gìn được mối quan hệ tốt đẹp, tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của dân tộc. Khoan hòa, nhưng rất kiên quyết, kiên định nguyên tắc với kẻ thù. Người từng chỉ rõ, nguyên tắc thì phải vững chắc, nhưng sách lược cần linh hoạt. Chính vì vậy, cách ứng phó linh hoạt, mềm dẻo của Người, thậm chí có lúc chấp nhận lùi một bước để tiến những bước xa hơn, không những tranh thủ được thời cơ vàng để đưa cách mạng tiến lên, mà còn thu phục được sự nể trọng của đối phương.
Đường lối ngoại giao đa phương của Việt Nam ngày nay mang dấu ấn đậm nét tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Đó là, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Trong triển khai chính sách đối ngoại đa phương, Việt Nam xây dựng, củng cố, phát triển mạng lưới quan hệ quốc tế đa dạng, duy trì cân bằng quan hệ với các nước lớn, “coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng;... đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy”.
Đối với các nước lớn, Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại “không chọn bên”, đặt mục tiêu lợi ích quốc gia trong ứng xử với các nước này. Tăng cường đa dạng hóa, mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác sẽ giúp tạo nên một không gian lựa chọn rộng lớn nhiều chiều, nhiều tuyến, nhiều tầng nấc... nhằm tránh bị lệ thuộc vào một vài đối tác, thị trường, thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam, góp phần huy động những nguồn lực và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong điều kiện hiện nay, giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn được hiểu là không ngả nghiêng, dao động, không chịu sức ép trước sự lôi kéo, tác động ảnh hưởng từ bên ngoài. Cân bằng trong quan hệ đối ngoại thể hiện sự độc lập, tự chủ trong chính sách, tránh sự lệ thuộc một chiều vào một bên. Trong thế giới toàn cầu hóa và cạnh tranh nước lớn, giữ được thế cân bằng đòi hỏi phải có thực lực và tinh thần tự chủ. Trong hơn 35 năm đổi mới, thực lực cũng như vị trí, vai trò của Việt Nam trên thế giới không ngừng được nâng cao. Quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế, khu vực ngày càng mở rộng, đi vào thực chất, hiệu quả. Việt Nam giữ vững chính sách quốc phòng “bốn không”: Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Theo đó, chúng ta không dựa vào bên nọ để chống bên kia và ngược lại; phát triển quan hệ đối ngoại đa phương, thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược; gia tăng đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tranh thủ tối đa và tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó hiệu quả với mọi hình thức chiến tranh xâm lược...
Đứng vững trên cơ sở luật pháp quốc tế, Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc.
Thực tế sinh động diễn ra trong hơn 35 năm đổi mới, nhất là những năm gần đây, đã minh chứng cho tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Với mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam đã góp phần bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu, ổn định; chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; đời sống nhân dân được nâng cao, cải thiện. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược với 17 nước và đối tác toàn diện với 13 nước. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Trong thực hiện đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước. Đối với những vấn đề phức tạp của các quốc gia, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán, tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam luôn phát huy vai trò thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối ngoại. Vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Thực tế đó là minh chứng không thể phủ nhận về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong một thế giới đầy biến động, cạnh tranh chiến lược phức tạp và nhiều xu hướng tập hợp lực lượng đa chiều hiện nay, NTM./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét