Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

Chúng ta đều đã biết, Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, ... Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,… Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy…(1).

Như vậy, với mục đích và tôn chỉ rõ ràng, cùng với hoạt động thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng nước ta. Bởi vì, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, tác động đến con người, cũng như tổ chức. Do đó, đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần phê bình, tự phê bình, phân tích, làm rõ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân và tổ chức mình; phải nhận xét, đánh giá thật sự tự giác, chân thành, công tâm, khách quan thì mới có thể xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt hiệu quả cao. Đồng thời, xây dựng Đảng phải luôn luôn đi đôi với chỉnh Đảng; để Đảng luôn làm tròn vai trò lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu. Với vị trí vai trò là đội tiên phong của cách mạng Việt Nam, Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Mỗi đảng viên tốt thì chi bộ tốt, chi bộ tốt thì Đảng ta vững mạnh và thực sự là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người đã căn dặn: Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi thì “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” (2). Đảng có mạnh thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi bắt tay vào công cuộc Đổi mới (khóa VI), Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) năm 1992 về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) năm 1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”,... những nhiệm kỳ gần đây (XI, XII, XIII), trong các Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đều đã bàn và thống nhất ban hành những nghị quyết, kết luận, quy định có ý nghĩa hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đảng ta tiếp tục bàn về công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 về đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá”, thống nhất bổ sung ban hành Quy định số 37 “Về những điều đảng viên không được làm” thay thế quy định 47; quá trình tổ chức thực hiện đã tạo sự chuyển biến tích cực, rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, được nhân dân tin yêu, đồng tình, ủng hộ, góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung và các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế nói riêng của Đất nước.

Thực tiễn hơn 93 năm qua, Đảng ta đã và đang từng giờ, từng ngày lãnh đạo, xây dựng, củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng bằng bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân, cho đất nước, cho quốc gia, dân tộc; sự nêu gương, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên và một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và 35 năm đổi mới chúng ta có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (3). Chúng ta có quyền tự hào về bản chất, truyền thống tốt đẹp và lịch sử vẻ vang của Đảng.

Những kết quả, thành tích đạt được đã nêu ở trên là rất quan trọng, xong với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng thì việc kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá, thường xuyên cũng còn tồn tại những hạn chế, khuyết điểm, đó là: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình; công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế; không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có, hoặc có nhưng chưa cụ thể, thực hiện chưa nghiêm. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Chính một bộ phận không nhỏ này đã và đang làm suy yếu Đảng, đe doạ đến sự tồn vong của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và trở thành những kẻ tiếp tay cho các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua chiến lược “diễn biến hoà bình” và ra sức thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hoá”.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm nêu trên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, xong nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, như: một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân.


(1) Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam Khóa XI, Nxb CT-HC, HN, 2011, tr.19, 20, 21.

 

(2) Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (5/1968).

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQGST, HN, 2021 tr.25.

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 Trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, Đảng ta, nhân dân ta không chỉ kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà còn xác định rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung quan trọng này đã được khẳng định từ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng; trong văn kiện từ Đại hội II đến Đại hội VI và tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh 1991 (Đại hội VII): "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp" và “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”.

          Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ thực tiễn, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp đúng như Nghị quyết Đại hội VIII (1996) của Đảng nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”.

          Tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và "con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại". Cùng với đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội cũng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

          Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (Cương lĩnh 2011) đã nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng, 8 phương hướng cơ bản, những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

          Như vậy, có thể thấy “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử” và trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc Đảng quyết định đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và cả nước đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng ở hai miền; quyết định đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước nhà thống nhất; tiến hành sự nghiệp đổi mới và tiếp tục kiên định hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hơn 35 qua chính là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, kiên định và sáng tạo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới có thể đổi thay, song con đường đó là phù hợp quy luật, đúng như Đảng khẳng định tại Đại hội XII (2016): “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”.

          Từ lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, "lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa". Hơn nữa, thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội cho thấy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Việc phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng… chính là thành tựu về lý luận của Đảng, là kết quả sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu của văn hóa của nhân loại.

          Đồng thời, việc "đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng". Bởi, thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát triển và đó chính là công cụ, phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam. Vì thế, những luận điểm của Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết là khoa học, thuyết phục, không chủ quan, duy ý chí; là minh chứng sắc bén bác bỏ sự xuyên tạc, xảo trá của các đối tượng cơ hội, phản động, thù địch.

          Trong tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, không chỉ trả lời rất rõ, lập luận sắc sảo về những nội dung đã nêu ra mà còn khẳng định: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại nên càng khó khăn, phức tạp; vì vậy nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới… Đây chính là gắn lý luận với thực tiễn, không hề mơ  hồ, càng không ảo tưởng như các luận điệu thù địch xuyên tạc.

          Tổng Bí thư xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội, hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới". Đây chính là sự cụ thể hóa Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011, Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay.

          Bên cạnh đó, Tổng Bí thư khẳng định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản là không thể phủ nhận: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ". Tuy nhiên, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (chỉ bỏ qua những mặt hạn chế của chủ nghĩa tư bản như áp bức, bất công, bóc lột...), song không bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.

          Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục như: Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững… Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp… Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng: tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

          Vì thế, việc Tổng Bí thư khẳng định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh"; đồng thời, kết luận rằng vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng; sự kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân chính là nguồn sức mạnh sâu xa, cội nguồn của thắng lợi và sự phát triển…; chắc chắn không phải là "sự hoang tưởng", lại càng không phải là "cái bánh vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam" như các thế lực thù địch bôi nhọ, phủ nhận.

          Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày sáng tỏ, rõ ràng; cả về lý luận, thực tiễn và những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Nhận thức đúng đắn về mục tiêu, con đường cách mạng Việt Nam không chỉ là cơ sở khoa học để xây dựng bản lĩnh chính trị, tư tưởng trước những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế mà còn góp phần giúp mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc; không dao động trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đồng thời, nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn; kiên định và làm tròn trách nhiệm của mình; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra.

ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI


Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước Việt Nam hướng đến là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).

Như vậy, đã phát triển kinh tế thị trường thì phải tuân theo sự vận động của các quy luật thị trường. Những người tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh cùng đón nhận những cơ hội lẫn thách thức phải đương đầu; có cơ may thành công lẫn nguy cơ thất bại; giàu lên hay nghèo đi có thể xảy ra. Phát triển kinh tế thị trường vừa tạo ra động lực, phát huy mọi nguồn lực để phát triển nền kinh tế nhanh, mạnh; vừa làm cho xã hội phân hóa, phân tầng theo các tầng/lớp khác nhau về tài sản, mức sống, điều kiện sống, lối sống, văn hóa… Nếu để cho quá trình này diễn ra tự nhiên thì xã hội ngày càng bị phân hóa, phân cực giàu - nghèo gay gắt; các tầng lớp yếu thế trong xã hội càng gặp khó khăn, cùng quẫn; nguy cơ bất ổn xã hội ngày càng cao.

Để định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước có ý nghĩa quyết định. Một trong những công cụ cơ bản nhất, đó là thực thi các chính sách xã hội. Với việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách xã hội theo phương châm: khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với nhiệm vụ giúp đỡ, tạo điều kiện cho người nghèo cùng vươn lên trong cuộc sống bằng việc thực thi hàng loạt các chính sách hỗ trợ về giáo dục - đào tạo, y tế, lao động, việc làm,vv... là cách làm giúp cho các giai tầng xã hội xích lại gần nhau, góp phần giảm thiểu khoảng cách chênh lệch giữa các tầng/lớp người trong xã hội; hướng đến mục tiêu bình đẳng, tiến bộ, phát triển toàn diện…

Ngay từ khi đề ra đường lối đổi mới toàn diện, Đảng đã rất chú trọng đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội để hướng đến mục tiêu công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội; đặc biệt, đến Đại hội XIII, lần đầu tiên trong Văn kiện, Đảng đã xác định rõ, chính sách xã hội là phương tiện/công cụ định hướng xã hội chủ nghĩa, với quan điểm: “Nhận thức đầy đủ và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong các chính sách xã hội”.

Trong bài viết luận bàn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, đã luận giải rằng:“Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”.

Vậy là, trong hoạch định và thực thi các chính sách thì phải đặc biệt chú ý đến đặc điểm cơ bản của mối quan hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế là sự thống nhất biện chứng của chúng. Chính sách xã hội và chính sách kinh tế tuy có mục tiêu riêng - mục tiêu tự thân của nó, song lại có chung mục tiêu là nhằm phát triển xã hội. Vì vậy, mọi chính sách xã hội và chính sách kinh tế đều hướng vào mục tiêu trung tâm là phát triển con người, phát huy nhân tố con người, đem lại cuộc sống tốt đẹp cho con người. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, hợp lý sẽ tạo ra điều kiện, tiền đề vật chất để giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội được xây dựng mà không tính đến khả năng của nền kinh tế, hoặc không quan tâm đến lợi ích kinh tế thì sẽ cản trở kinh tế phát triển, triệt tiêu yếu tố kinh tế. Nhưng nếu lấy tăng trưởng kinh tế làm mục tiêu tối thượng thì dẫn đến chỗ khoét sâu những ngăn cách xã hội. Tăng trưởng kinh tế tự nó không thể giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội và dẫn tới tiến bộ xã hội. Để đạt đến mục tiêu tiến bộ xã hội thì phải thông qua chính sách xã hội, phải kết hợp chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

Vì vậy, phải xác lập mối quan hệ hợp lý giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế làm sao để hai mặt đó trở thành tiền đề của nhau. Văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng đều khẳng định: Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Không phát triển kinh tế với bất cứ giá nào, bất chấp hậu quả xã hội ra sao. Thông thường, sai lầm về kinh tế có thể khắc phục được sau một thời gian ngắn, có thể sau một vài chu kỳ sản xuất; nhưng những hậu quả về mặt xã hội có thể đánh đổi hàng trăm năm chưa chắc khắc phục được.

Xuyên suốt các kỳ đại hội, nghị quyết của Đảng đều nhất quán quan điểm chỉ đạo: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước”.

Như vậy, chủ trương “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Đảng và Nhà nước Việt Nam không phải là một giải pháp mang tính tình thế, một ý tưởng nhất thời mà là đường lối phát triển đất nước được hoạch định và trù liệu công phu, kỹ lưỡng, được dựa trên cơ sở lý luận vững chắc và phù hợp với tình hình thực tiễn. Là một mô hình phát triển mới lạ nhưng qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng và Chính phủ đã ngày càng nhận thức đúng đắn hơn, sâu sắc hơn và đề ra quyết sách chính xác hơn.

Là một nước đi ra từ các cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài vô cùng tàn khốc, với xuất phát điểm nghèo nàn, lạc hậu (thuộc nhóm nước chậm phát triển), nhờ thực hiện đường lối: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đã ra khỏi nhóm nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Trong 35 năm đổi mới vừa qua, kinh tế tăng trưởng liên tục, trung bình khoảng 7% mỗi năm; tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% năm 2020 theo tiêu chuẩn nghèo đa chiều. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết; người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi đều được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Hiện Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng Internet, thuộc nhóm nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới; chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2019 của Việt Nam đạt mức 0,704 (so với các nước có cùng trình độ phát triển thì nước ta thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới), lần đầu tiên vào nhóm các nước phát triển con người cao và xếp thứ 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Theo Báo cáo phát triển bền vững 2020, Việt Nam là quốc gia Đông Nam Á duy nhất đạt được năm mục tiêu hành động của Liên hiệp quốc (trong đó có các biện pháp giảm khí thải CO2, thúc đẩy năng lượng tái tạo và nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu). Đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; các mặt chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được bảo đảm…

“Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Khi đại dịch Covid -19 diễn biến phức tạp, nhất là biến chủng Delta lây lan với tốc độ nhanh trên nhiều tỉnh/thành của cả nước thì Đảng và Chính phủ đã đưa ra các quyết sách trên tinh thần nhân văn cao cả, đó là hi sinh tăng trưởng kinh tế để cứu người. Nếu không thẩm thấu tinh thần, lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội thì không có những chủ trương, quyết sách thấm đẫm tinh thần nhân văn, nhân bản vì con người như vậy.

Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội nói trên vừa khẳng định đường lối đúng đắn cùng sự lãnh đạo, quản lý tài tình của Đảng và Nhà nước; vừa là minh chứng để đập tan mọi loại quan điểm sai trái, thù địch.

Đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực sự là một đột phá tư duy rất cơ bản và sáng tạo của Ðảng, là thành quả phát triển lý luận và thực tiễn của Việt Nam qua quá trình đổi mới toàn diện đất nước.

HAIVAN

NHẬN THỨC VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI XHCN

 

Về nền kinh tế thị trường, đã được hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử nhân loại. Theo quan điểm chủ nghĩa Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển; và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, kinh tế thị trường là một nấc thang tất yếu, mang tính phổ biến cho mọi quốc gia trong tiến trình phát triển, là thành quả của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của tư bản chủ nghĩa như một số ý kiến ngộ nhận. Kinh tế thị trường đã phát triển không duy nhất một mô hình mà đã phát triển theo các mô hình như: (1) Mô hình kinh tế thị trường tự do, phổ biến ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ; (2) Mô hình kinh tế thị trường - xã hội, phổ biến ở một số nước ở Tây - Bắc Âu như Đức, Thụy Điển, Na uy, phần Lan…; (3) Mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Dù phát triển theo mô hình nào thì nền kinh tế thị trường đều gắn với những quy luật mang tính đặc trưng sau đây:

Quy luật giá trị quy định việc sản xuất và trao đổi hàng hoá phải căn cứ vào hao phí lao động xã hội cần thiết; trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Giá trị của sản phẩm/dịch vụ đều do thị trường định đoạt. Người sản xuất kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn trung bình thì người đó có lợi nhất.

Quy luật cung - cầu là sự điều chỉnh của thị trường với một mức giá cân bằng và một lượng giao dịch cân bằng sẽ được xác định. Ở đâu có thị trường thì ở đó có quy luật cung – cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan. Cầu xác định cung, những hàng hoá nào được tiêu thụ thì mới được tái sản xuất. Cung cũng tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, hình thức, quy cách và giá cả của nó.

Quy luật cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể, các tổ chức kinh tế trong việc giành giật thị trường và khách hàng và các điều kiện thuận lợi trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thực chất của cạnh tranh là sự tranh giành về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể tham gia thị trường. Kết quả cạnh tranh sẽ loại bỏ được các các cơ sở sản xuất, kinh doanh yếu kém và giúp phát triển các cơ sở làm ăn có hiệu quả hơn.

Những quy luật nói trên của nền kinh tế thị trường vừa tạo ra động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, vừa làm cho xã hội phân hóa thành những tầng/lớp giàu nghèo khác nhau. Tầng lớp giàu có nắm giữ lợi thế tiếp cận mọi nhu cầu, lợi ích của xã hội; tầng lớp nghèo khó chịu nhiều thua thiệt trong việc thụ hưởng các nhu cầu cuộc sống.

Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước Việt Nam là phát triển nền kinh tế thị trường để phát huy mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng sức sản xuất nhằm tạo tăng trưởng kinh tế không ngừng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng, được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Đây là hệ giá trị có tính bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, nó thể hiện sự tiến bộ hơn hẳn của chế độ xã hội chủ nghĩa so với các chế độ xã hội trước đó. Chẳng hạn, xã hội tư bản có thể có điều kiện sống vật chất, tiện nghi rất cao; dân có thể giàu, nước có thể mạnh, nhưng từ trong bản chất của chế độ xã hội tư bản, ở đó không thể có công bằng và dân chủ: nhà nước là nhà nước tư sản; giàu có là cho nhà tư bản; sự giàu mạnh có được bằng quan hệ bóc lột. Trong xã hội như vậy, người dân không thể là chủ và làm chủ xã hội.

HAIVAN

"Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu”...

 

 Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt và sự quan tâm ân cần đến sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam. Bác dành rất nhiều tâm huyết cho việc tổ chức, dẫn dắt các thế hệ thanh niên đến với cách mạng, tham gia vào quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc…

Trong thư gửi thanh niên Việt Nam, tháng 4-1951, Bác viết: “… Thanh niên phải xung phong làm gương mẫu trong công tác, trong học hỏi, trong tiến bộ, trong đạo đức cách mạng”

Thấm nhuần và quán triệt tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn đề cao vai trò của thanh niên và có nhiều nghị quyết, chỉ thị, chính sách tạo điều kiện để phát triển toàn diện thanh niên Việt Nam. Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và tuổi trẻ Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành cùng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, hun đúc nên truyền thống vẻ vang; được Đảng, Nhà nước ghi nhận, xã hội đánh giá cao; xứng đáng là trường học XHCN của tuổi trẻ, là đội dự bị tin cậy của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tiếp nối truyền thống của lớp lớp thế hệ cha anh đi trước, thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay trung thành tuyệt đối và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao lòng yêu nước, sẵn sàng dấn thân vì sự nghiệp cách mạng, tình nguyện vì cộng đồng, đến những nơi khó khăn, đảm nhận những việc mới, việc khó, tiên phong trong ứng dụng khoa học-công nghệ, xung kích trong xây dựng xã hội học tập, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Là một bộ phận quan trọng của thanh niên Việt Nam, thanh niên quân đội có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ của các đơn vị. Do đó, sức mạnh tổng hợp, trình độ SSCĐ, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của quân đội liên quan mật thiết đến chất lượng và khả năng tập hợp, phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của thanh niên quân đội. Muốn vậy, tổ chức đoàn phải tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, hướng dẫn của cơ quan chính trị các cấp; quan tâm, chăm lo đến nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của thanh niên; tạo điều kiện để thanh niên có cơ hội cống hiến và trưởng thành. Ban Chấp hành Đoàn, đội ngũ cán bộ, đoàn viên, thanh niên quân đội nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, xây dựng bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sáng, động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn; có tri thức, trình độ kỹ chiến thuật, chuyên môn nghiệp vụ và sức khỏe tốt, thực sự là lực lượng xung kích, nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

HAIVAN

GIỮ GÌN DANH DỰ, NHÂN PHẨM CỦA NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

Danh dự làm nên phẩm hạnh con người, là thước đo giá trị của mỗi người trong xã hội. Với một người bình thường, danh dự đã là cao quý. Là cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, quản lý, danh dự càng cao quý, thiêng liêng. Bác Hồ vẫn thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn giữ gìn, bồi đắp đạo đức, nhân cách. Người căn dặn: "Hạnh dục phương", nghĩa là đức hạnh, đạo đức phải vuông vắn, ngay thẳng, không làm điều gì khuất tất. Phải tránh xa những thói xấu “lười biếng, gian giảo, tham ô”. Phải biết sống “ngay thẳng, không có việc gì phải giấu Đảng”, “không tham địa vị. Không tham tiền tài”... Đó là phẩm chất, đức hạnh, danh dự của người cộng sản. Cán bộ, đảng viên phải biết giữ “thanh danh của Đảng” và “danh giá của mình”. 

Trong nhiều bài viết và nhiều lần phát biểu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhắc nhở, phân tích sâu sắc về tư cách, đạo đức cách mạng, về liêm sỉ và danh dự của người cán bộ, đảng viên. Tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh mỗi cán bộ, đảng viên phải giữ thanh liêm, giữ liêm sỉ và danh dự của người đảng viên. "Nếu không liêm thì của gì cũng cả gan lấy. Không sỉ thì việc gì cũng bất chấp làm. Người mà đến như thế không chỉ rước họa làm “thân bại danh liệt” và thử hỏi còn tai họa nào mà chẳng đến. Huống chi, kẻ làm quan mà cái gì cũng rắp tâm mưu đoạt, việc gì cũng bằng mọi thủ đoạn mà làm thì sao mà thiên hạ không loạn, quốc gia không mất cho được. Khi không có tài đức mà dám cầm trọng trách để cho cơ đồ tan hoang, đổ vỡ. Khi mình đã ở cấp lãnh đạo mà không làm cho đạo đức được thi hành, quốc pháp được tuân thủ. Những người chuyên sống xảo trá, quỷ quyệt, ăn cắp quốc khố là vô hình trung đã vứt bỏ mất danh dự, liêm sỉ, tức là lòng hổ thẹn của mình rồi”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Những năm qua, nhìn vào số lượng cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật liên quan đến tham nhũng, tiêu cực khiến nhiều người không khỏi lo lắng. Các chuyên gia cho rằng, kết quả chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua mới chỉ là “phần nổi của tảng băng trôi”. Trong nhiều vụ việc, kết quả xử lý những "mảng chìm tiêu cực" mới chỉ được một phần rất nhỏ. 

Trên thực tế, vẫn còn một phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang tự đánh mất phẩm giá, làm hoen ố danh dự của người cộng sản. Họ đã không kiên tâm, bền chí nuôi dưỡng, bồi đắp và bảo toàn danh dự hai tiếng “đảng viên”; không vượt qua được cám dỗ “mồi phú quý, bả vinh hoa”. Cũng bởi thế, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, trong nhiều bài viết, bài phát biểu của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặc biệt nhấn mạnh đến lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên là phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân làm cho không ít cán bộ nảy sinh căn bệnh tham ô, tư túi, đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích tập thể, trên cả lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Những bài học đau đớn, xót xa từ rất nhiều cán bộ, đảng viên chỉ vì chút lợi ích vật chất tầm thường mà đánh mất phẩm giá, danh dự, uy tín vẫn còn nguyên giá trị, là tấm gương để chúng ta tự mình soi chiếu, tự mình suy ngẫm và có hành động đúng đắn. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải luôn khắc cốt ghi tâm rằng, một khi đánh mất nhân phẩm và danh dự là mất đi giá trị làm người. Hơn thế, giữ gìn phẩm giá, danh dự, uy tín của một người đảng viên không chỉ là giữ gìn cho mình mà đó còn là giữ gìn và bảo vệ danh thơm, tiếng tốt của Đảng một cách bền vững nhất.

HAIVAN

"Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một"

 

Ngày 7-4-1965, với bút danh là Lê Nông, trên Báo Nhân Dân, Bác viết bài “Chúng ta rất có thể đạt hơn 5 tấn thóc cả năm/một héc-ta” để biểu dương một số hợp tác xã đã đạt chỉ tiêu này và khẳng định có thể đạt năng suất cao hơn nữa nếu quan tâm đến việc cải tiến khoa học - kỹ thuật, thực hành cần kiệm xây dựng và tự lực cánh sinh, chi bộ lãnh đạo chặt chẽ, đảng viên gương mẫu xung phong, xã viên đoàn kết nhất trí. “Phải coi nhân tố con người là vấn đề số một”.

Tôn trọng và phát huy sức mạnh của nhân tố con người với tư cách là chủ thể sáng tạo của lịch sử luôn là bài học kinh nghiệm thực tiễn phong phú mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng ta. Bác luôn coi trọng việc giáo dục về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, về đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây là nguồn sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn để giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tư tưởng quân sự của Bác với triết lý “người trước, súng sau” đã xây dựng được đội ngũ cán bộ, chiến sĩ quân đội có bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Để hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng, Nhà nước chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Bên cạnh việc đầu tư mới vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặt lên hàng đầu việc xây dựng nhân tố con người, coi đây là khâu then chốt, có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta.

HAIVAN

Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

 

Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì đã rõ. Nếu học tập mà không làm theo thì chỉ có hiểu biết trên giấy tờ. Học tập và làm theo là học đi đôi với hành. Học mà không hành thì chỉ là học suông, nói suông. Việc đẩy mạnh “Học tập và làm theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đã được phát động và thực hiện trong Đảng, trong dân ta từ lâu, không phải chỉ mấy nhiệm kỳ Đại hội của Đảng gần đây. Trong phong trào thi đua xây dựng Đời sống mới, Bác Hồ đã nói: “Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc.

Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”(4).

Lời nói ấy của Bác đã nhập tâm trong cán bộ và nhân dân ta thời đó.

Nói học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh là theo nghĩa nào? Tư tưởng Hồ Chí Minh nói ở đây không phải là tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một học thuyết chính trị, cách mạng mà là những tư tưởng, những lời chỉ dạy cụ thể của Bác dù đề cập dưới góc độ chính trị, tư tưởng hay văn hóa, đạo đức.

Ví dụ, Bác nói: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân”. “Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ Trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. “Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính. Muốn thế phải gần gũi nhân dân, khuyến khích nhân dân, lãnh đạo nhân dân”.

Bác còn nói: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. “Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.

Bác nhiều lần nhắc nhở: Muốn thực sự làm người lãnh đạo, người chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, phải hết sức giữ gìn và nêu gương về mặt đạo đức, nếu không thì rồi sẽ hỏng cả… Muốn thế thì: Tự mình phải chỉnh trước mới giúp được người khác chỉnh. Mình không chỉnh mà muốn người khác chỉnh là vô lý. 

Có lẽ gì cán bộ, đảng viên chúng ta lại không làm theo những lời chỉ dạy ấy?

Liên hệ với tình hình hiện nay, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, khi nói về nhiệm vụ “Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức”, đã nêu rõ: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Đảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”.

Vì vậy, từ những lập luận trên, có thể khẳng định:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng vô giá của Việt Nam, là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của đất nước và dân tộc ta. Tư tưởng đó phải được học tập, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo, tuyệt đối không giáo điều, dập khuôn hay ngả nghiêng, dao động.

Thứ hai, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một phong trào hành động cách mạng, vì sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người, phát huy năng lực nội sinh của đất nước. Phong trào đó phải được tiến hành một cách bài bản, thường xuyên.
HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh - một học thuyết cách mạng vô giá của Việt Nam

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ. Đó là các tác phẩm tiêu biểu, như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925), “Đường Cách mệnh” (năm 1927), “Tuyên ngôn Độc lập” (năm 1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (năm 1946), “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (năm 1969) và bản “Di chúc” thiêng liêng bất hủ (năm 1969) được coi là những kiệt tác, những bảo vật quốc gia vô cùng quý giá. Bao trùm lên tất cả là tư tưởng Hồ Chí Minh, kết tinh của trí tuệ và tinh hoa văn hóa Việt Nam, của tinh thần yêu nước, thương dân, yêu Tổ quốc và đồng bào, yêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, yêu Đảng Cộng sản, ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của cách mạng Việt Nam.

Thông thường, một học thuyết (dù là triết học, kinh tế - chính trị học hay xã hội học) được xếp theo hai cấp độ: cấp độ 1 được gọi là chủ nghĩa (chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn). Cấp độ 2 được gọi là tư tưởng (tư tưởng Mao Trạch Đông; tư tưởng chủ thể Kim Nhật Thành...).

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chủ nghĩa (triết) là học thuyết hay hệ thống lý luận về chính trị, triết học, kinh tế, văn hóa... do một người hay một tập thể đề xuất. Ví dụ: Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng của C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin, là một hệ thống hoàn chỉnh, hữu cơ những quan điểm triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học... Tư tưởng, tuy nói ở cấp độ 2 những vẫn là học thuyết có chiều sâu và tầm nhìn xa rộng, có hàm lượng chất xám cao, có giá trị lý luận và thực tế không khác gì chủ nghĩa

Con người Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh đã đến với cách mạng Việt Nam, với Đảng và dân tộc ta từ rất sớm, nhất là từ sau khi nước nhà giành được độc lập (năm 1945). Vị trí và vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được xác định từ lâu. Từ khi đổi mới đến nay, rõ nhất là trong hai bản Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011). Với Đảng ta, Cương lĩnh là Tuyên ngôn chính trị của Đảng; là ngọn cờ chiếu đấu của Đảng và dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, là nền tảng lý luận, nền tảng tư tưởng và chính trị, định hướng cho hoạt động của chúng ta hiện tại và tương lai. 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) của Đảng ghi rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng đã hàm ý rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng, chứ không đơn thuần là tập hợp những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể, riêng lẻ.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa ra một định nghĩa rất chính xác, ở tầm cao: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển của các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.

Lời khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, qua Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội XIII của Đảng là phải: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.

Vậy là, trong bốn sự kiên định đã nêu, chỉ có kiên định thứ nhất là duy nhất được đi kèm với “vận dụng và phát triển sáng tạo”. Vì sao? Vì một lẽ rất giản đơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một học thuyết cách mạng.

HAIVAN

"Về lãnh đạo, cán bộ phải thật sự đoàn kết, nhất trí, phải đi sâu đi sát, phải lãnh đạo thiết thực và toàn diện”.

 

Lời huấn thị trên được trích trong thông báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung đợt chỉnh huấn cho toàn Đảng, toàn dân, do Trung ương phát động, khi Người về thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ tỉnh Bắc Giang tháng 4-1961.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ phải đề cao và thực hành đoàn kết, nhất trí, giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình, phải rèn luyện phong cách lãnh đạo sâu sát, tỉ mỉ, gắn bó với cơ sở, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phải thiết thực và toàn diện, tránh phô trương, hình thức. Theo Bác, sau khi nghị quyết được ban hành, phải tổ chức tốt việc thực hiện nghị quyết, để nghị quyết đi vào cuộc sống. Muốn vậy, đòi hỏi người cán bộ phải sâu sát, tỉ mỉ, phải “đi tận nơi, xem tận chỗ”.

Thực hiện lời Bác dạy, Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc ý nghĩa to lớn của việc xây dựng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xem đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ sống còn của Đảng, của dân tộc. Đặc biệt, trong thời kỳ mới, Đảng luôn quan tâm lãnh đạo công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất; kiên quyết chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Sự nghiệp đổi mới đất nước đã thu được kết quả rất quan trọng, tiếp tục nâng cao vị thế, khẳng định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng đã luôn giữ gìn sự đoàn kết nhất trí, phấn đấu hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Tuy nhiên, cũng còn một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng…

Để tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, kiên quyết đấu tranh, khắc phục những hạn chế, yếu kém, mỗi cán bộ, đảng viên trong Đảng nói chung, trong Đảng bộ Quân đội nói riêng, luôn gương mẫu đi đầu thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của địa phương, đơn vị, chức trách, nhiệm vụ được giao. Cán bộ, đảng viên phải có tác phong dân chủ, quần chúng, sâu sát, gần gũi, chân thành lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và thành tâm tiếp thu sự phê bình của quần chúng, luôn đề cao tự phê bình và phê bình.

HAIVAN