Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG NHÂN TỐ QUYẾT ĐỊNH THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

 

Chúng ta đều đã biết, Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, ... Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,… Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy…(1).

Như vậy, với mục đích và tôn chỉ rõ ràng, cùng với hoạt động thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng nước ta. Bởi vì, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, tác động đến con người, cũng như tổ chức. Do đó, đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần phê bình, tự phê bình, phân tích, làm rõ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân và tổ chức mình; phải nhận xét, đánh giá thật sự tự giác, chân thành, công tâm, khách quan thì mới có thể xây dựng, chỉnh đốn Đảng đạt hiệu quả cao. Đồng thời, xây dựng Đảng phải luôn luôn đi đôi với chỉnh Đảng; để Đảng luôn làm tròn vai trò lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu. Với vị trí vai trò là đội tiên phong của cách mạng Việt Nam, Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Mỗi đảng viên tốt thì chi bộ tốt, chi bộ tốt thì Đảng ta vững mạnh và thực sự là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu của chúng ta trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng, Người đã căn dặn: Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi thì “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” (2). Đảng có mạnh thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi bắt tay vào công cuộc Đổi mới (khóa VI), Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) năm 1992 về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) năm 1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”,... những nhiệm kỳ gần đây (XI, XII, XIII), trong các Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương đều đã bàn và thống nhất ban hành những nghị quyết, kết luận, quy định có ý nghĩa hết sức quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đặc biệt, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, đảng ta tiếp tục bàn về công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng và ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 về đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hoá”, thống nhất bổ sung ban hành Quy định số 37 “Về những điều đảng viên không được làm” thay thế quy định 47; quá trình tổ chức thực hiện đã tạo sự chuyển biến tích cực, rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, được nhân dân tin yêu, đồng tình, ủng hộ, góp phần rất quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung và các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế nói riêng của Đất nước.

Thực tiễn hơn 93 năm qua, Đảng ta đã và đang từng giờ, từng ngày lãnh đạo, xây dựng, củng cố, nâng cao vai trò lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng bằng bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thực cho quần chúng nhân dân, cho đất nước, cho quốc gia, dân tộc; sự nêu gương, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên và một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tổng kết thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và 35 năm đổi mới chúng ta có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (3). Chúng ta có quyền tự hào về bản chất, truyền thống tốt đẹp và lịch sử vẻ vang của Đảng.

Những kết quả, thành tích đạt được đã nêu ở trên là rất quan trọng, xong với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng thì việc kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, đột phá, thường xuyên cũng còn tồn tại những hạn chế, khuyết điểm, đó là: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình; công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên còn hạn chế; không ít cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền, làm việc ở những ngành, lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực vẫn thiếu tu dưỡng và rèn luyện, vẫn sa vào chủ nghĩa cá nhân, vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bị xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự. Cơ chế kiểm soát quyền lực và chế tài xử lý vi phạm ở nhiều lĩnh vực chưa có, hoặc có nhưng chưa cụ thể, thực hiện chưa nghiêm. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả; chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Chính một bộ phận không nhỏ này đã và đang làm suy yếu Đảng, đe doạ đến sự tồn vong của Đảng, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và trở thành những kẻ tiếp tay cho các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam qua chiến lược “diễn biến hoà bình” và ra sức thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hoá”.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm nêu trên trong công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, xong nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, như: một số cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân.


(1) Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam Khóa XI, Nxb CT-HC, HN, 2011, tr.19, 20, 21.

 

(2) Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (5/1968).

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQGST, HN, 2021 tr.25.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét