Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG SẼ ĐƯỢC BỐ TRÍ NHƯ THẾ NÀO SAU SẮP XẾP HUYỆN, XÃ?
HÀI HƯỚC PHILIPPINES “BIỂU TÌNH PHẢN ĐỐI VIỆT NAM QUÂN SỰ HÓA BIỂN ĐÔNG”
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHUYỆN LẠ TRONG LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI K’HO SRE!
CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: TỈNH TÁO TRƯỚC ÂM MƯU CỦA KẺ THÙ!
Phòng chống, đấu tranh thói ba phải và thái độ “im lặng đáng sợ”
Nghị quyết Trung ương 4
khóa XII của Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa".
Trong đó có một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là:
"Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo
vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng những thiếu sót, khuyết điểm
này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái kia, thậm chí là nơi trú ẩn,
là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì vậy, phải đồng thời phân tích,
chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục nó thế nào cho hiệu quả, để
hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành, tin cậy, chân thành, vô tư
trong mỗi cơ quan, đơn vị.
Xưa nay có nhiều cách nói về những người dĩ hòa vi quý. Nào là ông ba
phải, gió chiều nào che chiều ấy. Nào là ông mũ ni che tai, khôn ăn người. Nặng
nề hơn thì cho rằng đó là kẻ “ngậm miệng ăn tiền”. Thời hiện đại, còn có những
cụm từ mới xuất hiện: “tai lành tai điếc”, “đi giữa hai hàng”...
Năm 1947, tại Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn “Sửa
đổi lối làm việc”. Bác gọi những kẻ khôn ăn người như thế là “bọn thứ ba”. Đó
là những kẻ cơ hội, là khôn mà không ngoan, làm gì cũng nghĩ đến cái lợi riêng
mình mà quên đi lợi ích chung, quyền lợi của người khác. Thời nay, "bọn
thứ ba" là người ta ám chỉ những người "dĩ hòa vi quý".
Thật ra thành ngữ “dĩ hòa vi quý” khởi thủy của nó là thiện ý tốt. Nôm
na rằng, lấy hòa thuận làm vui. Chịu khó nhẫn nhịn một chút, hòa là quý, nhẫn
là cao. Đừng vội nổi xung lên, phỉ báng, nhiếc móc nhau, bé xé ra to, mà nên
“biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”. Đúng như cái nghĩa ngọn nguồn
này thì quá hay. Thế nhưng, theo thời gian, theo những diễn biến phức tạp trong
đời sống hiện đại mà dần dần cái nghĩa của thành ngữ này bị hiểu chệch, hiểu
sai, lắm khi chỉ còn được hiểu theo nghĩa đó là tính cách khôn lỏi, chả bao giờ
nêu chính kiến, “tránh voi chả xấu mặt nào”, tránh mất lòng người khác, nhất là
mất lòng cấp trên.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa". Trong đó có một biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị là: "Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va
chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng
những thiếu sót, khuyết điểm này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái
kia, thậm chí là nơi trú ẩn, là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì
vậy, phải đồng thời phân tích, chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục
nó thế nào cho hiệu quả, để hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành,
tin cậy, chân thành, vô tư trong mỗi cơ quan, đơn vị.
"Ngậm miệng" tức là ngược lại với những anh hay phán xét,
phách lối, a dua, nói năng văng mạng. Đương nhiên, cả hai thái cực này đều cần
phê phán. "Ngậm miệng" mà là “một sự nhịn chín sự lành”, giữ kín
chuyện nội bộ, khỏi tổn thương người khác thì hẳn là điều tốt. Cái nguy hại ở
chỗ “ngậm miệng ăn tiền”, tức là đã có chủ ý xấu rồi. Ở một cơ quan nọ, mấy
người bảo nhau, cái ông X lúc nào mồm cũng như rùa ăn sung, chả có chính kiến
gì. Khi anh ta có ý kiến thì toàn dựa ý cấp trên, dựa ý tập thể, mong “làm rõ
thêm” và “hy vọng rằng”. Còn khi cần nói rõ, vấn đề này sai chỗ nào, đúng chỗ
nào, thái độ của anh, sẽ xử lý ra sao, thì anh ta sẽ “ném cát bụi tre” bằng
những câu chữ mập mờ, nước đôi, đại loại như: "Cần tính toán thêm, nên hỏi
lại cơ sở, vấn đề này nhạy cảm, có thể lùi đến phiên họp sau được không?".
Hoặc có anh nói ráo hoảnh: “Tôi biểu quyết theo đa số”. Thế nhưng lúc giải lao
thì vẫn là anh, rỉ tai người này, vỗ vai người khác: “Ông nói đi, ông nói khách
quan hơn tôi. Tội cậu này đáng chém”. Hoặc: “Oan cho nó quá! Đồng chí gần nó
lâu sao không nói. Sau này nó oán chúng ta”. Cái kiểu bày tỏ, vận động hành
lang này đã cũ lắm, nhưng nó sống dai dẳng và biến ảo rất tinh vi. Nhất là từ
khi nó được sự "phù phép" của chiếc điện thoại thông minh vốn chả có
tội vạ gì.
Vì sao căn bệnh này tồn tại dai dẳng thế? Vì sao mà không ít cán bộ,
trong đó có cán bộ cấp cao cũng mắc thói tai lành tai điếc. Thậm chí có vị chủ
trì cuộc họp sắp diễn ra cũng “khó” nói sự thật, bèn nghĩ ra cách gọi điện cho
cấp dưới: "Mai chú đề xuất nhé. Anh nêu 3 phương án, chú theo phương án
này. Việc này là anh vì chú!". Nó khiến cho người trong cuộc trằn trọc,
mất ngủ không đáng có. Nó là mảnh đất cho cái “cây” suy diễn nảy mầm, suy bụng
ta ra bụng người, chủ quan và phiến diện.
Vì sao dai dẳng thế, còn là do thái độ cầu an. Nói ra lúc này thế nào
đây, khen cũng chết, chê cũng chết. Đại hội đến nơi rồi, bầu bán sát gần rồi,
mất phiếu có khi chỉ vì “lộ thiên cơ”, thế là đành trốn vào một cái tham luận
vô thưởng vô phạt “mạnh bước trên đường phát triển”. Im lặng còn vì một thỏa
thuận ngầm nào đó, lợi ích của tôi, của anh, của “nhóm tôi”, “nhóm anh”. Và
người ta đã chọn im lặng.
Vì sao dai dẳng thế? Vì cái chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người, cái
tôi lớn quá. Có khi là vì quá đam mê quyền lực, quá ham muốn về vật chất nên
đánh mất mình. Quyền lực và danh vọng thường làm hư hỏng con người. Vụ Việt Á
gần đây nhất, cái vô lương hoành hành trên nỗi đau khổ của đồng loại là một
minh chứng rõ nhất. Có người rao giảng về đạo đức nhưng đã “im lặng” cho thuộc
cấp, cho những đơn vị liên quan nhân danh khoa học vi phạm pháp luật.
Rất mừng là, bên cạnh những chuyện kể trên, có rất nhiều gương sáng
quanh ta. Trong các cơ quan, đơn vị có rất nhiều những tấm gương sáng-tấm gương
trung thực, dám nói thẳng, nói thật. Thấy đúng thì bảo vệ để khuyến khích người
tốt, việc tốt, lên án những kẻ cơ hội, đố kỵ, thúc đẩy công việc hoàn thành.
Thấy sai thì lên tiếng mạnh mẽ để làm rõ đúng sai, vạch trần tham nhũng, tiêu cực.
Có những cán bộ quân đội, cựu chiến binh suốt mấy chục năm không chịu im lặng,
kiên quyết đấu tranh vạch trần cái xấu, cái ác, mặc dù có thể nguy hiểm tới bản
thân, gia đình. Như trường hợp cựu chiến binh Trần Văn Bính (sinh năm 1946), 20
năm kiên trì đấu tranh chống tham nhũng và cuối cùng đã thành công. Ông đã
thẳng thắn nêu vấn đề tiêu cực ra trước Đại hội Đảng bộ phường Hoàng Liệt (quận
Hoàng Mai, Hà Nội). Bị đe dọa, bị đánh trọng thương ông vẫn không lùi bước. Các
cán bộ tiêu cực cũng không mua được sự “im lặng” của ông, dù họ trả “giá” rất
cao. Thấy sai mà mình im lặng thì càng sai, ông Bính trả lời đơn giản như vậy.
Một câu hỏi đã có nhiều dịp được trả lời, rằng làm sao đây để chống được
căn bệnh “điếc có chủ ý”? Xin thưa, chúng ta vẫn phải tiếp tục trả lời, vì thực
tiễn luôn vận động, vì sự diễn biến phức tạp của tình trạng này. Thẳng thắn và
trung thực, nói như vậy mà làm thì khó thay! Nhưng nhất định phải làm. Trước
hết là phải xây dựng được khối đoàn kết, thật sự dân chủ trong sinh hoạt đảng và
các tổ chức chính trị-xã hội. Người đứng đầu đơn vị phải thật sự gương mẫu, đề
cao trách nhiệm cá nhân, phải có con mắt tinh đời để nhận ra ai chân, ai giả,
ai tạm thời im lặng vì cái chung, ai “ngậm miệng ăn tiền”? Khi anh không nói
ra, không hẳn mọi người không biết, vì còn có một nhân chứng nữa, đó chính là
lương tâm anh. Và điều không bao giờ cũ: Nghiêm túc tự phê bình và phê bình để
nội bộ thật sự đoàn kết, hiểu nhau, tin nhau, hướng đến những giá trị tốt đẹp,
nhân văn, vì sự phát triển, vững mạnh của cơ quan, đơn vị; đồng thời cũng vì sự
tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên./.
Không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị của phong trào thi đua yêu nước
75 năm sau khi ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc
(11/6/1948-11/6/2023), tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích, nội dung, phương pháp
và cách thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả phù
hợp với nhiệm vụ của từng giai đoạn dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn vẹn nguyên
giá trị thời sự.
Bất chấp sự xuyên tạc của các phần tử cơ hội, phản
động, các thế lực thù địch thì sức sống và giá trị không thể phủ nhận của phong
trào thi đua yêu nước trong những thập niên qua chính là minh chứng sinh động
nhất bác bỏ những luận điệu phản động, bôi đen sự thật về thi đua yêu nước được
tung lên mạng xã hội thời gian qua!
Thi đua yêu nước để gây “hạnh
phúc cho dân”
Trong Lời kêu gọi thi
đua ái quốc ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định
rằng: Mục đích của thi đua là để “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt,
Diệt giặc ngoại xâm” nhằm thực hiện “Dân
tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Vì thế, để thi đua trở
thành phong trào cách mạng của quần chúng, phát triển rộng rãi, sôi nổi, ăn
sâu, lan rộng khắp về mọi mặt, thì “cách làm là dựa vào: Lực lượng của
dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân” và “các cụ phụ
lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia công việc, Các cháu nhi đồng
thi đua học hành và giúp việc người lớn, Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh
nghiệp, Đồng bào công nông thi đua sản xuất, Đồng bào trí thức và chuyên môn
thi đua sáng tác và phát minh, Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc,
phụng sự nhân dân, Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho
nhiều súng”...
Sau lời kêu gọi thi đua yêu
nước của Người, những năm sau đó (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống Mỹ, cứu nước) trên khắp mọi miền của Tổ quốc, các phong trào thi đua yêu
nước không chỉ là động lực của sự phát triển, là biện pháp quan trọng để xây
dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, mà còn là một nhân tố quan trọng góp phần
vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Rất giản dị và ngắn gọn, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh rằng “công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua” và thi
đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các tầng lớp nhân
dân; là phát huy sự năng động, khả năng sáng tạo, tính tích cực, kỷ luật, tinh
thần đoàn kết, truyền thống yêu nước của mỗi người, mỗi tập thể để hoàn thành
tốt những nhiệm vụ được giao, cho nên “thi đua là yêu nước, yêu nước thì
phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
thi đua yêu nước, thì thi đua chính là động lực để phát huy lòng yêu nước và
thông qua phong trào thi đua để bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, làm cho lòng
yêu nước trở nên sinh động trong thực tiễn bằng chính suy nghĩ, hành động cụ
thể, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi tập thể trên mọi lĩnh vực của cuộc
sống. Vì thi đua “là một cách yêu nước thiết thực và tích cực” và yêu nước không
chỉ là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân; luôn gắn liền với bổn phận,
trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, mà còn là một truyền thống quý báu
của dân tộc, là một giá trị tinh thần, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc trong
hành trình dựng nước và giữ nước, cho nên “thi đua ái quốclà ích lợi
cho mình, ích lợi cho gia đình mình và lợi ích cho làng cho nước, cho dân tộc”,
chứ không phải là “lợi dụng công tác thi đua để thực hiện mục đích cá nhân”; là
xuyên tạc tính tích cực và bản chất thi đua thành “ganh đua”, “tranh đoạt” như
các thông tin xấu độc bôi đen sự thật.
Thực tế cũng cho thấy, điều đặc
biệt để làm nên thắng lợi của các phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ
Chí Minh chính là “1. Thi đua ái quốc phải có phương hướng đúng
và vững. Nghĩa là phải nâng cao lòng nồng nàn yêu nước và giác ngộ chính trị
của mọi người. Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức là yêu nước. 2. Phải
có kế hoạch tỉ mỉ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ, từng
gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm. Nghĩa là phải
sao cho mỗi nhóm, mỗi người tự giác tự động. 3. Nội dung của kế
hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực. Khi đặt kế hoạch phải tuyệt đối tránh
sự sơ suất "đại khái", quá cao, phiền phức, miễn cưỡng. 4. Thi đua
không nên thiên về một phía. Phải điều hoà 3 nhiệm vụ với nhau: Tăng gia sản
xuất, công việc hằng ngày và học tập (chính trị, văn hoá, tình hình trong nước
và thế giới). 5. Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng. Trước khi
thi đua phải chuẩn bị đầy đủ (giải thích, cổ động, xét kỹ kế hoạch mỗi nhóm,
mỗi người). Trong lúc thi đua, phải thiết thực đôn đốc, giúp đỡ, sửa đổi. Sau
đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, khen
thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi”…
Đi liền cùng đó là phải làm tốt
công tác tư tưởng, vận động, tuyên truyền để toàn dân hiểu rõ, tự nguyện, tích
cực tham gia phong trào, vì “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý (...)
Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng
bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho
tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu
nước”. Trong quá trình triển khai thực hiện, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa
chính quyền và các đoàn thể nhân dân để phong trào phát triển đúng mục đích,
mục tiêu chung đã định theo đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước, nhằm nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc trên
mọi chặng đường cách mạng.
Vì thế, sự tham gia tích cực
của các tầng lớp nhân dân; sự phát triển ngày càng sâu, rộng của phong trào thi
đua yêu nước không chỉ chứng minh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dưới chế
độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết không thể có phong trào thi đua yêu
nước” và “chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ
và nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua” là
đúng đắn, mà còn đồng thời cho thấy thi đua yêu nước theo chỉ dẫn của Người vừa
thiết thực, dễ hiểu lại vừa sâu sắc, toàn diện, dễ đi vào cuộc sống, nên có sức
quy tụ, hấp dẫn đông đảo quần chúng nhân dân.
Bác bỏ những luận điệu xuyên
tạc về thi đua yêu nước
Sự phát triển phong phú, đa
dạng, thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả của các phong trào thi đua
yêu nước trong 75 năm qua không chỉ khẳng định rằng thi đua “là một cách yêu
nước thiết thực và tích cực” chứ không phải là “tranh giành” mà còn “là một
cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho
đoàn kết chặt chẽ thêm. Và đoàn kết, chặt chẽ để thi đua mãi. Vì vậy, thật
thà tự phê bình và thân ái phê bình là một lực lượng để đẩy mạnh thi
đua”. Thi đua là đoàn kết vì mục tiêu chung, chứ không phải là sử dụng các
“mánh khóe và thủ đoạn” dẫn đến “phá nát xã hội”; là “tìm cách triệt hạ người
khác, hay ít nhất là bước lên đầu nhau mà sống” và như các luận điệu phản động
bịa đặt, bôi đen.
Thực tế, hiểu một cách ngắn gọn
nhất thì thi đua là cùng nhau đem hết tài năng, sức lực của con người để không
chỉ “đua nhau làm” mà còn “nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong
một lĩnh vực hoạt động nào đó”. Đó là hoạt động sáng tạo, tích cực của mỗi con
người, của từng tổ chức, địa phương, cơ quan đơn vị trên mọi lĩnh vực của cuộc
sống (lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu…); “là hoạt động có tổ chức với sự
tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt
nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 1 Điều 3) và “nhằm tạo động lực
động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống
yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Điều 5) của Luật Thi
đua, khen thưởng 2003 (sửa đổi 2005, 2013). Vì thế, thi đua là một trong những
biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần, ý chí và sự nỗ lực, hy sinh phấn
đấu của mỗi người dân vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc,
chứ không phải vì “sự khốc liệt trong cạnh tranh để đạt thành tích chứ
không phải ở mục đích tạo ra giá trị bằng việc phát triển năng lực nhiều mặt
của con người”; lại càng không phải là thi đua yêu nước “phá hủy từng con người,
biến họ thành những kẻ xấu từ trong động cơ cho đến việc làm”; đồng thời, làm
cho môi trường công tác, xã hội trở nên “ngột ngạt, gian dối, tiểu xáo, kèn
cựa, đấu đá”, dẫn đến “làm mục ruỗng xã hội từ bên trong bởi sự xuống cấp trông
thấy mỗi ngày”.
Thực tế cũng cho thấy, các
phong trào thi đua yêu nước từ: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm”; “Bình dân học vụ”; “Hũ gạo kháng chiến”; “Chiến sĩ ở trước mặt trận thi
đua giết giặc lập công, đồng bào ở hậu phương thi đua tăng gia sản xuất”;
“Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu
phương thi đua với tiền phương”; “Ba nhất” trong Quân đội; “Gió Đại Phong”
trong nông nghiệp; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Hai tốt” trong ngành
giáo dục; “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” trong thanh niên; “Ba đảm đang”
trong phụ nữ; “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ
mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” hay “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột
thịt”… cho đến “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo” của Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam; “Cựu chiến binh gương mẫu” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Thi đua
Quyết thắng”, “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ
Hồ” trong quân đội; “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Công an nhân dân học
tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người Công an nhân
dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” trong Công an hay “Cả nước chung
sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”,
“Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ,
công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”… lan tỏa sâu rộng từ
Trung ương đến địa phương, ở tất cả các cấp, các ngành; trên khắp mọi miền của
Tổ quốc trải dài từ sau ngày 2/9/1945 đến nay. Những phong trào nêu trên đã
minh chứng: Thi đua yêu nước không chỉ trở thành động lực quan trọng, góp phần
thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, mà còn được nâng lên
một tầm cao mới, mang hơi thở của thời đại mới.
Bản chất của thi đua là yêu
nước, nên khi đã hiểu rõ kế hoạch, mục đích, nội dung cách thức thi đua thì mỗi
cá nhân, tập thể sẽ cùng nhau đoàn kết, nỗ lực phấn đấu để vượt qua mọi khó
khăn; là “làm phát triển tinh thần đoàn kết giữa tất cả các tầng lớp nhân dân”;
là thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc để sửa chữa tất cả mọi khuyết
điểm, “cải tạo con người”… Vì thế, việc viện dẫn một ví dụ về thi đua trong
ngành giáo dục hay cho rằng các phong trào thi đua yêu nước hiện nay chỉ là
hình thức, qua loa, chạy theo số lượng phong trào, thậm chí là cào bằng, không
thực chất hay là “chạy thi đua bằng mọi cách có thể”, vì “thi đua gắn chặt với
quyền lợi của mỗi người về mọi mặt, từ vật chất, thăng tiến, đến cả sự yên ổn,
an toàn” nên “sinh ra cạnh tranh, tị hiềm, đấu đá, ghen ghét, phá vỡ quan hệ
tốt đẹp giữa các đồng nghiệp” là bẻ cong sự thật, là suy diễn mang tính chủ
quan của các phần tử phản động.
Trên thực tế, thi đua không chỉ
giúp cho mọi người tiến bộ mà còn làm tăng cường tình đoàn kết, sự tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau; không chỉ “đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi” mà còn cổ vũ,
phát huy sức sáng tạo, lòng nhân ái, vẻ đẹp tâm hồn, tình đoàn kết của người
Việt trong thời đại mới. Vì thế, thi đua yêu nước không phải là “phá vỡ” tình
người, là “làm hỏng đi sự kết nối lành mạnh giữa người với người” và “gây ra
những bức xúc ngầm” trong nội bộ. Cùng với đó, việc một số người nhân danh dân
chủ, “chuộng dân chủ tư sản” cho rằng thi đua ở Việt Nam không phải là tự
nguyện mà là “bắt buộc phải làm”, nên “thi đua là con đẻ của nỗi sợ hãi tự do”
và mang các phong trào thi đua yêu nước so sánh với phương Tây, với việc lý
giải rằng “họ không có thi đua, không ai phải thi đua với ai để tồn tại cả” mà
vẫn phát triển không ngừng với nhiều phát minh, sáng chế, các thành tựu mọi mặt
về khoa học, nghệ thuật… cũng chỉ là sự suy diễn một chiều.
Ở Việt Nam, thi đua yêu nước là
để phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày
càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc; là để nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, cho nên các phong trào
này luôn nhận được sự hưởng ứng rộng khắp, sôi nổi của các tầng lớp nhân
dân.
Những thập niên gần đây, các
phong trào thi đua yêu nước gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị,
với các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, với việc triển
khai Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp
tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Chỉ
thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số
01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trong cả hệ thống chính
trị và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
trong nội bộ, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương
về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn
chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa" cùng Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung
ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ
Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương… ngày càng được
tổ chức và thực hiện sáng tạo, linh hoạt với các nội dung cụ thể, thiết thực,
hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, trên khắp mọi miền của Tổ quốc.
Thi đua yêu nước là một phong
trào cách mạng rộng rãi, thiết thực được lãnh đạo, chỉ đạo bởi các cơ quan,
ban, ngành chức năng; được tổ chức thực hiện theo kế hoạch, với các hình thức
phù hợp trong cả hệ thống chính trị, chứ không phải là “đặt sự vận động của xã
hội trên nền của sự hơn thua giữa các cá nhân”; là sự “ganh đua” để “triệt hạ
người khác” vì thành tích như các phần tử cơ hội, phản động, các thế lực thù
địch xuyên tạc./.
Bệnh sính bằng cấp - cần điều trị từ gốc rễ
Nhiều ý kiến đa chiều, nhưng bao trùm vẫn là
luồng ý kiến bày tỏ sự băn khoăn trước nạn “chạy bằng cấp” và hiện
thực có phần vô lý về việc phải “lo” bằng cấp một cách hình thức, mà ít chú trọng
đến năng lực thật của cán bộ trong quá trình đánh giá, sử dụng.
Chạy đua... bằng cấp?
Mới đây, một cán bộ nọ “ới” tôi qua điện thoại:
“Cuối tuần, đồng chí phải sắp xếp về liên hoan với tôi nhé. Tôi vừa tậu thêm
một cái bằng đỏ au nữa rồi đấy!”.
Nói rồi, anh kể về quá trình vừa học, vừa làm của
mình. Vất vả, gian nan lắm, nhưng phải cố gắng theo đuổi đến cùng để có cái
bằng không thể thiếu trong tiêu chí bổ nhiệm cương vị mới.
Câu chuyện tương tự như trên giờ diễn ra khá phổ
biến, như thể cán bộ đang phải chạy đua kiếm tìm bằng cấp. Bởi lẽ, nếu cán bộ
không sớm lên kế hoạch, tranh thủ thời cơ đi học cho đầy đủ bằng cấp thì
dù có năng lực, thậm chí là có tài năng thì vẫn rất dễ rơi vào nguy cơ “giậm
chân tại chỗ”. Hơn thế, có thêm bằng cấp, chứng chỉ là thêm phần danh giá, như
thể con người ta được cộng đồng, tổ chức, dòng họ coi trọng hơn. Chính cái tâm
lý xã hội ấy và tình trạng đề cao tiêu chí về bằng cấp, đã biến không ít cán
bộ, đảng viên, công chức trở thành “nạn nhân” trên dặm dài kiếm tìm, chinh phục
các loại bằng cấp, chứng chỉ. Ai cũng háo hức đi học, hoặc “ngậm đắng nuốt
cay”, khắc phục mọi khó khăn để “theo nghiệp đèn sách”, đặng lấy được những
loại giấy tờ để làm... tiền đề cho danh vọng. Cùng với đó là hệ lụy về nạn
"chạy bằng", mua bằng, làm bằng cấp giả... gây nhức nhối xã hội; hay
tình trạng cán bộ đua nhau ra nước ngoài “tìm kiếm bằng cấp”, dẫn đến một thực
tế là hàng chục nghìn văn bằng quốc tế chưa đủ, hoặc không đủ điều kiện được
công nhận, mặc dù người học đã bỏ ra chi phí rất lớn để sở hữu tấm bằng này.
Thực tế cho thấy, học là việc thiết yếu đối với mỗi
con người nói chung, cán bộ nói riêng. Nó giúp cán bộ bồi đắp kiến thức, làm
giàu tri thức, từ đó mà nâng cao năng lực, kỹ năng công tác, tạo thêm những giá
trị nhân cách làm người, làm cán bộ. Và, theo ý nghĩa đích thực, tích cực thì
bằng cấp là sự xác nhận có tính chất pháp lý, động lực phấn đấu cần thiết của
các cá nhân trong quá trình tích lũy, học tập, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ được giao. Thế nhưng, nếu nhầm tưởng giữa việc học với việc thực
hiện mục tiêu lấy bằng cấp; lẫn lộn giữa cái đích học để tiến bộ với học để tạo
cái danh hão, cái vỏ bọc để tiến thân thì đó quả là một sai lầm, khuyết điểm
nghiêm trọng!
Trong thực tiễn, có không ít cán bộ dù không nhiều
bằng cấp nhưng sự trải nghiệm từ thực tiễn công tác, đúc rút kinh nghiệm một
cách nghiêm túc đã giúp họ trở thành những nhân tài của đất nước. Họ lăn lộn
vào thực tiễn và được thực tiễn rèn giũa, kiểm nghiệm. Cũng qua đó, họ trở
thành các cán bộ xuất sắc vì được học ở đồng đội, ở nhân dân, học qua công việc
được giao trên cơ sở nền tảng lý luận cơ bản. Thế nhưng đáng buồn là hiện nay
vẫn còn những cán bộ tài năng, đức độ, được đồng đội, đồng nghiệp nể phục, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức đoàn thể giao phó, nhưng vì nhiều lý do khác
nhau lại không có điều kiện bảo đảm các tiêu chuẩn, tiêu chí về bằng cấp,
chứng chỉ nên buộc phải “an phận” với những vị trí công tác không hề tương
xứng. Bấy giờ, không ít ý kiến thẳng thắn, bày tỏ tiếc nuối: Đáng ra đồng chí
ấy phải phát triển cao hơn; đáng ra tổ chức phải trọng dụng anh ấy. Đó là một
sự lãng phí về nguồn lực con người.
Nói đến đây, chúng ta có thể liên tưởng về việc áp
đặt tiêu chí bằng cấp chẳng khác gì một “chiếc còng”, vô tình trói buộc chính
đội ngũ cán bộ. Thế nhưng trong thực tế, nhiều cán bộ chỉ dám rỉ tai nhau, chứ
chưa dám thể hiện chính kiến, đề xuất với cấp có thẩm quyền về việc phải sớm
nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh các quy định một cách phù hợp. Thậm chí, nhiều
cán bộ còn "mũ ni che tai", chấp nhận hiện tượng sính bằng cấp một
cách đầy nghịch lý.
Việc trọng bằng cấp là một trong những nguyên nhân
khiến hiện tượng dùng bằng giả và "chạy bằng cấp" đã và đang nở
rộ; trở thành biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống được Ban Chấp hành Trung
ương xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Không ít câu
chuyện về bằng cấp của cán bộ gây nhức nhối dư luận và tạo ra gam màu tối trong
xã hội. Từ nguồn tin của quần chúng và qua thanh tra, kiểm tra, các cơ
quan, tổ chức đã phát hiện nhiều người sử dụng bằng giả để được tuyển dụng vào
cơ quan nhà nước, được thăng quan tiến chức, “leo cao, chui sâu” vào hệ
thống chính trị. Với vi phạm này, nhiều cán bộ đã bị cách chức, giáng chức,
buộc chuyển công tác và bị xử lý kỷ luật một cách nghiêm khắc; nhưng xem ra
việc giải quyết thực trạng này mới ở phần ngọn. Vì vậy, việc chống tư duy sính
bằng cấp, hành vi "chạy bằng", làm bằng giả cần phải có biện pháp có
tính toàn diện, giải quyết vấn đề từ gốc rễ; mà trước hết phải bắt đầu
từ việc sớm thay đổi tư duy, cung cách ứng xử của con người đối
với bằng cấp.
Phải làm theo lời dạy của Bác Hồ
Chuẩn hóa tiêu chí bằng cấp đối với các chức danh
cán bộ là việc phải làm, đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ
cán bộ chuyên nghiệp và đáp ứng yêu cầu cao về trình độ, năng lực. Thế nhưng,
nếu cứ xơ cứng áp đặt, mặc định bằng cấp, chứng chỉ là tiêu chí duy nhất
bất biến thì vô hình trung, chúng ta đang tự tạo ra những hệ lụy, đi ngược lại
với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc trọng dụng, sử dụng cán bộ.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cố nhiên không
coi nhẹ bằng cấp, Người chỉ phê bình thói chuộng bằng cấp, học “chỉ thích đỗ
đạt bằng cấp” để “thăng quan tiến chức” mà không phải “học để làm việc, làm
người, làm cán bộ”, “học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại”. Hồ Chí Minh cũng từng nhiều lần răn dạy đại ý: nên bỏ tư tưởng
không đúng, khinh lao động chân tay, chỉ trọng lao động trí óc, nên bỏ tư tưởng
học văn hóa để tìm bằng cấp.
Theo Bác, chạy theo bằng cấp là một trong những tàn
dư của chính sách giáo dục thực dân phản động. Trong thư gửi giáo viên, học
sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng Hà Nội, ngày 31-10-1955, Bác căn dặn: Trước
hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại,
như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của
nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ.
Trong thực tiễn, việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán
bộ của Bác chưa bao giờ lấy bằng cấp làm tiêu chí căn bản; thậm chí nguyên tắc
lựa chọn và sử dụng cán bộ của Hồ Chí Minh không hề có yếu tố “bằng cấp”. Điển
hình nhất trong cách dùng cán bộ của Bác là trường hợp Đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Daniel Roussel (năm 1992), Đại
tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “... Tôi được gặp Hồ Chủ tịch lần đầu tiên ở Trung
Quốc năm 1940. Chính ở đó, một hôm Người đã đề nghị tôi nghiên cứu vấn đề quân
sự. Tôi đã trả lời Bác là tôi quen cầm bút hơn cầm kiếm. Tôi đã nói nguyên văn
như vậy... Hồ Chủ tịch trao cho tôi nhiệm vụ phát triển phong trào Việt Minh ở
vùng Cao Bằng. Và Người nhắc lại, tôi phải chịu trách nhiệm về vấn đề tổ chức
quân sự”. Cũng từ đó, một cán bộ từng là giáo viên dạy lịch sử, một nhà báo,
không có bằng cấp cao về quân sự, đã từng bước trở thành vị tướng lừng danh của
dân tộc và thế giới.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng và noi theo tấm gương
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải chăng đã đến lúc chúng ta cần có tư duy, nhận
thức đúng về vị trí, vai trò của bằng cấp, chứng chỉ. Quả đúng là bằng cấp phần
nào thể hiện trình độ kiến thức, tư duy, trí tuệ, năng lực của mỗi người và đó
là một trong những tiêu chí quan trọng để cơ quan có thẩm quyền thêm căn cứ
đánh giá, tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ. Tuy vậy, bằng cấp chỉ có giá trị
khi người sử dụng phải được học hành, đào tạo nghiêm túc với một lượng kiến
thức, trình độ, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ đã được quy chuẩn và luật hóa
theo quy định.
Để phòng ngừa, trị bệnh "chạy bằng", sính
bằng cấp, trong quá trình tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ, nên xác định
tiêu chí bằng cấp là điều kiện cần, chứ không phải là tiêu chí quan trọng nhất.
Tuyển dụng, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải thông qua công tác sát hạch,
kiểm tra một cách nghiêm túc, thực chất, khách quan, công bằng, minh bạch để
tìm kiếm, lựa chọn những cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức trong sáng, có
năng lực toàn diện để bố trí vào cương vị tương xứng. Trên thực tế, rất nhiều
cán bộ dù không có nhiều bằng cấp, thậm chí là bằng cấp không cao nhưng vẫn
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, họ trở thành những điển hình tiêu biểu trong sự
nghiệp cách mạng, được quần chúng yêu mến, kính trọng; được tổ chức ghi nhận,
tín nhiệm bầu, đề cử lên các chức vụ chủ trì, chủ chốt trong hệ thống chính trị
của Đảng, Nhà nước.
Vì thế, các cơ quan, tổ chức, cán bộ cần sớm nghiên
cứu, xây dựng bộ tiêu chí khoa học để đánh giá thực chất trình độ, trí tuệ,
năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ, công chức, làm cơ sở để tuyển dụng, bổ
nhiệm. Trong đó, việc xác định bằng cấp là một tiêu chí không thể thiếu, nhưng
không vì thế mà xơ cứng, áp đặt theo lối: Nếu không có bằng cấp thì không thể
cân nhắc bổ nhiệm, sử dụng, trọng dụng cán bộ.
Nhận diện “comment bẩn” từ thực tiễn online
Lợi dụng mặt trái của mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội
chính trị cố tình tán phát các thông tin xấu độc, không đúng sự thật lên không
gian mạng, rồi tạo ra các bình luận nhằm lôi kéo, kích động cộng đồng mạng tham
gia, thành lập các hội, nhóm tự phát để bàn tán, chỉ trích, xuyên tạc, bôi nhọ
danh dự, uy tín người khác.
Mục tiêu của họ là gieo
rắc các nhận thức sai lầm, tâm lý hoài nghi, tâm trạng bất an, bức xúc trong xã
hội và cộng đồng; ngấm ngầm kích động các tư tưởng bất tuân, chống đối luật
pháp, chuẩn mực xã hội, cộng đồng; xúi giục các hành vi bạo loạn, bạo lực...
Nhiều người gọi đây là những “comment bẩn”.
Nguy hại "comment bẩn"
Trên thực tế, “comment
bẩn” có khá nhiều dạng. Dạng dễ nhận thấy nhất là những comment tục tĩu. Những
“comment bẩn” dạng này thường là những lời nói bậy bạ, vô văn hóa, văng tục, chửi
thề, song thường thì câu từ không có nhiều ý nghĩa cụ thể mà chỉ nhằm mục đích
a dua phá hoại. Loại này có thể dễ dàng gặp ở những diễn đàn không có người quản
lý trực tiếp (admin) hoặc những trang mạng có bộ lọc ngôn từ không cao. Tuy
nhiên, số lượng comment loại này thường rất nhiều nên dễ vượt quá sự kiểm soát.
Dạng “comment bẩn” thứ
hai tinh vi hơn, dễ lọt lưới kiểm soát hơn vì nhìn thoáng qua tưởng chừng vô hại.
Những kẻ thường xuyên tung “comment bẩn” dạng này bỏ thời gian để theo dõi xem
những người còn lại trong diễn đàn đang nói về điều gì để bắt lỗi, chất vấn...
những bình luận này thường gay gắt hơn mức bình thường. Người đưa ra bình luận
luôn sẵn sàng đối đáp kịch liệt với “chủ thớt” (cách gọi của cư dân mạng để chỉ
người lập ra topic) để chứng minh nhận xét của mình, cứ như vậy sẽ tạo nên làn
sóng lan truyền trên mạng.
Dạng “comment bẩn” thứ
ba là những comment do chính “chủ thớt” nêu ra để làm chủ đề bàn luận cho cư
dân mạng tham gia hoặc mượn một topic nào đó và đưa ra nhận xét, bình phẩm,
đánh giá của mình, từ đó lôi kéo, kích động người khác cùng bình luận nhằm đạt
được ý đồ. Dạng “comment bẩn” này thường được dựng lên có chủ đích rõ ràng, có
thể vì mục đích chính trị, kinh tế, xã hội... Trong phạm vi bài viết này chỉ đề
cập đến dạng “comment bẩn” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị
lợi dụng mạng xã hội, truyền thông xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy
tín, xúc phạm danh dự các vị lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân
đội...
Những người thực hiện
thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên
họ thực hiện ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Đối tượng họ hướng đến là
các lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và những người có vị
trí, vai trò, tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước hoặc cán bộ, đảng viên thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Dạng
thức phổ biến là: Xuyên tạc, bịa đặt về lịch sử thân thế, sự nghiệp; xúc phạm đời
tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ xã hội... Để tăng hiệu quả, họ
thường tung thông tin này vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: Những
sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các
ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp...
Ngoài ra, họ còn mượn một
hiện tượng, một cá nhân cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất bị pháp luật
nghiêm trị để đánh tráo khái niệm, quy chụp, đánh đồng thành bản chất chế độ xã
hội, bản chất của Đảng và Nhà nước. Chỉ cần một hành động, một câu nói nào đó của
cán bộ, đảng viên cũng bị họ phân tích, mổ xẻ, xuyên tạc ở nhiều góc độ để thêu
dệt thành những câu chuyện thị phi rùm beng. Thậm chí, họ còn cố tình dàn dựng
những “cạm bẫy” nhằm kích động, làm cho những cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh,
kinh nghiệm, mất kiềm chế trong những tình huống cụ thể để tổ chức quay phim,
chụp hình rồi cắt ghép, chỉnh sửa, thêu dệt thành những câu chuyện gây bức xúc
trong “dư luận”. Hơn thế nữa, họ còn rất thạo các cách thức để thổi phồng sự việc,
để thu hút người theo dõi, tạo điểm nóng trong “dư luận”. Từ một hành động nhỏ
chưa phù hợp của một cán bộ, đảng viên nào đó, họ có thể "vẽ" thành một
bức tranh toàn cảnh về đạo đức, lối sống, về nghệ thuật xã giao, văn hóa công vụ...
của cả một cơ quan, đơn vị, của Đảng, của xã hội rồi đem so sánh với các nước
khác, bất chấp sự khập khiễng. Nguy hiểm hơn, để hướng dư luận theo mưu đồ của
mình, họ chặn hoặc loại bỏ những bình luận trái chiều, ý kiến đấu tranh của những
người có chính kiến để tạo nên dạng thông tin một chiều có lợi cho mục đích chống
phá.
Không khó để nhận ra
đây là những thủ đoạn của hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị,
tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Bởi vì, thủ đoạn dù có tinh vi đến đâu,
xảo quyệt thế nào thì bản chất cũng chỉ là chiêu trò “bình mới, rượu cũ”. Vấn đề
đặt ra ở đây là đã có không ít người dân vì tính hiếu kỳ, nhận thức đơn giản,
phiến diện, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ vô
tình hoặc cố ý tham gia “góp ý” rất sôi nổi tạo nên một “làn sóng” lan truyền
nhanh chóng với hàng nghìn, thậm chí hàng triệu “comments”, qua đó giúp cho các
thế lực thù địch, phản động đạt được ý đồ chống phá. Vậy làm thế nào ngăn chặn
là câu hỏi đặt ra cấp thiết đối với các cơ quan hữu quan, các ban, ngành và cả
những người tham gia mạng xã hội.
Làm thế nào để ngăn chặn "comment bẩn"?
Thứ nhất, đối với các
cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước và các chủ thể quản lý pháp luật về an ninh
mạng: Cần chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường các biện pháp giáo dục,
tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân về pháp luật, nhất là Luật An ninh
mạng; các chỉ thị, quy định về cung cấp, phát triển, sử dụng các nền tảng mạng
xã hội; ý thức, trách nhiệm và những nguyên tắc khi tham gia các nền tảng mạng
xã hội của người dân. Hoàn thiện các quy định về quản lý thông tin trên mạng xã
hội; tập trung nghiên cứu xây dựng luật về quản lý thông tin trên mạng, Luật An
ninh mạng để có thể tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp; tích cực xây dựng
khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát
triển lành mạnh, đúng hướng và quản lý tốt mạng xã hội.
Các nhà cung cấp dịch vụ
và người sử dụng mạng xã hội thực hiện nghiêm túc Bộ quy tắc ứng xử trên mạng
xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng xã hội lành mạnh, an toàn tại Việt
Nam. Các cá nhân, tổ chức cần phải có trách nhiệm pháp lý với các thông tin đưa
lên mạng xã hội nhằm hạn chế tối đa những phát ngôn “vô tội vạ”, xâm phạm đời
tư, hạ thấp uy tín, bôi nhọ danh dự của cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội. Xây
dựng và hoàn thiện các văn bản thực hiện Luật Báo chí, trong đó chú trọng việc
nâng cao vai trò định hướng thông tin của các cơ quan báo chí chủ lực, tích cực,
chủ động phê phán, phản bác thông tin xấu, độc trên
mạng xã hội để góp phần khắc phục những mặt trái của truyền thông xã hội.
Thứ hai,
đối với các chủ thể cung cấp mạng xã hội: Các nhà cung cấp, khai thác dịch vụ mạng,
nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm
tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích dân tộc, an ninh quốc
gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện rõ sự hợp tác và tuân thủ các
quy định khi vào hoạt động tại Việt Nam, như: Đặt cơ quan đại diện, thiết lập
tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp
thời bóc gỡ những trang mạo danh, các topic cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm
các cá nhân, tổ chức, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật...
Đồng thời, cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, trách nhiệm của những doanh
nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng.
Thứ ba, đối
với các cơ quan quản lý, giám sát các phương tiện truyền thông: Cần tiếp tục
hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ
ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội,
thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị. Tăng cường hơn nữa
công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đặc biệt là sự phối hợp giữa các
cơ quan chức năng có liên quan và của cả hệ thống chính trị để xử lý nghiêm những
hành vi vi phạm, gây hại như: Lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán phát tin giả,
sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước
trên internet, mạng xã hội...
Tăng cường
các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, bóc gỡ, loại bỏ những thông tin độc hại,
xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Việt Nam. Đây là biện pháp rất cần thiết
và hữu hiệu trong bối cảnh hiện nay. Các đơn vị chuyên trách về an ninh mạng cần
kịp thời hỗ trợ với các tổ chức, cá nhân khi phát hiện dấu hiệu “lỗ hổng” bảo mật
và cả khi bị tội phạm tin học tấn công để khắc phục và tạo lập môi trường mạng
lành mạnh, trong sạch để người dùng yên tâm khi sử dụng mạng xã hội phục vụ nhu
cầu chính đáng của cá nhân, tổ chức.
Thứ tư, đối
với người tham gia mạng xã hội: Khi tham gia môi trường mạng, các “cư dân mạng”
nên lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về các hoạt động xã hội, hoạt động
vì cộng đồng, phê phán những thói xấu, biểu hiện lệch lạc, hướng tới thông điệp
nhân văn, xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội thanh lịch, văn minh. Đồng
thời, cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng ngôn ngữ lai
căng, tục tĩu, có tính bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được
kiểm chứng. Đặc biệt, không được lập nhóm, hội để nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm
người khác hoặc công kích lẫn nhau; không “vào hùa” theo đám đông khi chưa hiểu
rõ về vụ việc hoặc không có căn cứ. Trong quá trình đăng tải các thông tin, các
cư dân mạng không đăng những thông tin bịa đặt, thông tin vi phạm pháp luật;
không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các
tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản. Các “cư dân mạng” cần nắm rõ và
tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng. Trên cơ sở đó, mỗi người cần biến
tài khoản mạng xã hội của mình thành một kênh thông tin lành mạnh và thực hiện
truyền thông xã hội trên tinh thần trách nhiệm cộng đồng, kịp thời phát hiện,
góp ý, phê bình, phản bác... những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.
Khi tham
gia mạng xã hội, các “cư dân” cần trang bị các kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá
nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin. Việc người dùng nâng cao "sức
đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh
trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của
thông tin trên mạng xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng
mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ
những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc./.





