Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG SẼ ĐƯỢC BỐ TRÍ NHƯ THẾ NÀO SAU SẮP XẾP HUYỆN, XÃ?

         Bộ trưởng Bộ Nội vụ vừa ký ban hành văn bản số 4099/HD-BNV hướng dẫn về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, thực hiện chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và việc công nhận vùng an toàn khu, xã an toàn khu, xã đảo, đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động khi thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023-2030.

Tạm dừng bổ nhiệm, tuyển dụng
Kể từ ngày UBND cấp tỉnh trình Chính phủ đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của địa phương, tạm dừng việc bầu, bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý và tuyển dụng, tiếp nhận cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan, tổ chức trên địa bàn cho đến khi nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đối với từng đơn vị hành chính có liên quan có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp khuyết người đứng đầu cơ quan, tổ chức mà không bố trí được người phụ trách theo quy định của pháp luật thì được bầu, bổ nhiệm chức danh đó.

Về giải quyết chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị dôi dư tại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thực hiện sắp xếp, UBND tỉnh theo thẩm quyền chỉ đạo Sở Nội vụ phối hợp với Ban Tổ chức tỉnh ủy, thành ủy hoặc chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc thực hiện việc rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu biên chế cán bộ, công chức và chỉ tiêu số lượng người làm việc (biên chế viên chức) đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị tại đơn vị hành chính cấp huyện hình thành sau sắp xếp trong phạm vi chỉ tiêu biên chế được cấp có thẩm quyền giao giai đoạn 2022-2026.

Đồng thời, rà soát biên chế cán bộ, công chức cấp xã và số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã theo quy định tại Nghị định số 33/2023/NĐ-CP quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố, bảo đảm phù hợp với lộ trình thực hiện sắp xếp, bố trí số lượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã sau sắp xếp theo quy định tại Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đề án, kế hoạch của địa phương.

Văn bản hướng dẫn nêu rõ, định kỳ tháng 11 hàng năm, UBND cấp tỉnh báo cáo Bộ Nội vụ về việc điều chỉnh số lượng biên chế cán bộ, công chức, viên chức và số lượng cán bộ, công chức cấp xã của địa phương để Bộ Nội vụ tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.

Các chính sách đối với cán bộ dôi dư
Theo văn bản hướng dẫn, trên cơ sở rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu biên chế cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, cán bộ, công chức cấp xã và số lượng người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nêu trên, xác định rõ số cán bộ, công chức, viên chức cấp huyện, cấp xã và số người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố dôi dư (bao gồm cả người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý) để giải quyết chế độ, chính sách theo quy định tại Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15.

Trong đó, việc tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, luân chuyển, bố trí, phân công công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã đến làm việc tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị khác trong hệ thống chính trị thực hiện theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Nghị định số 138/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức; Nghị định số 115/2020/NĐ-CP quy định về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức và Nghị định số 33/2023/NĐ-CP.

Trường hợp cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố dôi dư do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã có nguyện vọng thôi việc, nghỉ hưu, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý quyết định thực hiện chính sách, chế độ theo hướng nếu thuộc đối tượng tinh giản biên chế, thực hiện theo quy định tại Nghị định số 29/2023/NĐ-CP quy định về tinh giản biên chế.

Nếu không thuộc đối tượng tinh giản biên chế, thực hiện chế độ thôi việc, nghỉ hưu theo quy định tại Nghị định số 26/2015/NĐ-CP quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt nam, nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội; Nghị định số 46/2010/NĐ-CP quy định về thôi việc và thủ tục nghỉ hưu đối với công chức; Nghị định số 115/2020/NĐ-CP và Nghị định số 33/2023/NĐ-CP.

Ngoài các chế độ, chính sách theo quy định tại các nghị định nêu trên, trên cơ sở cân đối ngân sách địa phương, UBND cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động dôi dư của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở cấp huyện và cán bộ, công chức cấp xã, người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trên địa bàn theo quy định tại Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15.

UBND cấp tỉnh thực hiện việc lập hồ sơ gửi Bộ Nội vụ công nhận đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã hình thành sau sắp xếp là vùng an toàn khu, xã an toàn khu, xã đảo, đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động theo quy định Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15. Trong thời gian chưa được cấp có thẩm quyền công nhận thì thực hiện chế độ, chính sách đặc thù về vùng an toàn khu, xã an toàn khu, xã đảo, đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động theo Nghị quyết số 35/2023/UBTVQH15./.
Yêu nước ST.

HÀI HƯỚC PHILIPPINES “BIỂU TÌNH PHẢN ĐỐI VIỆT NAM QUÂN SỰ HÓA BIỂN ĐÔNG”

     Năm xưa Philippines chẳng sở hữu hòn đảo nào ở Hoàng Sa cũng như Trường Sa. Nhân lúc Đại Việt ta rối ren vì ngoại xâm và nội loạn đã cắn trộm của ta đảo Thị Tứ và Song Tử Đông. Giờ Đại Việt ta gác lại quá khứ không phản đối Philippines thì thôi. Sao các vị lại còn “vừa ăn cướp vừa la làng”.

Trường Sa, Hoàng Sa từ thời Hậu Lê đã thuộc quyền kiểm soát và khai thác của Đàng Trong. Lúc này Philippines đang là mấy bộ tộc, thậm chí còn chẳng có vua, bị Tây Ban Nha chiếm làm thuộc địa dễ như chốn không người. Đến cái tên nước cũng lấy theo tên một vị vua Tây Ban Nha.

Đến thời Tự Đức do triều đình yếu nhược nên nước ta bị Phú Lang Sa đến “bảo hộ” và chia đất nước thành ba kỳ, tức ba nước thuộc liên bang Đông Dương (lưu ý người đầu tiên chia nước ta thành ba “kỳ” là… Minh Mạng, bắt chước “kỳ” của nhà Thanh).

Ngày 14 tháng 3 năm 1933, chính quyền Pháp cho đội tàu gồm Malicieuse, tàu pháo Arlete và hai tàu thủy văn Astrobale và de Lanessan ra quần đảo Trường Sa để tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính. Ngày 26 tháng 7, Bộ Ngoại giao Pháp ra thông báo về hành động trên, đồng thời công khai danh sách các đảo chính thuộc Hoàng Sa, Trường Sa. 

Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer ký Nghị định số 4702-CP sáp nhập hai quần đảo trên vào địa phận tỉnh Bà Rịa thuộc Liên bang Đông Dương.

Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tiếp thu quyền kiểm soát hai quần đảo này từ Pháp. 

1. Philippines gặm Thị Tứ
Đầu thập niên 1960, các tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa thường ghé thăm đảo Thị Tứ, cụ thể năm 1961 là tàu HQ-02 Vạn Kiếp và HQ-06 Vân Đồn còn năm 1963 là ba tàu gồm HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hòa (dựng bia trên đảo Thị Tứ vào ngày 22 tháng 5)

Vào thời kỳ 1970-1971, Philippines cho quân bí mật chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, trong đó có đảo Thị Tứ. VNCH không phản ứng gì.

2. Philippines gặm Song Tử Đông
Năm 1959, chính phủ Việt Nam Cộng hòa sáp nhập hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây vào tỉnh Phước Tuy. 

Đến năm 1963, thủy thủ trên các tàu Hương Giang, Chi Lăng và Kỳ Hòa đã xây dựng lại bia chủ quyền Việt Nam Cộng hòa một cách có hệ thống tại một số đảo thuộc Trường Sa, trong đó có đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây. Tuy nhiên, Việt Nam Cộng hòa không có quân đội đồn trú trên cặp đảo này.

Năm 1970, tổng thống Philippines Ferdinand Marcos ra lệnh cho một nhóm biệt kích bí mật tiến chiếm đảo Song Tử Tây và Song Tử Đông (tiếng Philippines gọi là Pugad và Parola). Đây là một nhiệm vụ bí mật và người chỉ huy chỉ được phép gỡ niêm của lệnh sau một thời điểm thích hợp được quy định trước. 

Cuộc đánh chiếm không gặp phải sự kháng cự nào, theo ghi nhận trên đảo không có người. Tuy nhiên sau đó quân đội Philippines báo cáo về Tổng hành dinh về sự hiện diện của quân đội chính quyền Sài Gòn ở trên đảo Song Tử Tây, Tổng hành dinh đã ra lệnh là mặc kệ họ. Mấy tháng sau khi Philippines chiếm hai đảo, sự kiện này mới được các nước khác biết đến.

Đầu năm 1974, sau khi Hải quân Việt Nam Cộng hòa đánh mất nhóm đảo Lưỡi Liềm của quần đảo Hoàng Sa vào tay Hải quân Trung Quốc trong trận Hải chiến Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chỉ thị quân đội tiến hành chiến dịch Trần Hưng Đạo 48, đưa địa phương quân đồn trú một số đảo ở Trường Sa.

Ngày 30 tháng 1 năm 1974, đội hai tàu gồm có hộ tống hạm Đống Đa HQ 07 và hải vận hạm Tiền Giang HQ 405 do đại tá Nguyễn Văn May chỉ huy xuất phát từ Vũng Tàu, dự tính đến quần đảo Trường Sa đổ bộ và đồn trú tại 5 đảo: Song Tử Tây, Sơn Ca, Trường Sa, Sinh Tồn và An Bang. Trước đó hải quân Việt Nam cộng hòa đã đồn trú trên đảo Nam Ai (tức đảo Nam Yết) từ tháng 8 năm 1973.

Ngày 1 tháng 2 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã bất ngờ đổ bộ lên đảo Song Tử Tây.

Có nguồn cho rằng quân Philippines đang ở đảo Song Tử Đông dự tiệc mừng viên chỉ huy tại đảo này. Người ta còn cho là một cơn bão nhỏ xảy ra vào ngày hôm đó đã khiến các binh sĩ Philippines tạm thời ở lại đảo Song Tử Đông để trú bão. Khi quay trở lại đảo, lính Philippines đã thấy binh sĩ Việt Nam có vũ trang đang hát quốc ca Việt Nam Cộng hòa trên đảo, nên họ vội quay trở lại Song Tử Đông để báo tin và đề phòng phía Việt Nam Cộng hòa đánh úp nốt đảo này. Phía Philippines đặt binh sĩ đồn trú tại Song Tử Đông và đảo Thị Tứ trong tình trạng báo động đỏ.

Từ tháng 4 đến tháng 12 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng hòa hoàn tất việc xây dựng hệ thống phòng thủ trên đảo. Chính quyền Philippines giữ im lặng về sự kiện này.

Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận lại quyền kiểm soát 06 đảo ở quần đảo Trường Sa từ VNCH. Sau chiến dịch CQ88, CHXHCN Việt Nam đã thu hồi thêm nhiều đảo khác và trở thành nước kiểm soát nhiều đảo nhất ở Trưởng Sa.

Kể từ ngày đó đến nay, đảo Song Tử Tây tiếp tục nằm dưới sự kiểm soát của Việt Nam, còn Song Tử Đông chỉ cách đó 1,5 hải lý (2,8 km) vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Philippines./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHUYỆN LẠ TRONG LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI K’HO SRE!

         Từng tham dự nhiều đám cưới truyền thống của các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, nhưng đám cưới của đôi trai gái người K'Ho Sre để lại cho chúng tôi ấn tượng đặc biệt nhất. Phong tục cưới hỏi lạ lẫm của tộc người này là một trong những 'thỏi nam châm' thu hút du khách đến với thôn Đam Pao và vùng phụ cận.

Chật vật “đêm thiêng”
Đang say sưa xem các bà, các chị ở thôn Đam Pao (huyện Lâm Hà, Lâm Đồng) bật bông, kéo sợi, dệt thổ cẩm thì tiếng chuông điện thoại réo liên hồi. Một người bạn giục tôi sang buôn lân cận là Bồ Liêng (thị trấn Đinh Văn) để dự lễ ăn hỏi của sơn nữ Ka Phương Lan và chàng trai K’Trung. “Đám hỏi diễn ra vào lúc nhá nhem tối thế này ư?”, tôi thắc mắc. “Đúng rồi, lễ hỏi chính là “đêm thiêng”, thời khắc mà cậu của cô gái và người mai mối mang lễ vật sang ngỏ ý với nhà trai. Họ phải sang nhà của chàng trai vào ban đêm để tránh bị thiên hạ gièm pha nếu chuyện “bắt chồng” không thành”, bạn tôi giải thích.
 
Tại ngôi nhà của K’Trung, ông K’ Bes (cậu của Lan) đặt chiếc vòng cổ, bầu rượu và thuốc lá lên chiếc chiếu trên sàn nhà rồi cất tiếng: “Tôi đi xin cái xà gạc cho cháu gái” (xin bắt chàng trai về ở rể-PV). “Cái xà gạc” làm ra cũng hơn 20 năm rồi nhưng chưa có ý định đem cho người khác”, cha của chàng trai đáp rồi giải thích thêm: “Con tôi còn nhỏ, chưa biết làm ăn, còn đang ăn bám bố mẹ, chưa có kinh nghiệm trong gia đình đâu”.

Không nản lòng, ông cậu nài nỉ: “Đừng chia lìa nồi đất với cơm niêu/Đừng chia lìa nồi đun với cháo”. Bà mối tiếp lời: “Con của anh chị hôm nay còn trẻ, không có kinh nghiệm, ngày mai nó sẽ lớn. Người ta có sức đi làm được mười ngày, con anh chị cũng sẽ làm được bảy, tám ngày đó thôi”. Sau khi nhà gái năm lần bảy lượt kiên nhẫn thuyết phục, nhà trai mới đồng ý cho con về làm rể bên nhà gái.

Ông cậu vội trở về nhà để báo tin mừng, cùng gia đình của cháu gái chuẩn bị những lễ vật mà nhà trai thách cưới. Ông bảo thường thì nhà gái phải dạm ngõ khoảng 3 - 4 lần mới được nhà trai chấp thuận. “Họ từ chối nhiều lần không phải vì không ưng bụng với gia đình nhà gái mà là để giữ giá cho con trai mình”, ông K’Bes nói.

Các sơn nữ vui vẻ kể rằng người K’Ho Sre theo chế độ mẫu hệ, con gái sẽ bắt chồng và lễ cưới được tổ chức ở nhà gái. Nhưng điều thú vị là các chàng trai vẫn là người chủ động tìm người yêu và tỏ tình. Khi trót yêu cô gái, chàng trai thường mang chiếc khèn môi đến nhà nàng vào ban đêm, đứng bên cửa sổ thổi lên những giai điệu nhớ nhung da diết. Việc này thường tiếp diễn nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng cho đến khi cô gái ra mở cửa, trò chuyện cùng chàng trai. Khi cả hai đã thuận tình, chàng trai sẽ trao cho cô gái một vật định tình cùng lời ước hẹn đã thuộc về nhau.

Có những trường hợp nhà gái nhiều lần đến xin “bắt chồng” nhưng nhà trai vẫn một mực khước từ. Lúc đó, nhà gái sẽ trình ra món đồ mà chàng trai đã trao cho cô gái để bắt vạ. Thậm chí, có những vụ nhà gái còn lấy chuyện chàng trai đã “ăn trái cấm” với cô gái để “phạt vạ” thật nặng, buộc nhà trai phải chịu trách nhiệm.

Lễ cưới độc đáo
Vừa đến đầu ngõ nhà bà Ka Phen, chúng tôi đã nghe tiếng ù ù ngân dài. “Đó là tiếng tù và báo hiệu lễ cưới sắp bắt đầu. Nhanh chân lên kẻo trễ các anh chị ơi!”, Ka Loan giục giã. Sơn nữ này đang trên đường đến dự đám cưới của Ka Phương Lan. Lễ cưới diễn ra tại ngôi nhà sàn vốn thuộc sở hữu của một trong những nghệ nhân nổi tiếng ở Tây Nguyên - già làng Duân Jai K’Bat. Sau khi già làng mất, gia đình bà Ka Phen gìn giữ ngôi nhà truyền thống này cùng một số tài sản, vật dụng sinh hoạt của người K’Ho Sre như cồng chiêng, ché rượu, thổ cẩm.... Nhiều hoạt động văn hóa của buôn Bồ Liêng và huyện Lâm Hà được tổ chức tại đây.

Đến gần nhà sàn, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên khi thấy nhà gái cột một con heo dưới chân cầu thang và treo trên bậu cửa một khúc ruột gà… “Con vật này được gọi là heo đụng bởi khi đoàn nhà trai đến dự lễ cưới, từng người lần lượt đụng chân vào nó với hàm ý hôm nay các Yàng (thần) và chúng tôi đã chứng kiến đám cưới của đôi trai gái”, ông K’Bring, một thành viên của nhà gái nói và cho biết thêm: Con heo này sẽ được làm thịt cúng Yàng và chế biến các món ăn trong đám cưới. Nhà gái còn chuẩn bị một chậu nước sạch để vẩy lên chân từng thành viên nhà trai khi họ lần lượt bước qua cửa để vào nhà.

Tay cầm cái liềm, bà Ka Phen dẫn cô dâu chú rể và người mai mối đi 8 vòng trong nhà. Đến vòng cuối cùng, bà dùng liềm cắt đứt sợi lòng gà được treo phía trên cửa chính. “Việc này như lời khẳng định là K’Trung đã lớn, không còn phụ thuộc vào cha mẹ đẻ. Đây cũng là nghi thức tiễn chàng trai về nhà vợ. Từ nay, chàng rể có trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ vợ và gắn bó trọn đời với Ka Phương Lan”, Ka Loan giải thích.

Sau khi nhà gái trao những lễ vật mà nhà trai đã thách cưới theo thỏa thuận, ông mối cầm con gà lên làm nghi thức cúng và đưa cho mọi người sờ tay vào để báo với thần linh rằng mọi người cùng thống nhất cho cô dâu và chú rể thành đôi. Nhà gái sẽ nhanh chóng làm thịt con gà này, luộc chín, xé phay để bà mối và ông mối đưa cho cô dâu, chú rể ăn cùng với 8 miếng cơm. “Với người K’Ho S’Re, số 8 tượng trưng cho sự may mắn, bình an và bền vững”, ông K’Bring cho hay.

Một chiếc ché cổ được dòng họ mang ra để cô dâu chú rể làm lễ: Cùng đặt tay lên miệng ché cầu mong thần linh chứng giám. Sau đó nhà gái tuyên bố tặng cổ vật này cho đôi trẻ làm của hồi môn. Một ché rượu cần thật lớn được khui để cô dâu, chú rể cùng uống, rồi lần lượt các thành viên của hai họ thưởng thức cho đến khi rượu trong bình nhạt hẳn. Hai họ cùng khách mời ăn tiệc, uống rượu cần, múa hát thâu đêm quanh đống lửa trong tiếng cồng chiêng huyễn hoặc.

Bà Dương Thị Hiền, Phó Phòng Quản lý du lịch (Sở VH-TT&DL Lâm Đồng) nhận định: Cùng với nghề dệt thổ cẩm truyền thống, những phong tục tập quán cưới hỏi độc đáo thế này sẽ giúp mô hình du lịch cộng đồng ở Lâm Hà thêm hấp dẫn, thu hút du khách trong và ngoài nước.

Một nghi thức khiến du khách vô cùng thích thú là việc trùm tấm khăn thổ cẩm lên người cô dâu chú rể và cho họ cụng đầu nhau 8 lần. Người mai mối vừa giúp đôi trẻ thực hiện nghi thức này vừa nhắn nhủ: “Êm ấm và ngủ ngon. Sinh một con, trưởng thành một con, sinh hai con trưởng thành hai con; đừng để hư hỏng. Mát mẻ như nước, đẹp như mặt trời, sống lâu như cây me rừng, Con cháu sum họp, biết ăn nói như cha mẹ, cậu dì”./.


Yêu nước ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: TỈNH TÁO TRƯỚC ÂM MƯU CỦA KẺ THÙ!

         Sau khi hội nhập với thế giới mở toang cánh cửa ra đất nước được mở cửa, kinh tế đi lên nhưng cũng đồng nghĩa với nhiều hệ lụy, mà trước khi mở cửa chúng ta chưa lường hết trước được. 
BÌNH THƯỜNG HÓA
Đầu tiên để bình thường hóa quan hệ với mẽo, nó bảo rằng “mày phải trả nợ dùm thằng đệ tử ngụy quyền của tao, vì thời đó nó vay tao giờ mày phải trả dùm nó”. Mịa, ai đời một thằng giết hại gia đình tao, lại bắt tao trả nợ dùm nó! Nhưng vì đại cuộc, sau khi Liên Xô anh cả đổ xụp, ta phải cắn răng chịu đựng. 
VỀ TÔN GIÁO
Sau năm 1954 chúa theo đàn con chiên vô Nam, năm 1975 chúa theo đàn chiên tiếp tục vượt biển sang mẽo. Có nghĩa là ngày đó vatican không có cửa can thiệp vào chuyện tôn giáo ở Việt Nam, các linh mục chức sắc ở Việt Nam thời bấy giờ do Việt Nam quyết định và bổ nhiệm. Tới năm 2011 thì Việt Nam chính thức đồng ý để Tòa Thánh bổ nhiệm một vị Đại diện không thường trú tại Việt Nam cũng từ đây những linh mục không tuân thủ luật pháp chính quyền bắt đầu manh nha xuất hiện chống đối rầm rộ hơn, vụ nhà chung, vụ bạo loạn ở Hà Tĩnh và Nghệ An. Vậy nên các linh mục ngày càng chống đối mạnh mẽ hơn, coi thường chính quyền kỷ cương phép nước.
VỀ NHÂN QUYỀN
Sau khi Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn, thì đám tư bản nó giơ cây gậy nhân quyền ra và bắt chúng ta phải tiếp tục nhượng bộ. Ngày xưa mình xử tử hình bằng bắn súng, vừa rẻ lại tiết kiệm. Nhưng đám tây lông nó bảo rằng “cái đó là vi phạm nhân quyền, và không nhân đạo” nó gây áp lực lên chính phủ bỏ tử hình bằng bắn, chuyển sang thuốc tiêm. Bắt đầu chúng lòi trò con buôn ra, Việt Nam thừa sức sản xuất ra một liều thuốc độc, tiêm một mũi là về chầu ông bà ngay, nhưng nó lại không chịu. Nó bảo “thuốc mày không đảm bảo phải mua thuốc của tao, nếu mày không chịu thì tao sẽ bảo chính phủ tao nghỉ chơi với mày”. Vậy nên chúng ta phải cắn răng đi nhập cái thuốc tiêm vào tử tù với giá cắt cổ. Ngoài ra để hội nhập phát triển kinh tế, chúng ép chúng ta phải thả những tù nhân vi phạm pháp luật Việt Nam, rồi sau đó bảo kê cho chúng ra sinh sống nước ngoài, chúng lên án khi Việt Nam bắt một ai đó trong thành phần chống phá, dùng chiêu bài kinh tế chính trị, áp đặt lên nhân quyền và công Việc nội bộ của Việt Nam.
VỀ NĂNG LƯỢNG
Chúng bắt đầu lu loa lên kích động dân chúng báo chí rằng “Nhiệt điện gây ô nhiễm, thủy điện gây lũ lụt” Cái thằng đại sứ quán mẽo nó có cái trạm quan trắc đặt ở Hà Nội. Nó luôn bảo, thủ đô chúng ta ô nhiễm trầm trọng. Xong nó bắt đầu bảo “này chúng mày phải thay thế năng lượng sạch cho năng lượng truyền thống đi, nhiệt điện công nghệ khựa ô nhiễm lắm”. Dân ta nhắc đến khựa là sôi máu lên, biểu tình đòi chính phủ đóng cửa nhà máy điện. Thế là đám tư bản mắt xanh mũi lõ trời tây nó đem cái công nghệ điện năng lượng mặt trời sang, đấy mày dùng đi tao bán rẻ cho mày thôi. Nhưng không ai biết rằng nó đắt lòi kèn ra, và Việt Nam nước còn nghèo có bán cả nước lên cũng ko đủ tiền mà nuôi đám năng lượng đó.
VỀ QUỐC PHÒNG
Lợi dụng sự tranh chấp biển đảo giữa ta và khựa, anh mẽo bắt đầu bảo “ê mày, tao viện trợ cho mày mấy cái xuồng mày chống khựa” mấy cái xuồng như cái xuồng ba lá đắt lòi kèn, nếu đóng ở Việt Nam tầm dăm triệu đô nó bảo tận 18 triệu đô. Sau đó chúng lại bảo “vũ khí Nga dở mày mua vũ khí tao đi, vũ khí tao tốt hơn”, ve vãn mãi không được, bắt đầu giở giọng dọa nạt “đứa nào mua vũ khí Nga tao cấm vận” Vậy là chúng ta phải cắn răng mua những thứ đồ mà chúng bán với giá cắt cổ, tư duy con buôn của đám tư bản là vậy. Chưa dừng lại ở đó lâu lâu nó lại đem tàu ra cà khịa thằng khựa, thế là Việt Nam phải sốt vó đối phó với anh hàng xóm.
VỀ NGOẠI GIAO
Rủ rê lôi kéo Việt Nam làm tiền đồn chống Trung Quốc gây xích mích căng thẳng với những láng giềng của Việt Nam, tách Việt Nam ra những đối tác truyền thống lâu đời như Nga. Gây áp lực ngoại giao lên Việt Nam trong những vấn đề quốc tế như Cu Ba, Triều Tiên vốn là những đồng minh thân cận lâu năm của Việt Nam.
VỀ GIÁO DỤC
Cấp học bổng du học cho nhiều người có tư tưởng thân mẽo bài trung, thậm chí cả con em của những lãnh đạo để rồi khống chế cho những hoạt động về sau này, không thằng nào nó tự nhiên tốt đào tạo nhân lực cho đất nước mình đâu. 
Mở trường học theo phong cách chuẩn kiểu mẽo, tuyên truyền giá trị tư tưởng phương tây vào tầng lớp tương lai đất nước. Ngày nay cứ lên mạng sẽ rõ, những sinh viên cậu ấm cô chiêu xem Mỹ và phương tây là giá trị, cuộc kháng chiến của đất nước đều bị vứt vào sọt rác.
VỀ TRUYỀN THÔNG
Mua chuộc, đào tạo lôi kéo những tờ báo có sức ảnh hưởng lớn, ca ngợi dân chủ phương tây, nhân quyền kiểu mẽo. Đào tạo những đội ngũ truyền thông tung vào các tòa soạn viết bài định hướng theo mô hình tư bản, dùng truyền thông cộng sản đánh cộng sản, dùng truyền thông cộng sản tô hồng phương tây, tạo ra một tâm lý nghi kỵ trong lòng dân chúng.
CHIÊU BÀI “DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN”
Trước khi cuốn gói khỏi đất nước Việt Nam người mỹ đã tuyên bố một câu khá nỗi tiếng,và giờ họ đã và đang thực hiện được:
"Hai mươi năm sau chúng ta sẽ trở lại Việt Nam. Không phải với xe tăng, đại bác, chiến hạm hay pháo đài bay mà bằng xấp đô la. Khi đó, cờ Mỹ sẽ bay không chỉ ở Sài Gòn mà còn hiên ngang giữa lòng Hà Nội. Những gì bom đạn không thể làm được thì sức mạnh của đồng đô la sẽ giải quyết. Người Việt Nam sẽ đón chúng ta như những vị ân nhân".
Ba mũi giáp công đánh vào hệ thống xã hội nước ta đó là. Kinh Tế - Truyền Thông - và giáo dục. Kinh tế tăng các khoản viện trợ đầu tư, cốt làm sao đế cho người dân hiểu đó là giá trị cần hướng tới, đế có sự so sánh giữa hai mô hình. Truyền thông mở những lớp tập huấn báo chí theo tiêu chuẩn phương tây, sử dụng những cây bút những tờ báo biến chất đánh vào những điểm yếu của Đảng, làm suy giảm lòng tin của người dân qua cơ quan truyền thông sở tại. Về giáo dục viện trợ cấp học bổng, mở trường học tuyển chọn nhân tài đào tạo theo phương pháp chuẩn phương tây, tất nhiên sau khi ra trường những "tri thức" này sẽ phục vụ cho công cuộc tuyên truyền giá trị tư tưởng phương tây ngay đất nước mình. Cứ 10 sinh viên du học thì có 9 người ca ngợi mô hình giáo dục phương tây và lên án mô hình xã hội chủ nghĩa. Đây là lực lượng nòng cốt trong cuộc diễn biến hòa bình nhằm vào những nước mà phương tây xem là "độc tài thiếu dân chủ"./.
Yêu nước ST.

Phòng chống, đấu tranh thói ba phải và thái độ “im lặng đáng sợ”

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Trong đó có một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: "Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng những thiếu sót, khuyết điểm này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái kia, thậm chí là nơi trú ẩn, là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì vậy, phải đồng thời phân tích, chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục nó thế nào cho hiệu quả, để hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành, tin cậy, chân thành, vô tư trong mỗi cơ quan, đơn vị.

Xưa nay có nhiều cách nói về những người dĩ hòa vi quý. Nào là ông ba phải, gió chiều nào che chiều ấy. Nào là ông mũ ni che tai, khôn ăn người. Nặng nề hơn thì cho rằng đó là kẻ “ngậm miệng ăn tiền”. Thời hiện đại, còn có những cụm từ mới xuất hiện: “tai lành tai điếc”, “đi giữa hai hàng”...

Năm 1947, tại Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết cuốn “Sửa đổi lối làm việc”. Bác gọi những kẻ khôn ăn người như thế là “bọn thứ ba”. Đó là những kẻ cơ hội, là khôn mà không ngoan, làm gì cũng nghĩ đến cái lợi riêng mình mà quên đi lợi ích chung, quyền lợi của người khác. Thời nay, "bọn thứ ba" là người ta ám chỉ những người "dĩ hòa vi quý".

Thật ra thành ngữ “dĩ hòa vi quý” khởi thủy của nó là thiện ý tốt. Nôm na rằng, lấy hòa thuận làm vui. Chịu khó nhẫn nhịn một chút, hòa là quý, nhẫn là cao. Đừng vội nổi xung lên, phỉ báng, nhiếc móc nhau, bé xé ra to, mà nên “biến đại sự thành tiểu sự, tiểu sự thành vô sự”. Đúng như cái nghĩa ngọn nguồn này thì quá hay. Thế nhưng, theo thời gian, theo những diễn biến phức tạp trong đời sống hiện đại mà dần dần cái nghĩa của thành ngữ này bị hiểu chệch, hiểu sai, lắm khi chỉ còn được hiểu theo nghĩa đó là tính cách khôn lỏi, chả bao giờ nêu chính kiến, “tránh voi chả xấu mặt nào”, tránh mất lòng người khác, nhất là mất lòng cấp trên.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Trong đó có một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị là: "Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”. Thực tế thấy rằng những thiếu sót, khuyết điểm này đã được gọi đúng tên, cái nọ liên quan đến cái kia, thậm chí là nơi trú ẩn, là chỗ để ngụy biện cho những điều sai trái. Vì vậy, phải đồng thời phân tích, chỉ rõ biểu hiện, nguyên nhân và cách khắc phục nó thế nào cho hiệu quả, để hướng tới xây dựng một bầu không khí trong lành, tin cậy, chân thành, vô tư trong mỗi cơ quan, đơn vị.

"Ngậm miệng" tức là ngược lại với những anh hay phán xét, phách lối, a dua, nói năng văng mạng. Đương nhiên, cả hai thái cực này đều cần phê phán. "Ngậm miệng" mà là “một sự nhịn chín sự lành”, giữ kín chuyện nội bộ, khỏi tổn thương người khác thì hẳn là điều tốt. Cái nguy hại ở chỗ “ngậm miệng ăn tiền”, tức là đã có chủ ý xấu rồi. Ở một cơ quan nọ, mấy người bảo nhau, cái ông X lúc nào mồm cũng như rùa ăn sung, chả có chính kiến gì. Khi anh ta có ý kiến thì toàn dựa ý cấp trên, dựa ý tập thể, mong “làm rõ thêm” và “hy vọng rằng”. Còn khi cần nói rõ, vấn đề này sai chỗ nào, đúng chỗ nào, thái độ của anh, sẽ xử lý ra sao, thì anh ta sẽ “ném cát bụi tre” bằng những câu chữ mập mờ, nước đôi, đại loại như: "Cần tính toán thêm, nên hỏi lại cơ sở, vấn đề này nhạy cảm, có thể lùi đến phiên họp sau được không?". Hoặc có anh nói ráo hoảnh: “Tôi biểu quyết theo đa số”. Thế nhưng lúc giải lao thì vẫn là anh, rỉ tai người này, vỗ vai người khác: “Ông nói đi, ông nói khách quan hơn tôi. Tội cậu này đáng chém”. Hoặc: “Oan cho nó quá! Đồng chí gần nó lâu sao không nói. Sau này nó oán chúng ta”. Cái kiểu bày tỏ, vận động hành lang này đã cũ lắm, nhưng nó sống dai dẳng và biến ảo rất tinh vi. Nhất là từ khi nó được sự "phù phép" của chiếc điện thoại thông minh vốn chả có tội vạ gì.

Vì sao căn bệnh này tồn tại dai dẳng thế? Vì sao mà không ít cán bộ, trong đó có cán bộ cấp cao cũng mắc thói tai lành tai điếc. Thậm chí có vị chủ trì cuộc họp sắp diễn ra cũng “khó” nói sự thật, bèn nghĩ ra cách gọi điện cho cấp dưới: "Mai chú đề xuất nhé. Anh nêu 3 phương án, chú theo phương án này. Việc này là anh vì chú!". Nó khiến cho người trong cuộc trằn trọc, mất ngủ không đáng có. Nó là mảnh đất cho cái “cây” suy diễn nảy mầm, suy bụng ta ra bụng người, chủ quan và phiến diện.

Vì sao dai dẳng thế, còn là do thái độ cầu an. Nói ra lúc này thế nào đây, khen cũng chết, chê cũng chết. Đại hội đến nơi rồi, bầu bán sát gần rồi, mất phiếu có khi chỉ vì “lộ thiên cơ”, thế là đành trốn vào một cái tham luận vô thưởng vô phạt “mạnh bước trên đường phát triển”. Im lặng còn vì một thỏa thuận ngầm nào đó, lợi ích của tôi, của anh, của “nhóm tôi”, “nhóm anh”. Và người ta đã chọn im lặng.

Vì sao dai dẳng thế? Vì cái chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người, cái tôi lớn quá. Có khi là vì quá đam mê quyền lực, quá ham muốn về vật chất nên đánh mất mình. Quyền lực và danh vọng thường làm hư hỏng con người. Vụ Việt Á gần đây nhất, cái vô lương hoành hành trên nỗi đau khổ của đồng loại là một minh chứng rõ nhất. Có người rao giảng về đạo đức nhưng đã “im lặng” cho thuộc cấp, cho những đơn vị liên quan nhân danh khoa học vi phạm pháp luật.

Rất mừng là, bên cạnh những chuyện kể trên, có rất nhiều gương sáng quanh ta. Trong các cơ quan, đơn vị có rất nhiều những tấm gương sáng-tấm gương trung thực, dám nói thẳng, nói thật. Thấy đúng thì bảo vệ để khuyến khích người tốt, việc tốt, lên án những kẻ cơ hội, đố kỵ, thúc đẩy công việc hoàn thành. Thấy sai thì lên tiếng mạnh mẽ để làm rõ đúng sai, vạch trần tham nhũng, tiêu cực. Có những cán bộ quân đội, cựu chiến binh suốt mấy chục năm không chịu im lặng, kiên quyết đấu tranh vạch trần cái xấu, cái ác, mặc dù có thể nguy hiểm tới bản thân, gia đình. Như trường hợp cựu chiến binh Trần Văn Bính (sinh năm 1946), 20 năm kiên trì đấu tranh chống tham nhũng và cuối cùng đã thành công. Ông đã thẳng thắn nêu vấn đề tiêu cực ra trước Đại hội Đảng bộ phường Hoàng Liệt (quận Hoàng Mai, Hà Nội). Bị đe dọa, bị đánh trọng thương ông vẫn không lùi bước. Các cán bộ tiêu cực cũng không mua được sự “im lặng” của ông, dù họ trả “giá” rất cao. Thấy sai mà mình im lặng thì càng sai, ông Bính trả lời đơn giản như vậy.

Một câu hỏi đã có nhiều dịp được trả lời, rằng làm sao đây để chống được căn bệnh “điếc có chủ ý”? Xin thưa, chúng ta vẫn phải tiếp tục trả lời, vì thực tiễn luôn vận động, vì sự diễn biến phức tạp của tình trạng này. Thẳng thắn và trung thực, nói như vậy mà làm thì khó thay! Nhưng nhất định phải làm. Trước hết là phải xây dựng được khối đoàn kết, thật sự dân chủ trong sinh hoạt đảng và các tổ chức chính trị-xã hội. Người đứng đầu đơn vị phải thật sự gương mẫu, đề cao trách nhiệm cá nhân, phải có con mắt tinh đời để nhận ra ai chân, ai giả, ai tạm thời im lặng vì cái chung, ai “ngậm miệng ăn tiền”? Khi anh không nói ra, không hẳn mọi người không biết, vì còn có một nhân chứng nữa, đó chính là lương tâm anh. Và điều không bao giờ cũ: Nghiêm túc tự phê bình và phê bình để nội bộ thật sự đoàn kết, hiểu nhau, tin nhau, hướng đến những giá trị tốt đẹp, nhân văn, vì sự phát triển, vững mạnh của cơ quan, đơn vị; đồng thời cũng vì sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên./.


Không thể phủ nhận ý nghĩa và giá trị của phong trào thi đua yêu nước

75 năm sau khi ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11/6/1948-11/6/2023), tư tưởng Hồ Chí Minh về mục đích, nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả phù hợp với nhiệm vụ của từng giai đoạn dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn vẹn nguyên giá trị thời sự.

 Bất chấp sự xuyên tạc của các phần tử cơ hội, phản động, các thế lực thù địch thì sức sống và giá trị không thể phủ nhận của phong trào thi đua yêu nước trong những thập niên qua chính là minh chứng sinh động nhất bác bỏ những luận điệu phản động, bôi đen sự thật về thi đua yêu nước được tung lên mạng xã hội thời gian qua!

Thi đua yêu nước để gây “hạnh phúc cho dân”

Trong Lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11/6/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng:  Mục đích của thi đua là để “Diệt giặc đói, Diệt giặc dốt, Diệt giặc ngoại xâm” nhằm thực hiện “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Vì thế, để thi đua trở thành phong trào cách mạng của quần chúng, phát triển rộng rãi, sôi nổi, ăn sâu, lan rộng khắp về mọi mặt, thì “cách làm là dựa vào: Lực lượng của dân, Tinh thần của dân, để gây: Hạnh phúc cho dân” và “các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia công việc, Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, Đồng bào phú hào thi đua mở mang doanh nghiệp, Đồng bào công nông thi đua sản xuất, Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh, Nhân viên Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, Bộ đội và dân quân thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng”...

Sau lời kêu gọi thi đua yêu nước của Người, những năm sau đó (trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước) trên khắp mọi miền của Tổ quốc, các phong trào thi đua yêu nước không chỉ là động lực của sự phát triển, là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, mà còn là một nhân tố quan trọng góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Rất giản dị và ngắn gọn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng “công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua” và thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các tầng lớp nhân dân; là phát huy sự năng động, khả năng sáng tạo, tính tích cực, kỷ luật, tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước của mỗi người, mỗi tập thể để hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao, cho nên “thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua. Và những người thi đua là những người yêu nước nhất”.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, thì thi đua chính là động lực để phát huy lòng yêu nước và thông qua phong trào thi đua để bồi dưỡng, nâng cao lòng yêu nước, làm cho lòng yêu nước trở nên sinh động trong thực tiễn bằng chính suy nghĩ, hành động cụ thể, tích cực, sáng tạo của mỗi cá nhân, mỗi tập thể trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Vì thi đua “là một cách yêu nước thiết thực và tích cực” và yêu nước không chỉ là tình cảm thiêng liêng của mỗi người dân; luôn gắn liền với bổn phận, trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước, mà còn là một truyền thống quý báu của dân tộc, là một giá trị tinh thần, luôn luôn đồng hành cùng dân tộc trong hành trình dựng nước và giữ nước, cho nên “thi đua ái quốclà ích lợi cho mình, ích lợi cho gia đình mình và lợi ích cho làng cho nước, cho dân tộc”, chứ không phải là “lợi dụng công tác thi đua để thực hiện mục đích cá nhân”; là xuyên tạc tính tích cực và bản chất thi đua thành “ganh đua”, “tranh đoạt” như các thông tin xấu độc bôi đen sự thật.

Thực tế cũng cho thấy, điều đặc biệt để làm nên thắng lợi của các phong trào thi đua yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là “1. Thi đua ái quốc phải có phương hướng đúng và vững. Nghĩa là phải nâng cao lòng nồng nàn yêu nước và giác ngộ chính trị của mọi người. Yêu nước thì phải thi đua, thi đua tức là yêu nước. 2. Phải có kế hoạch tỉ mỉ. Kế hoạch ấy phải do từng đơn vị nhỏ, từng gia đình, từng cá nhân bàn bạc kỹ, hiểu biết thấu, vui vẻ làm. Nghĩa là phải sao cho mỗi nhóm, mỗi người tự giác tự động. 3. Nội dung của kế hoạch phải thiết thực, rõ ràng, đúng mực. Khi đặt kế hoạch phải tuyệt đối tránh sự sơ suất "đại khái", quá cao, phiền phức, miễn cưỡng. 4. Thi đua không nên thiên về một phía. Phải điều hoà 3 nhiệm vụ với nhau: Tăng gia sản xuất, công việc hằng ngày và học tập (chính trị, văn hoá, tình hình trong nước và thế giới). 5. Thi đua phải có sự lãnh đạo đúng. Trước khi thi đua phải chuẩn bị đầy đủ (giải thích, cổ động, xét kỹ kế hoạch mỗi nhóm, mỗi người). Trong lúc thi đua, phải thiết thực đôn đốc, giúp đỡ, sửa đổi. Sau đợt thi đua, phải thiết thực kiểm tra, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm, khen thưởng những người kiểu mẫu, nâng đỡ những người kém cỏi”… 

Đi liền cùng đó là phải làm tốt công tác tư tưởng, vận động, tuyên truyền để toàn dân hiểu rõ, tự nguyện, tích cực tham gia phong trào, vì “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý (...) Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước”. Trong quá trình triển khai thực hiện, phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền và các đoàn thể nhân dân để phong trào phát triển đúng mục đích, mục tiêu chung đã định theo đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc trên mọi chặng đường cách mạng. 

Vì thế, sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân; sự phát triển ngày càng sâu, rộng của phong trào thi đua yêu nước không chỉ chứng minh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dưới chế độ tư bản, thực dân và phong kiến quyết không thể có phong trào thi đua yêu nước” và “chỉ có dưới chế độ dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, dưới chế độ và nhân dân lao động làm chủ nước nhà, thì mới có phong trào thi đua” là đúng đắn, mà còn đồng thời cho thấy thi đua yêu nước theo chỉ dẫn của Người vừa thiết thực, dễ hiểu lại vừa sâu sắc, toàn diện, dễ đi vào cuộc sống, nên có sức quy tụ, hấp dẫn đông đảo quần chúng nhân dân. 

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc về thi đua yêu nước

Sự phát triển phong phú, đa dạng, thường xuyên, liên tục, thiết thực, hiệu quả của các phong trào thi đua yêu nước trong 75 năm qua không chỉ khẳng định rằng thi đua “là một cách yêu nước thiết thực và tích cực” chứ không phải là “tranh giành” mà còn “là một cách rất tốt, rất thiết thực để làm cho mọi người tiến bộ. Thi đua giúp cho đoàn kết chặt chẽ thêm. Và đoàn kết, chặt chẽ để thi đua mãi. Vì vậy, thật thà tự phê bình và thân ái phê bình là một lực lượng để đẩy mạnh thi đua”. Thi đua là đoàn kết vì mục tiêu chung, chứ không phải là sử dụng các “mánh khóe và thủ đoạn” dẫn đến “phá nát xã hội”; là “tìm cách triệt hạ người khác, hay ít nhất là bước lên đầu nhau mà sống” và như các luận điệu phản động bịa đặt, bôi đen.

Thực tế, hiểu một cách ngắn gọn nhất thì thi đua là cùng nhau đem hết tài năng, sức lực của con người để không chỉ “đua nhau làm” mà còn “nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong một lĩnh vực hoạt động nào đó”. Đó là hoạt động sáng tạo, tích cực của mỗi con người, của từng tổ chức, địa phương, cơ quan đơn vị trên mọi lĩnh vực của cuộc sống (lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu…); “là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (khoản 1 Điều 3) và “nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Điều 5) của Luật Thi đua, khen thưởng 2003 (sửa đổi 2005, 2013). Vì thế, thi đua là một trong những biểu hiện của lòng yêu nước, của tinh thần, ý chí và sự nỗ lực, hy sinh phấn đấu của mỗi người dân vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, chứ không phải vì “sự khốc liệt trong cạnh tranh để đạt thành tích chứ không phải ở mục đích tạo ra giá trị bằng việc phát triển năng lực nhiều mặt của con người”; lại càng không phải là thi đua yêu nước “phá hủy từng con người, biến họ thành những kẻ xấu từ trong động cơ cho đến việc làm”; đồng thời, làm cho môi trường công tác, xã hội trở nên “ngột ngạt, gian dối, tiểu xáo, kèn cựa, đấu đá”, dẫn đến “làm mục ruỗng xã hội từ bên trong bởi sự xuống cấp trông thấy mỗi ngày”.

Thực tế cũng cho thấy, các phong trào thi đua yêu nước từ: “Diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”; “Bình dân học vụ”; “Hũ gạo kháng chiến”; “Chiến sĩ ở trước mặt trận thi đua giết giặc lập công, đồng bào ở hậu phương thi đua tăng gia sản xuất”; “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”; “Ba nhất” trong Quân đội; “Gió Đại Phong” trong nông nghiệp; “Sóng Duyên Hải” trong công nghiệp; “Hai tốt” trong ngành giáo dục; “Ba sẵn sàng” và “Năm xung phong” trong thanh niên; “Ba đảm đang” trong phụ nữ; “Thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công”, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” hay “Mỗi người làm việc bằng hai, vì miền Nam ruột thịt”… cho đến “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; “Cựu chiến binh gương mẫu” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Thi đua Quyết thắng”, “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong quân đội; “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Công an nhân dân học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy”, “Xây dựng phong cách người Công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ” trong Công an hay “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”… lan tỏa sâu rộng từ Trung ương đến địa phương, ở tất cả các cấp, các ngành; trên khắp mọi miền của Tổ quốc trải dài từ sau ngày 2/9/1945 đến nay. Những phong trào nêu trên đã minh chứng: Thi đua yêu nước không chỉ trở thành động lực quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, mà còn được nâng lên một tầm cao mới, mang hơi thở của thời đại mới.

Bản chất của thi đua là yêu nước, nên khi đã hiểu rõ kế hoạch, mục đích, nội dung cách thức thi đua thì mỗi cá nhân, tập thể sẽ cùng nhau đoàn kết, nỗ lực phấn đấu để vượt qua mọi khó khăn; là “làm phát triển tinh thần đoàn kết giữa tất cả các tầng lớp nhân dân”; là thực hiện tự phê bình và phê bình nghiêm túc để sửa chữa tất cả mọi khuyết điểm, “cải tạo con người”… Vì thế, việc viện dẫn một ví dụ về thi đua trong ngành giáo dục hay cho rằng các phong trào thi đua yêu nước hiện nay chỉ là hình thức, qua loa, chạy theo số lượng phong trào, thậm chí là cào bằng, không thực chất hay là “chạy thi đua bằng mọi cách có thể”, vì “thi đua gắn chặt với quyền lợi của mỗi người về mọi mặt, từ vật chất, thăng tiến, đến cả sự yên ổn, an toàn” nên “sinh ra cạnh tranh, tị hiềm, đấu đá, ghen ghét, phá vỡ quan hệ tốt đẹp giữa các đồng nghiệp” là bẻ cong sự thật, là suy diễn mang tính chủ quan của các phần tử phản động. 

Trên thực tế, thi đua không chỉ giúp cho mọi người tiến bộ mà còn làm tăng cường tình đoàn kết, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; không chỉ “đoàn kết chặt chẽ để thi đua mãi” mà còn cổ vũ, phát huy sức sáng tạo, lòng nhân ái, vẻ đẹp tâm hồn, tình đoàn kết của người Việt trong thời đại mới. Vì thế, thi đua yêu nước không phải là “phá vỡ” tình người, là “làm hỏng đi sự kết nối lành mạnh giữa người với người” và “gây ra những bức xúc ngầm” trong nội bộ. Cùng với đó, việc một số người nhân danh dân chủ, “chuộng dân chủ tư sản” cho rằng thi đua ở Việt Nam không phải là tự nguyện mà là “bắt buộc phải làm”, nên “thi đua là con đẻ của nỗi sợ hãi tự do” và mang các phong trào thi đua yêu nước so sánh với phương Tây, với việc lý giải rằng “họ không có thi đua, không ai phải thi đua với ai để tồn tại cả” mà vẫn phát triển không ngừng với nhiều phát minh, sáng chế, các thành tựu mọi mặt về khoa học, nghệ thuật… cũng chỉ là sự suy diễn một chiều.

Ở Việt Nam, thi đua yêu nước là để phấn đấu vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc; là để nhằm “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, cho nên các phong trào này luôn nhận được sự hưởng ứng rộng khắp, sôi nổi của các tầng lớp nhân dân. 

Những thập niên gần đây, các phong trào thi đua yêu nước gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, với các cuộc vận động do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, với việc triển khai Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" và Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" trong cả hệ thống chính trị và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cùng Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương… ngày càng được tổ chức và thực hiện sáng tạo, linh hoạt với các nội dung cụ thể, thiết thực, hình thức phong phú trên mọi lĩnh vực, trên khắp mọi miền của Tổ quốc. 

Thi đua yêu nước là một phong trào cách mạng rộng rãi, thiết thực được lãnh đạo, chỉ đạo bởi các cơ quan, ban, ngành chức năng; được tổ chức thực hiện theo kế hoạch, với các hình thức phù hợp trong cả hệ thống chính trị, chứ không phải là “đặt sự vận động của xã hội trên nền của sự hơn thua giữa các cá nhân”; là sự “ganh đua” để “triệt hạ người khác” vì thành tích như các phần tử cơ hội, phản động, các thế lực thù địch xuyên tạc./.

Bệnh sính bằng cấp - cần điều trị từ gốc rễ

Nhiều ý kiến đa chiều, nhưng bao trùm vẫn là luồng ý kiến bày tỏ sự băn khoăn trước nạn “chạy bằng cấp” và hiện thực có phần vô lý về việc phải “lo” bằng cấp một cách hình thức, mà ít chú trọng đến năng lực thật của cán bộ trong quá trình đánh giá, sử dụng.

Chạy đua... bằng cấp?

Mới đây, một cán bộ nọ “ới” tôi qua điện thoại: “Cuối tuần, đồng chí phải sắp xếp về liên hoan với tôi nhé. Tôi vừa tậu thêm một cái bằng đỏ au nữa rồi đấy!”.

Nói rồi, anh kể về quá trình vừa học, vừa làm của mình. Vất vả, gian nan lắm, nhưng phải cố gắng theo đuổi đến cùng để có cái bằng không thể thiếu trong tiêu chí bổ nhiệm cương vị mới.

Câu chuyện tương tự như trên giờ diễn ra khá phổ biến, như thể cán bộ đang phải chạy đua kiếm tìm bằng cấp. Bởi lẽ, nếu cán bộ không sớm lên kế hoạch, tranh thủ thời cơ đi học cho đầy đủ bằng cấp thì dù có năng lực, thậm chí là có tài năng thì vẫn rất dễ rơi vào nguy cơ “giậm chân tại chỗ”. Hơn thế, có thêm bằng cấp, chứng chỉ là thêm phần danh giá, như thể con người ta được cộng đồng, tổ chức, dòng họ coi trọng hơn. Chính cái tâm lý xã hội ấy và tình trạng đề cao tiêu chí về bằng cấp, đã biến không ít cán bộ, đảng viên, công chức trở thành “nạn nhân” trên dặm dài kiếm tìm, chinh phục các loại bằng cấp, chứng chỉ. Ai cũng háo hức đi học, hoặc “ngậm đắng nuốt cay”, khắc phục mọi khó khăn để “theo nghiệp đèn sách”, đặng lấy được những loại giấy tờ để làm... tiền đề cho danh vọng. Cùng với đó là hệ lụy về nạn "chạy bằng", mua bằng, làm bằng cấp giả... gây nhức nhối xã hội; hay tình trạng cán bộ đua nhau ra nước ngoài “tìm kiếm bằng cấp”, dẫn đến một thực tế là hàng chục nghìn văn bằng quốc tế chưa đủ, hoặc không đủ điều kiện được công nhận, mặc dù người học đã bỏ ra chi phí rất lớn để sở hữu tấm bằng này.

Thực tế cho thấy, học là việc thiết yếu đối với mỗi con người nói chung, cán bộ nói riêng. Nó giúp cán bộ bồi đắp kiến thức, làm giàu tri thức, từ đó mà nâng cao năng lực, kỹ năng công tác, tạo thêm những giá trị nhân cách làm người, làm cán bộ. Và, theo ý nghĩa đích thực, tích cực thì bằng cấp là sự xác nhận có tính chất pháp lý, động lực phấn đấu cần thiết của các cá nhân trong quá trình tích lũy, học tập, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Thế nhưng, nếu nhầm tưởng giữa việc học với việc thực hiện mục tiêu lấy bằng cấp; lẫn lộn giữa cái đích học để tiến bộ với học để tạo cái danh hão, cái vỏ bọc để tiến thân thì đó quả là một sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng!

Trong thực tiễn, có không ít cán bộ dù không nhiều bằng cấp nhưng sự trải nghiệm từ thực tiễn công tác, đúc rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc đã giúp họ trở thành những nhân tài của đất nước. Họ lăn lộn vào thực tiễn và được thực tiễn rèn giũa, kiểm nghiệm. Cũng qua đó, họ trở thành các cán bộ xuất sắc vì được học ở đồng đội, ở nhân dân, học qua công việc được giao trên cơ sở nền tảng lý luận cơ bản. Thế nhưng đáng buồn là hiện nay vẫn còn những cán bộ tài năng, đức độ, được đồng đội, đồng nghiệp nể phục, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tổ chức đoàn thể giao phó, nhưng vì nhiều lý do khác nhau lại không có điều kiện bảo đảm các tiêu chuẩn, tiêu chí về bằng cấp, chứng chỉ nên buộc phải “an phận” với những vị trí công tác không hề tương xứng. Bấy giờ, không ít ý kiến thẳng thắn, bày tỏ tiếc nuối: Đáng ra đồng chí ấy phải phát triển cao hơn; đáng ra tổ chức phải trọng dụng anh ấy. Đó là một sự lãng phí về nguồn lực con người.

Nói đến đây, chúng ta có thể liên tưởng về việc áp đặt tiêu chí bằng cấp chẳng khác gì một “chiếc còng”, vô tình trói buộc chính đội ngũ cán bộ. Thế nhưng trong thực tế, nhiều cán bộ chỉ dám rỉ tai nhau, chứ chưa dám thể hiện chính kiến, đề xuất với cấp có thẩm quyền về việc phải sớm nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh các quy định một cách phù hợp. Thậm chí, nhiều cán bộ còn "mũ ni che tai", chấp nhận hiện tượng sính bằng cấp một cách đầy nghịch lý.

Việc trọng bằng cấp là một trong những nguyên nhân khiến hiện tượng dùng bằng giả và "chạy bằng cấp" đã và đang nở rộ; trở thành biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống được Ban Chấp hành Trung ương xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII. Không ít câu chuyện về bằng cấp của cán bộ gây nhức nhối dư luận và tạo ra gam màu tối trong xã hội. Từ nguồn tin của quần chúng và qua thanh tra, kiểm tra, các cơ quan, tổ chức đã phát hiện nhiều người sử dụng bằng giả để được tuyển dụng vào cơ quan nhà nước, được thăng quan tiến chức, “leo cao, chui sâu” vào hệ thống chính trị. Với vi phạm này, nhiều cán bộ đã bị cách chức, giáng chức, buộc chuyển công tác và bị xử lý kỷ luật một cách nghiêm khắc; nhưng xem ra việc giải quyết thực trạng này mới ở phần ngọn. Vì vậy, việc chống tư duy sính bằng cấp, hành vi "chạy bằng", làm bằng giả cần phải có biện pháp có tính toàn diện, giải quyết vấn đề từ gốc rễ; mà trước hết phải bắt đầu từ việc sớm thay đổi tư duy, cung cách ứng xử của con người đối với bằng cấp.

Phải làm theo lời dạy của Bác Hồ

Chuẩn hóa tiêu chí bằng cấp đối với các chức danh cán bộ là việc phải làm, đây cũng là giải pháp quan trọng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp và đáp ứng yêu cầu cao về trình độ, năng lực. Thế nhưng, nếu cứ xơ cứng áp đặt, mặc định bằng cấp, chứng chỉ là tiêu chí duy nhất bất biến thì vô hình trung, chúng ta đang tự tạo ra những hệ lụy, đi ngược lại với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc trọng dụng, sử dụng cán bộ.

Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cố nhiên không coi nhẹ bằng cấp, Người chỉ phê bình thói chuộng bằng cấp, học “chỉ thích đỗ đạt bằng cấp” để “thăng quan tiến chức” mà không phải “học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, “học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Hồ Chí Minh cũng từng nhiều lần răn dạy đại ý: nên bỏ tư tưởng không đúng, khinh lao động chân tay, chỉ trọng lao động trí óc, nên bỏ tư tưởng học văn hóa để tìm bằng cấp.

Theo Bác, chạy theo bằng cấp là một trong những tàn dư của chính sách giáo dục thực dân phản động. Trong thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng Hà Nội, ngày 31-10-1955, Bác căn dặn: Trước hết phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại, như: Thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân; học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ.

Trong thực tiễn, việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ của Bác chưa bao giờ lấy bằng cấp làm tiêu chí căn bản; thậm chí nguyên tắc lựa chọn và sử dụng cán bộ của Hồ Chí Minh không hề có yếu tố “bằng cấp”. Điển hình nhất trong cách dùng cán bộ của Bác là trường hợp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Daniel Roussel (năm 1992), Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “... Tôi được gặp Hồ Chủ tịch lần đầu tiên ở Trung Quốc năm 1940. Chính ở đó, một hôm Người đã đề nghị tôi nghiên cứu vấn đề quân sự. Tôi đã trả lời Bác là tôi quen cầm bút hơn cầm kiếm. Tôi đã nói nguyên văn như vậy... Hồ Chủ tịch trao cho tôi nhiệm vụ phát triển phong trào Việt Minh ở vùng Cao Bằng. Và Người nhắc lại, tôi phải chịu trách nhiệm về vấn đề tổ chức quân sự”. Cũng từ đó, một cán bộ từng là giáo viên dạy lịch sử, một nhà báo, không có bằng cấp cao về quân sự, đã từng bước trở thành vị tướng lừng danh của dân tộc và thế giới.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng và noi theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải chăng đã đến lúc chúng ta cần có tư duy, nhận thức đúng về vị trí, vai trò của bằng cấp, chứng chỉ. Quả đúng là bằng cấp phần nào thể hiện trình độ kiến thức, tư duy, trí tuệ, năng lực của mỗi người và đó là một trong những tiêu chí quan trọng để cơ quan có thẩm quyền thêm căn cứ đánh giá, tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ. Tuy vậy, bằng cấp chỉ có giá trị khi người sử dụng phải được học hành, đào tạo nghiêm túc với một lượng kiến thức, trình độ, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ đã được quy chuẩn và luật hóa theo quy định. 

Để phòng ngừa, trị bệnh "chạy bằng", sính bằng cấp, trong quá trình tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ, nên xác định tiêu chí bằng cấp là điều kiện cần, chứ không phải là tiêu chí quan trọng nhất. Tuyển dụng, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải thông qua công tác sát hạch, kiểm tra một cách nghiêm túc, thực chất, khách quan, công bằng, minh bạch để tìm kiếm, lựa chọn những cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức trong sáng, có năng lực toàn diện để bố trí vào cương vị tương xứng. Trên thực tế, rất nhiều cán bộ dù không có nhiều bằng cấp, thậm chí là bằng cấp không cao nhưng vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, họ trở thành những điển hình tiêu biểu trong sự nghiệp cách mạng, được quần chúng yêu mến, kính trọng; được tổ chức ghi nhận, tín nhiệm bầu, đề cử lên các chức vụ chủ trì, chủ chốt trong hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước.

Vì thế, các cơ quan, tổ chức, cán bộ cần sớm nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí khoa học để đánh giá thực chất trình độ, trí tuệ, năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ, công chức, làm cơ sở để tuyển dụng, bổ nhiệm. Trong đó, việc xác định bằng cấp là một tiêu chí không thể thiếu, nhưng không vì thế mà xơ cứng, áp đặt theo lối: Nếu không có bằng cấp thì không thể cân nhắc bổ nhiệm, sử dụng, trọng dụng cán bộ.

Nhận diện “comment bẩn” từ thực tiễn online

Lợi dụng mặt trái của mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình tán phát các thông tin xấu độc, không đúng sự thật lên không gian mạng, rồi tạo ra các bình luận nhằm lôi kéo, kích động cộng đồng mạng tham gia, thành lập các hội, nhóm tự phát để bàn tán, chỉ trích, xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín người khác.

Mục tiêu của họ là gieo rắc các nhận thức sai lầm, tâm lý hoài nghi, tâm trạng bất an, bức xúc trong xã hội và cộng đồng; ngấm ngầm kích động các tư tưởng bất tuân, chống đối luật pháp, chuẩn mực xã hội, cộng đồng; xúi giục các hành vi bạo loạn, bạo lực... Nhiều người gọi đây là những “comment bẩn”.

Nguy hại "comment bẩn"

Trên thực tế, “comment bẩn” có khá nhiều dạng. Dạng dễ nhận thấy nhất là những comment tục tĩu. Những “comment bẩn” dạng này thường là những lời nói bậy bạ, vô văn hóa, văng tục, chửi thề, song thường thì câu từ không có nhiều ý nghĩa cụ thể mà chỉ nhằm mục đích a dua phá hoại. Loại này có thể dễ dàng gặp ở những diễn đàn không có người quản lý trực tiếp (admin) hoặc những trang mạng có bộ lọc ngôn từ không cao. Tuy nhiên, số lượng comment loại này thường rất nhiều nên dễ vượt quá sự kiểm soát.

Dạng “comment bẩn” thứ hai tinh vi hơn, dễ lọt lưới kiểm soát hơn vì nhìn thoáng qua tưởng chừng vô hại. Những kẻ thường xuyên tung “comment bẩn” dạng này bỏ thời gian để theo dõi xem những người còn lại trong diễn đàn đang nói về điều gì để bắt lỗi, chất vấn... những bình luận này thường gay gắt hơn mức bình thường. Người đưa ra bình luận luôn sẵn sàng đối đáp kịch liệt với “chủ thớt” (cách gọi của cư dân mạng để chỉ người lập ra topic) để chứng minh nhận xét của mình, cứ như vậy sẽ tạo nên làn sóng lan truyền trên mạng.

Dạng “comment bẩn” thứ ba là những comment do chính “chủ thớt” nêu ra để làm chủ đề bàn luận cho cư dân mạng tham gia hoặc mượn một topic nào đó và đưa ra nhận xét, bình phẩm, đánh giá của mình, từ đó lôi kéo, kích động người khác cùng bình luận nhằm đạt được ý đồ. Dạng “comment bẩn” này thường được dựng lên có chủ đích rõ ràng, có thể vì mục đích chính trị, kinh tế, xã hội... Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến dạng “comment bẩn” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội, truyền thông xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, xúc phạm danh dự các vị lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội...

Những người thực hiện thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên họ thực hiện ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Đối tượng họ hướng đến là các lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và những người có vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hoặc cán bộ, đảng viên thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Dạng thức phổ biến là: Xuyên tạc, bịa đặt về lịch sử thân thế, sự nghiệp; xúc phạm đời tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ xã hội... Để tăng hiệu quả, họ thường tung thông tin này vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: Những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp...

Ngoài ra, họ còn mượn một hiện tượng, một cá nhân cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất bị pháp luật nghiêm trị để đánh tráo khái niệm, quy chụp, đánh đồng thành bản chất chế độ xã hội, bản chất của Đảng và Nhà nước. Chỉ cần một hành động, một câu nói nào đó của cán bộ, đảng viên cũng bị họ phân tích, mổ xẻ, xuyên tạc ở nhiều góc độ để thêu dệt thành những câu chuyện thị phi rùm beng. Thậm chí, họ còn cố tình dàn dựng những “cạm bẫy” nhằm kích động, làm cho những cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm, mất kiềm chế trong những tình huống cụ thể để tổ chức quay phim, chụp hình rồi cắt ghép, chỉnh sửa, thêu dệt thành những câu chuyện gây bức xúc trong “dư luận”. Hơn thế nữa, họ còn rất thạo các cách thức để thổi phồng sự việc, để thu hút người theo dõi, tạo điểm nóng trong “dư luận”. Từ một hành động nhỏ chưa phù hợp của một cán bộ, đảng viên nào đó, họ có thể "vẽ" thành một bức tranh toàn cảnh về đạo đức, lối sống, về nghệ thuật xã giao, văn hóa công vụ... của cả một cơ quan, đơn vị, của Đảng, của xã hội rồi đem so sánh với các nước khác, bất chấp sự khập khiễng. Nguy hiểm hơn, để hướng dư luận theo mưu đồ của mình, họ chặn hoặc loại bỏ những bình luận trái chiều, ý kiến đấu tranh của những người có chính kiến để tạo nên dạng thông tin một chiều có lợi cho mục đích chống phá.

Không khó để nhận ra đây là những thủ đoạn của hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Bởi vì, thủ đoạn dù có tinh vi đến đâu, xảo quyệt thế nào thì bản chất cũng chỉ là chiêu trò “bình mới, rượu cũ”. Vấn đề đặt ra ở đây là đã có không ít người dân vì tính hiếu kỳ, nhận thức đơn giản, phiến diện, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ vô tình hoặc cố ý tham gia “góp ý” rất sôi nổi tạo nên một “làn sóng” lan truyền nhanh chóng với hàng nghìn, thậm chí hàng triệu “comments”, qua đó giúp cho các thế lực thù địch, phản động đạt được ý đồ chống phá. Vậy làm thế nào ngăn chặn là câu hỏi đặt ra cấp thiết đối với các cơ quan hữu quan, các ban, ngành và cả những người tham gia mạng xã hội.

Làm thế nào để ngăn chặn "comment bẩn"?

Thứ nhất, đối với các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước và các chủ thể quản lý pháp luật về an ninh mạng: Cần chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường các biện pháp giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân về pháp luật, nhất là Luật An ninh mạng; các chỉ thị, quy định về cung cấp, phát triển, sử dụng các nền tảng mạng xã hội; ý thức, trách nhiệm và những nguyên tắc khi tham gia các nền tảng mạng xã hội của người dân. Hoàn thiện các quy định về quản lý thông tin trên mạng xã hội; tập trung nghiên cứu xây dựng luật về quản lý thông tin trên mạng, Luật An ninh mạng để có thể tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng và quản lý tốt mạng xã hội.

Các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội thực hiện nghiêm túc Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng xã hội lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức cần phải có trách nhiệm pháp lý với các thông tin đưa lên mạng xã hội nhằm hạn chế tối đa những phát ngôn “vô tội vạ”, xâm phạm đời tư, hạ thấp uy tín, bôi nhọ danh dự của cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản thực hiện Luật Báo chí, trong đó chú trọng việc nâng cao vai trò định hướng thông tin của các cơ quan báo chí chủ lực, tích cực, chủ động phê phán, phản bác thông tin xấu, độc trên mạng xã hội để góp phần khắc phục những mặt trái của truyền thông xã hội.

Thứ hai, đối với các chủ thể cung cấp mạng xã hội: Các nhà cung cấp, khai thác dịch vụ mạng, nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện rõ sự hợp tác và tuân thủ các quy định khi vào hoạt động tại Việt Nam, như: Đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh, các topic cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm các cá nhân, tổ chức, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật... Đồng thời, cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng.

Thứ ba, đối với các cơ quan quản lý, giám sát các phương tiện truyền thông: Cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội, thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị. Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan và của cả hệ thống chính trị để xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, gây hại như: Lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán phát tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước trên internet, mạng xã hội...

Tăng cường các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, bóc gỡ, loại bỏ những thông tin độc hại, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Việt Nam. Đây là biện pháp rất cần thiết và hữu hiệu trong bối cảnh hiện nay. Các đơn vị chuyên trách về an ninh mạng cần kịp thời hỗ trợ với các tổ chức, cá nhân khi phát hiện dấu hiệu “lỗ hổng” bảo mật và cả khi bị tội phạm tin học tấn công để khắc phục và tạo lập môi trường mạng lành mạnh, trong sạch để người dùng yên tâm khi sử dụng mạng xã hội phục vụ nhu cầu chính đáng của cá nhân, tổ chức.

Thứ tư, đối với người tham gia mạng xã hội: Khi tham gia môi trường mạng, các “cư dân mạng” nên lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về các hoạt động xã hội, hoạt động vì cộng đồng, phê phán những thói xấu, biểu hiện lệch lạc, hướng tới thông điệp nhân văn, xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội thanh lịch, văn minh. Đồng thời, cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng ngôn ngữ lai căng, tục tĩu, có tính bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được kiểm chứng. Đặc biệt, không được lập nhóm, hội để nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm người khác hoặc công kích lẫn nhau; không “vào hùa” theo đám đông khi chưa hiểu rõ về vụ việc hoặc không có căn cứ. Trong quá trình đăng tải các thông tin, các cư dân mạng không đăng những thông tin bịa đặt, thông tin vi phạm pháp luật; không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản. Các “cư dân mạng” cần nắm rõ và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng. Trên cơ sở đó, mỗi người cần biến tài khoản mạng xã hội của mình thành một kênh thông tin lành mạnh và thực hiện truyền thông xã hội trên tinh thần trách nhiệm cộng đồng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình, phản bác... những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Khi tham gia mạng xã hội, các “cư dân” cần trang bị các kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin. Việc người dùng nâng cao "sức đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên mạng xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc./.