Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Dương Quảng Châu - Chiến sĩ quân báo mưu trí, dũng cảm

 

Đồng chí Dương Quảng Châu (bí danh Dương Ngọc Chiến), sinh năm 1929, quê ở xã Quảng Châu, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên.

Trước Cách mạng Tháng Tám do hoàn cảnh thiếu đói, gia đình Dương Quảng Châu phải bỏ làng lên Thái Nguyên làm ruộng thuê. Từ nhỏ đồng chí đã phải sống cuộc sống khó khăn, vất vả để mưu sinh.

Năm 1948, đồng chí nhập ngũ, tham gia vào bộ đội địa phương, sau chuyển sang bộ đội chủ lực. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, suốt 5 năm chiến đấu, đồng chí đã tham gia các chiến dịch từ Chiến dịch Biên giới đến Chiến dịch Điện Biên Phủ. Với cương vị là một chiến sĩ quân báo, đồng chí luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, điều tra tỉ mỉ, cụ thể, gặp địch là chủ động kiên quyết tấn công và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Năm 1949, một mình đồng chí vào trinh sát bốt Bồng Lai, Hạ Trì (Hà Đông). Trong suốt 3 ngày bị địch bao vây, nhịn đói vẫn không nản, đồng chí đã khéo léo giả làm phu để lọt vào bốt trinh sát rồi tìm cách thoát ra trở về đơn vị báo cáo.

Chiến dịch Biên giới năm 1950, trên đường từ Thất Khê về Khâu Lương gặp tàn binh địch trốn trong rừng, đồng chí đã tổ chức anh em bao vây, vừa nổ súng uy hiếp, vừa gọi hàng bắt sống được 4 tên.

Năm 1953, đơn vị giao nhiệm vụ điều tra bốt Thái Đào, Bắc Giang, Dương Quảng Châu chỉ đạo một mũi, luồn lách vượt qua hai con đường thường xuyên có lính tuần tra, một con sông Máng và 11 hàng rào vào sát tận nơi điều tra nắm bắt tình hình.

Cuối năm 1953, trên đường truy kích địch ở Mường Ngòi. Đồng chí chỉ huy một tiểu đội vượt sông truy đuổi địch, tổng cộng trong ngày hôm đó đồng chí đã 9 lần dẫn đầu tiểu đội đánh tan một tiểu đoàn địch. Khi hết đạn đồng chí đã lấy súng địch và tiếp tục truy lùng những tên còn đang lẩn trốn.

Một lần khác ở Nậm Bạc, tiểu đội đồng chí truy kích địch từ sáng đến gần tối, anh em vừa dừng lại ăn cơm thì 4 tên địch đột nhiên xuất hiện. Tên đi đầu giương súng định bắn, nhanh như cắt đồng chí đã gạt được khẩu súng và dùng dao găm đâm chết tại hắn, 3 tên còn lại hốt hoảng xin hàng.

Hôm sau, tổ đồng chí đang chuẩn bị đánh Nậm Ngà thì một đại đội địch ập đến xả súng bắn ngay Đồng chí chỉ huy anh em nấp vào các gốc cây bắn trả quyết liệt và đã tiêu diệt được phần lớn lực lượng của địch. Cùng lúc đơn vị ở phía sau vận động lên bao vây địch, lợi dụng lúc địch nhốn nháo đồng chí nhảy ra bắt sống một tên rồi gọi hàng được 46 tên, thu 43 súng.

Trong trận đánh lấn tiêu diệt cứ điểm 206 vào giai đoạn hai của Chiến dịch Điện Biên Phủ, bắt đầu từ đêm 15-4-1954. Khi chiến hào của Trung đoàn 36 đã vươn dài ước chừng 300 mét thì địch phát hiện được và bắt đầu đối phó. Chúng dùng pháo binh, súng cối bắn chặn. Khi quân ta đã vượt qua được tầm pháo cối của địch, chúng lại dùng những ổ đại liên bắn đan đi đan lại trên đầu hào ngoài cùng. Phải kiên quyết đào bằng được chiến hào để tiêu diệt cứ điểm gác cửa sân bay Mường Thanh, tiến tới cùng đơn vị bạn hoàn toàn cắt đứt cái dạ dày của địch ở Điện Biên Phủ...

Sáng 19-4-1954, trận địa của Trung đoàn 36 hình thành ba mũi đều đã cắm sát gần hàng rào cứ điểm 206.

Đờ Cát vừa mới vui mừng vì được phong lên thiếu tướng thì lại lo méo mặt trước số phận bi thảm trước mắt. Nếu để mất 206 tức là sẽ mất toàn bộ sân bay. Ông ta lập tức điện cho chỉ huy Đại đội lê dương số 4 đóng trong cứ điểm phái một trung đội ra lấp chiến hào. Đồng thời ông ta cũng ra lệnh cho hai xe tăng và hai trung đội bộ binh vượt qua sân bay tiến ra phối hợp, dưới sự yểm hộ của pháo Mường Thanh và Hồng Cúm.

Sau nửa giờ chiến đấu, chúng đã chiếm được chừng 50 mét. Những tên lính lê dương hùng hục dùng xẻng cuốc, thuốc nổ lấp chiến hào của quân ta. Lúc này Dương Quảng Châu và tiểu đội quân báo cùng một trung đội bảo vệ trận địa thuộc Đại đội 395 đã anh dũng bám chặt những đoạn hào phía sau, đánh trả địch rất quyết liệt. Một quả pháo nổ gần làm Dương Quảng Châu bị thương gãy chân, không đi lại được, nhưng anh vẫn nằm tại chỗ bình tĩnh giao nhiệm vụ cho tổ và động viên anh em chiến đấu, giữ vững trận địa...

Chiều hôm ấy, bọn lính lê dương trong cứ điểm 206 ngao ngán tuyệt vọng nhìn những đường hào đã cắt đứt mọi mối liên lạc của chúng. Đêm 22-4, nắm vững ý đồ của cấp trên, không để lỡ thời cơ, các mũi của Trung đoàn 36 lập tức tiến công. Mặc dù mỗi mũi lúc đó chỉ có một phân đội nhỏ, cả ba mũi cùng đánh thốc vào tung thâm. Sau 15 phút chiến đấu, trung đoàn kịp thời đưa vào thêm hai trung đội. Được tiếp sức, các mũi nhanh chóng tiến công, chia cắt quân địch. Chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ toàn bộ cứ điểm 206 bị tiêu diệt.

Với những chiến công và thành tích xuất sắc, ngày 7-5-1956, đồng chí Dương Quảng Châu được Đảng, Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Huân chương Quân công hạng Ba.

Quân báo trinh sát và tấm bản đồ 1:25.000

 Trở lại với yêu cầu cần phải có bản đồ quân sự để nghiên cứu, chuẩn bị cho tác chiến. Tổ trinh sát luồn sâu do đồng chí Trần Phận - Phân đội phó dẫn theo 6 đồng chí mang theo lương thực lên đường. Đêm thứ nhất, tổ vượt núi, ra đến gần sông Nậm Rốm thì bị phục kích phải quay về. Cách một đêm, đến đêm thứ ba, tổ tiềm nhập lại lên đường. Lần này trót lọt vượt sang phía Tây, anh em đã lên một mỏm đồi gần bản Hồng Lếch để quan sát theo dõi, sau đó chuyển xuống lạch suối chảy qua Nà Noong. Tại đây, hai bên um tùm rậm rạp, tiện cho việc ém quân, tiềm nhập vào Mường Thanh và sân bay. Cứ ban ngày quan sát theo dõi địch thả dù, đêm lại tiềm nhập. 

Quan sát thấy địch thả dù nhiều, trong đó có một dù màu đỏ không phải dù hoa như các dù khác. Anh em trinh sát nghĩ ắt hẳn phải có gì đặc biệt. Đến đêm tiềm nhập vào sân bay tìm dù đỏ, anh em lùng sục thấy rất nhiều hàng mà chúng chưa kịp dỡ, tìm mãi mới thấy cái dù đỏ, hàng còn nguyên gồm hai hòm sắt và một hòm gỗ nặng. Anh em thu hai hòm sắt và hòm gỗ về vị trí ém quân, lấy bạt che kín rồi lấy dao găm cạy hòm gỗ, trong có gạo và nước mắm; cạy đến hai hòm sắt thì thấy từng cuộn bản đồ và giấy ảnh đã rửa. Mặc dù chưa biết những cuộn bản đồ này có giá trị như nào, nhưng theo phán đoán của lính trinh sát đã là bản đồ thì ắt phải quan trọng. 

Kiểm tra những cuộn bản đồ trong hòm thì đây là bản đồ tỷ lệ 1:25.000, gồm 25 bản đồ vùng lòng chảo Điện Biên vẫn còn thơm mùi mực và 32 tấm ảnh ghép cảnh đồ của vùng này. Tổ trinh sát lập tức mang chiến lợi phẩm mới lấy được ở Mường Thanh đến báo cáo đồng chí Cao Pha: “Đơn vị tiềm nhập trinh sát ban đêm ở Mường Thanh thu được một tập bản đồ về Điện Biên Phủ của địch mới thả dù xuống hôm kia”. 

Cơ quan Quân báo đã báo cáo ngay với đồng chí Hoàng Văn Thái. Đồng chí Tham mưu trưởng chiến dịch rất mừng vì đây là lần đầu quân ta tác chiến hiệp đồng có đầy đủ pháo binh, pháo cao xạ, đòi hỏi bản đồ địa hình phải thật chính xác. Tấm bản đồ tỷ lệ 1:25.000 đáp ứng đầy đủ yêu cầu của Phòng Tác chiến mặt trận. Lập tức, một đồng chí được cử dùng xe Jeep chạy hỏa tốc suốt ngày đêm về hậu phương in ra thành nhiều bản đưa lên mặt trận phát cho các đơn vị. Chiến sĩ trinh sát Trần Phận - Tổ trưởng tổ trinh sát lấy được tập bản đồ, được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai ngay tại mặt trận.

Nhờ tập bản đồ, quân ta đã đắp được sa bàn Điện Biên Phủ, tất cả các mục tiêu của địch đều xuất hiện đầy đủ, cho thấy hệ thống phòng ngự của địch không chỉ vững chắc ở phía Đông mà đã tăng cường tuyến phòng thủ kiên cố ở cả phía Tây, dọc sân bay vào tung thâm, trên các hướng tiến công chính của 2 đại đoàn do đồng chí Lê Trọng Tấn và Vương Thừa Vũ chỉ huy. Những dữ kiện đầu tiên cực kỳ quan trọng này cho thấy khó có khả năng “đánh nhanh, giải quyết nhanh” theo kế hoạch ban đầu. Kết hợp với tình hình thực tế tại mặt trận, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra một quyết định vô cùng sáng suốt và đúng đắn, chuyển phương châm sang “đánh chắc, tiến chắc” để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Quân báo trinh sát - Lực lượng chuẩn bị trận địa cho mỗi chiến dịch

 Sau Hội nghị do Bác Hồ chủ trì tại Tỉn Keo vào tháng 12-1953, lực lượng Quân báo trinh sát của ta tổ chức theo dõi địch trên các hướng và đi đến quyết định: Trước mắt, chuẩn bị đánh Lai Châu. Ngay lập tức, đồng chí Mạc Lâm được cử lên trại tù binh ở Tuyên Quang, tập trung khai thác các sĩ quan địch bị quân ta bắt ở chiến dịch Tây Bắc, tổ chức một cuộc “hội thảo” về cách đánh Lai Châu, cách đối phó của quân Pháp và dự kiến đường rút chạy của chúng.  

Khai thác một sĩ quan tù binh Pháp đã từng ở Điện Biên, thông thạo đường Tây Bắc, Thượng Lào ta nắm được nhiều thông tin giá trị về chiến dịch cũng như về chiến thuật. Sau buổi “hội thảo” đó, đồng chí Nguyễn Việt - Trưởng phòng Trinh sát, Cục Quân báo được giao nhiệm vụ cùng một đơn vị trinh sát của Bộ lên đường đi Lai Châu nghiên cứu tình hình, chuẩn bị cho trận đán

Cuối năm 1953, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị về kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 và giao nhiệm vụ cho các đại đoàn. Ngày 20-11-1953, quân báo của ta nắm được tin tức về việc quân Pháp điều động 6 tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ.  

Ngay lập tức, đồng chí Hoàng Văn Thái điện thoại và tiếp theo đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ thị cơ quan Quân báo phải làm rõ: Địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ với mục đích gì? Có phải vì đã phát hiện Đại đoàn 316 đang hành quân lên đánh Lai Châu? Chúng có đóng lại không? Hay chúng sẽ rút? Nếu chúng đóng lại thì sử dụng bao nhiêu lực lượng và sẽ bố trí thế nào? Chỉ thị yêu cầu lực lượng Quân báo trinh sát phải trả lời trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên, có hai câu hỏi hóc búa nhất đòi hỏi lực lượng Quân báo trinh sát phải trả lời ngay: Địch có rút không? Chúng bố trí như thế nào?  

Để trả lời được những câu hỏi trên, việc cần làm trước hết là điện ngay cho bộ phận trinh sát chuẩn bị đi Lai Châu phải lập tức chuyển hướng về phía Điện Biên Phủ, phối hợp với các đơn vị tại chỗ bám sát và điều tra tình hình địch, hằng ngày báo cáo về Cục; đồng thời tăng cường lực lượng trinh sát kỹ thuật theo dõi liên tục địch ở Điện Biên Phủ, Lai Châu, Thượng Lào, vì có tin có cánh quân từ Lào tiến về hướng Điện Biên Phủ.

Lúc này, một khó khăn mới xuất hiện. Trên bản đồ Bắc Bộ chỉ vỏn vẹn có một chấm đen với ba chữ “Điện Biên Phủ”. Yêu cầu cấp thiết ngay lúc này đòi hỏi quân ta phải có được những tấm bản đồ quân sự. Trước tình hình đó, đồng chí Hùng Châu, một cán bộ ở Ban Hỏi cung đã đi gấp lên trại tù binh, phối hợp cùng với đồng chí Mạc Lâm để khai thác một viên sĩ quan Pháp đã ở Điện Biên Phủ về địa hình và dự kiến khả năng bố trí công sự của địch. 

Vài ngày sau, ta phác họa được một sơ đồ về Điện Biên Phủ, cùng với báo cáo, nhận xét về giá trị đặc biệt quan trọng của dải đồi phía Đông sông Nậm Rốm. Nếu tổ chức phòng ngự ở đây, nhất thiết phải chiếm các mỏm đồi cao; còn ở phía Tây là cánh đồng rộng, xa hơn là dải núi không có giá trị chiến thuật quan trọng trong phòng ngự. Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất vui khi nhận được báo cáo này và gửi lời khen ngợi anh em hỏi cung. 

Đồng chí Cao Pha được chỉ thị tổ chức theo dõi, nắm địch ở Lai Châu, Điện Biên Phủ và Thượng Lào. Ngày 26-11-1953, đồng chí Cao Pha cùng một tổ quân báo di chuyển đi Điện Biên Phủ bằng xe vận tải. Qua Nà Sản, xe dừng lại để anh em nghiên cứu tận mắt tập đoàn cứ điểm của địch. Tại đây, đồng chí Cao Pha nhớ lại lần đầu vấp phải cách phòng ngự của địch; do không điều tra kỹ đặc điểm của hệ thống bố trí phòng ngự nên khi bộ đội ta tiến công đã bị thương vong nặng nề. 

Đang nghiên cứu Nà Sản thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện cho biết tin địch “đốt khói” ở Điện Biên Phủ và chỉ thị đồng chí Cao Pha phải theo dõi sát tình hình vì lo ngại địch định rút quân. Mối quan tâm của Tổng Tư lệnh là hoàn toàn có lý. Vì lúc này, ta đang có kế hoạch điều Đại đoàn 308 chủ lực lên đây và tùy tình hình sẽ điều tiếp các đơn vị khác. 

Thời điểm này, công tác điều tra và nắm địch ở Điện Biên Phủ là trọng tâm số một. Hai đội trinh sát của Bộ, do các đồng chí Nguyễn Việt, Phạm Huy, Nguyễn Ngọc Bảo chỉ huy đã phối hợp với trinh sát các Đại đoàn hình thành một mạng lưới trinh sát mặt đất khá chặt chẽ. Đồng thời, bộ phận trinh sát kỹ thuật cũng bám địch suốt ngày đêm với quyết tâm không để lọt bất kỳ tin tức nào. 

Kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát mặt đất và trinh sát kỹ thuật, ta biết được: Ngày 3-12, địch đã đưa thêm 3 tiểu đoàn lên Điện Biên Phủ, thành lập “Binh đoàn hành quân Tây Bắc” do De Castries chỉ huy. Đến cuối tháng 12, địch lại tăng thêm 3 tiểu đoàn nữa. Như vậy, trong hơn một tháng, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên đến 12 tiểu đoàn bộ binh, cùng các binh chủng khác, tổng quân số là 12.000 quân. Trọng tâm của Kế hoạch Navarre chính là quyết tâm chiếm đóng Điện Biên Phủ. 

Người đặt nền móng cho ngành tình báo quốc phòng Việt Nam

 

Ngày 25-10-1945, Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu được thành lập. Đồng chí Đào Phúc Lộc, tức Hoàng Minh Đạo, được giao nhiệm vụ làm Trưởng phòng. Đây là dấu mốc quan trọng, là nền móng đánh dấu sự ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của ngành tình báo quốc phòng Việt Nam.

Cơ duyên đến với tình báo

Sinh năm 1923 tại TP Móng Cái, Đào Phúc Lộc có cơ duyên gặp đồng chí Tô Hiệu, Bí thư Khu ủy khu B khi trọ học ở Hải Phòng, sớm giác ngộ và đi theo cách mạng khi mới vừa tròn 13 tuổi; được kết nạp Đảng khi mới 16 tuổi. Giai đoạn 1936-1939, Đào Phúc Lộc hoạt động trong phong trào thanh niên, học sinh yêu nước ở Hải Phòng.

Chiến công đầu tiên của Đào Phúc Lộc là kịp thời đưa tài liệu của Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế và truyền đơn tuyên truyền của Mặt trận về khu vực mỏ, phục vụ hoạt động đấu tranh. Năm 1940, Đào Phúc Lộc bị địch bắt, tra tấn dã man và bị kết án 2 năm tù, quản thúc tại Móng Cái 5 năm. Tuy nhiên, ông đã bộc lộ khả năng của một chiến sĩ tình báo tài năng, khôn khéo lừa mật thám, vượt biên sang Trung Quốc để bắt liên lạc với tổ chức của Đảng, được đồng chí Trường Chinh trực tiếp giao nhiệm vụ xây dựng cơ sở đảng ở Móng Cái và thành lập đường dây liên lạc ở hải ngoại để đưa cán bộ của Đảng từ Hải Phòng qua Móng Cái ra nước ngoài hoạt động. Cũng trong giai đoạn này, ông bắt đầu sử dụng tên Hoàng Minh Đạo (Minh Đạo tức “Con đường sáng”).

Năm 1943, ông chủ trì thành lập Huyện bộ Việt Minh Móng Cái, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở đây. Từ đó đến năm 1945, ông đã bồi dưỡng, đào tạo cho cách mạng nhiều cán bộ nòng cốt của Quân đội và ngành tình báo. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, tình hình Móng Cái hết sức phức tạp. Đào Phúc Lộc đã cùng các đồng chí của mình kiên trì đấu tranh, hoạt động bí mật, đưa nhiều đầu mối chui vào hàng ngũ Việt Quốc, Việt Cách, giữ vững và phát triển phong trào Việt Minh ở Móng Cái.

Hoạt động tình báo ở miền Bắc

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công. Chính quyền cách mạng non trẻ phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, nạn đói; vận mệnh của dân tộc như “ngàn cân treo sợi tóc”. Trước tình hình đó, yêu cầu nắm địch là đặc biệt quan trọng. Ngày 25-10-1945, tại số nhà 18 phố Nguyễn Du, Hà Nội, Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu được thành lập. Đồng chí Đào Phúc Lộc là Trưởng phòng Tình báo đầu tiên.

Về sự kiện đặc biệt này, Đại tá Đào An Việt, Phó chủ nhiệm Chính trị Tổng cục II, cho biết: “Việc thành lập Phòng Tình báo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, thể hiện sự sáng suốt của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Từ đây, Quân đội ta đã có một cơ quan chuyên trách để nắm địch, giúp trên đánh giá đúng âm mưu, ý đồ của địch để phục vụ kháng chiến, kiến quốc, đặt nền móng cho ngành tình báo quốc phòng xây dựng và trưởng thành, là niềm tự hào của toàn thể cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong ngành”.

Phòng Tình báo được thành lập có nhiệm vụ điều tra về quân sự, ngoại giao, chính trị, kinh tế của ngoại quốc và bọn phản động trong nước, trọng tâm là quân sự. Đồng chí Đào Phúc Lộc đã tổ chức mạng lưới, nắm tình hình quân địch, cài người vào trong các tổ chức có người Pháp như thư ký, đánh máy, làm nhà thầu cho các cơ quan, doanh trại có người Pháp. Các lưới tình báo đã lấy được nhiều tin quan trọng như kế hoạch Pháp gây hấn ở Hà Nội; mưu đồ của Pháp bí mật tổ chức những nhóm Pháp kiều vũ trang... Phòng Tình báo cài người vào sân bay Gia Lâm để chuẩn bị cho Đội quyết tử vào đánh sân bay, phối hợp với Nha Công an đập tan âm mưu đảo chính, tiêu diệt hang ổ phản động Quốc dân Đảng ở phố Ôn Như Hầu...

Tổ chức huấn luyện lực lượng chặt chẽ

Theo Đại tá Đào An Việt, chỉ trong một thời gian ngắn trên cương vị Trưởng phòng Tình báo, từ tháng 10-1945 đến tháng 3-1947, đồng chí Đào Phúc Lộc đã tổ chức lực lượng, hình thành và xây dựng ban tình báo ở 26 tỉnh, thành phố từ Thừa Thiên Huế trở ra phía Bắc.

Để có cơ sở nâng cao hiệu quả hoạt động, Trưởng phòng Đào Phúc Lộc đã chỉ đạo Phòng Tình báo soạn thảo các nội dung để trực tiếp huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ. Cuối năm 1945, lớp huấn luyện đầu tiên do đồng chí trực tiếp hướng dẫn tại số nhà 36 Đại lộ Carreau (nay là số nhà 18 Lý Thường Kiệt), Hà Nội được mở. Tháng 3-1947, đồng chí mở lớp tình báo quân sự đầu tiên tại Tuyên Quang với 48 học viên.

Trong quá trình hoạt động ở miền Nam, đồng chí cũng tổ chức nhiều lớp học ngắn hạn để bổ sung lực lượng cho ngành tình báo, tập trung vào các nghiệp vụ như tổ chức hoạt động nội thành; nghiên cứu tình hình địch; tổ chức mạng lưới cơ sở; cài người vào sâu trong hàng ngũ địch... Với tầm nhìn chiến lược, tài năng và tư duy sáng tạo, giàu kinh nghiệm, đồng chí đã dày công xây dựng cơ sở lý luận, kế hoạch đào tạo, định hướng phát triển ngành tình báo địch tình-binh vận trở thành những mũi nhọn tiến công đối phương ngay tại sào huyệt của chúng.

Các lớp giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tình báo đã trở thành nơi ươm mầm nhiều hạt giống cách mạng, trở thành những cán bộ nòng cốt cao cấp trong Quân đội, góp phần làm nên những chiến công, thành tích của lực lượng tình báo quốc phòng. Thiếu tướng Cao Pha, nguyên Phó cục trưởng Cục Tình báo, nguyên Phó tư lệnh Binh chủng Đặc công, nguyên Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, từng viết về đồng chí Hoàng Minh Đạo: “Anh đặt nền móng cho những bước đi chập chững ban đầu của ngành (tình báo). Vạn sự khởi đầu nan, công của anh Đạo cả”.

Nam tiến và hy sinh anh dũng

Tháng 9-1948, đồng chí Đào Phúc Lộc được điều động vào Nam. Tháng 10-1949, đồng chí được phân công làm Trưởng ban Quân báo Nam Bộ. Tháng 7-1954, Hiệp định Geneva được ký kết. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng tiến lên chủ nghĩa xã hội; miền Nam tạm thời do đối phương kiểm soát. Từ đây bắt đầu thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thời kỳ mới của ngành tình báo quốc phòng Việt Nam.

Những năm 1955-1956, đồng chí đã chỉ đạo khoét sâu mâu thuẫn nội bộ địch, dựng cờ các giáo phái ly khai chống Mỹ-Diệm, tổ chức các lực lượng vũ trang cách mạng trong nội thành. Năm 1963, đồng chí Đào Phúc Lộc được tăng cường cho khu trọng điểm Đặc khu Sài Gòn-Gia Định, nơi tập trung nhiều cơ quan đầu não ngụy. Một đêm cuối năm 1969, trên đường về Trung ương Cục, bị địch phục kích, đồng chí cùng đồng đội đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh trên sông Vàm Cỏ Đông.

Sự ra đi của đồng chí Đào Phúc Lộc là mất mát to lớn đối với Đảng, Nhà nước, ngành tình báo Việt Nam, đồng nghiệp và gia đình. Là người trực tiếp chỉ đạo giao nhiệm vụ cho đồng chí Hoàng Minh Đạo vào Nam làm Trưởng ban Quân báo Nam Bộ năm 1948, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: “Anh đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc...”.

Đại tá Đào An Việt khái quát: “Với vai trò là trưởng phòng tình báo đầu tiên, đồng chí Hoàng Minh Đạo đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối với ngành tình báo quốc phòng, như xây dựng hệ thống điều hành, chỉ huy tình báo từ Trung ương đến cơ sở; đào tạo, huấn luyện và xây dựng đội ngũ cán bộ tình báo và góp phần định hình nghệ thuật chỉ đạo và tổ chức hoạt động tình báo, đặt nền móng cho phát triển cả lý luận và thực tiễn của tình báo sau này”.

Ghi nhớ công lao của người đặt nền móng cho ngành tình báo quốc phòng Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương Hồ Chí Minh đối với đồng chí Đào Phúc Lộc.

Nữ du kích chân đau, vẫn không nghỉ tập luyện

 

Nguyễn Lê Phương Thảo (sinh năm 2005, ở quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh) dù đang có thu nhập ổn định với nghề làm bánh bông lan, nhưng vẫn xung phong tham gia khối nữ du kích Miền Nam luyện tập phục vụ Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đặc biệt, dù chân đau, nhưng nữ du kích này vẫn nén chịu, tích cực tham gia đều đặn các buổi tập.

Mặc dù còn cách khu vực thao trường của Trung tâm huấn luyện Quân sự Quốc gia 4 (Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam) một đoạn khá xa, nhưng chúng tôi như bị cuốn vào tiếng hô “Một…hai…Một…hai…” trên sân tập. Bất chấp thời tiết oi bức, tiếng bước chân vẫn đều đặn “đạp nắng” trên đường bê tông.

Ghé vào một góc sân tập, chúng tôi thấy khối nữ du kích Miền Nam mặc đồ bà ba đen với khăn rằn quấn quanh cổ. Cách mép đường băng không xa, là một nhóm 5 cô gái cũng với trang phục áo bà ba, khăn rằn đang tập động tác đánh tay. Tiếng hô "Một...hai..." vẫn vang lên đều đặn như không hề để ý đến những người đang đứng bên cạnh.

Như đoán được suy nghĩ của chúng tôi, Thượng tá Nguyễn Văn Hậu, Đại đội trưởng khung huấn luyện Khối nữ du kích Miền Nam, cười bộc bạch: “Đây là những nữ du kích điển hình về tinh thần vượt khó ở đơn vị chúng tôi đấy…”.

Thấy chúng tôi có vẻ vẫn chưa hiểu, anh Hậu chậm rãi kể, quá trình cơ động lực lượng từ TP Hồ Chí Minh ra đến Trung tâm huấn luyện Quân sự Quốc gia 4, một số cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện bị “ngã nước” với các triệu chứng hắt hơi, sổ mũi… Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, công tác tập luyện vẫn được đơn vị duy trì chặt chẽ theo kế hoạch, bảo đảm 100% quân số tham gia.

Hướng ánh mắt về phía nhóm 5 cô gái đang tập đánh tay, Anh Hậu cho biết thêm, mặc dù bị ảnh hưởng bởi thời tiết và các chấn thương nhỏ, nhưng chưa có ai nghỉ ốm, nghỉ tập. Thậm chí, khi thấy một số nữ du kích có triệu chứng mệt, đau chân..., chỉ huy Khối động viên nghỉ ngơi để giữ sức, nhưng chị em vẫn ra thao trường tham gia tập luyện.

Như để minh chứng cho những gì mình vừa nói, anh Hậu chỉ tay về phía một nữ du kích còn rất trẻ, giới thiệu: “Cô gái kia là một trong những gương mặt tiêu biểu về sự nỗ lực vượt khó…”.

Nói rồi, anh Hậu giới thiệu để chúng tôi làm quen với một cô gái có gương mặt cương nghị, rắn rỏi. Qua trò chuyện, nữ du kích cho biết, mình tên là Nguyễn Lê Phương Thảo (sinh năm 2005), nhà ở quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh. Tốt nghiệp THPT năm 2023, nhưng cô không thi vào đại học như các bạn cùng trang lứa mà chọn học nghề làm bánh bông lan, bánh sinh nhật với mong muốn sẽ lập nghiệp từ những gì mình học được.

Nói về công việc của mình, cô chia sẻ: “Mặc dù vừa học, vừa làm, nhưng công việc của em cũng cho mức thu nhập tốt. Ngoài các chi tiêu của cá nhân, em còn dành tiền phụ giúp cha mẹ trang trải các sinh hoạt của gia đình…”. Khi được hỏi “cơ duyên” nào mà cô tham gia tập luyện diễu binh, diễu hành phục vụ cho Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, cô gái có chất giọng Miền Nam, chỉ nhỏ nhẹ: “Nghe các chú ở địa phương nói chọn người, em xung phong liền. Được ba mẹ ủng hộ, nên em rất vui và yên tâm...”.

Thảo cũng cho biết, năm 2022, cô đã tham gia tập luyện trong đội hình khối phục vụ cho các hoạt động của địa phương, nên ít nhiều cũng quen với cực nhọc. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với khí hậu ở Miền Bắc, cũng phải mất hơn một tuần cô và các bạn mới dần quen. Khi chúng tôi hỏi “Vì sao đau chân mà vẫn tham gia tập luyện?”, Nguyễn Lê Phương Thảo, tâm sự: “Quá trình tập luyện, em bị căng cơ chân, co rút, đau buốt. Nếu em nghỉ tập, khối sẽ phải thay người và ít nhiều cũng ảnh hưởng đến chất lượng tập luyện của khối. Đặc biệt, đây là khối đại diện cho đồng bào Miền Nam, nên việc tập luyện không chỉ là vinh dự, mà còn còn là trách nhiệm của cá nhân em. Vì thế, đau chân, nhưng em vẫn cố gắng tham gia tập đánh tay để động viên tinh thần mọi người…”.

Theo Thượng tá Nguyễn Văn Trung, Chính trị viên Đại đội khung huấn luyện Khối nữ du kích Miền Nam, việc tuyển chọn bảo đảm chặt chẽ ngay từ đầu. Ngoài việc lựa chọn về độ tuổi (từ 18 đến 27 tuổi), thì 100% thành viên của Khối đều chưa có gia đình. Trước khi bước vào huấn luyện, đơn vị tổ chức quán triệt nhiệm vụ, xây dựng ý chí, quyết tâm cho 100% cán bộ, chiến sĩ.

Quá trình huấn luyện, duy trì nghiêm các chế độ, chỉ huy Khối cũng thường xuyên bám nắm, kịp thời phát hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh. Bên cạnh đó, động viên và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa văn nghệ, sinh nhật tập thể hay tặng quà dịp 8-3... Cùng với đó, thực hiện bình xét thi đua, biểu dương kịp thời những cá nhân có thành tích cao, nỗ lực trong tập luyện... Đến thời điểm hiện tại, 100% cán bộ, chiến sĩ của khối đều an tâm tư tưởng, có quyết tâm cao hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Du kích đánh địch, giữ làng

 

Giữa tháng 3-1959, với vũ khí thô sơ gồm ná và mũi tên độc, 12 du kích (trong đó có 2 chiến sĩ nữ) của xã Vĩnh Hiệp, huyện Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định đã đẩy lùi một đại đội bảo an càn quét vào làng Tà Lók thuộc xã Vĩnh Hiệp. Chiến thắng này đã củng cố niềm tin, quyết tâm đánh thắng địch của bộ đội và du kích địa phương.

7 giờ sáng 17-3-1959, đại đội bảo an của địch bắt đầu cuộc hành quân càn vào hai làng Tà Lók và Tà Lék (xã Vĩnh Hiệp). Hơn 2 tiếng đồng hồ sau, chúng cách tổ cảnh giới của ta khoảng 50m. Du kích dùng loa kêu gọi binh lính địch dừng lại, không tiến vào làng mà chuốc lấy cái chết uổng mạng. Thế nhưng địch vẫn tiến lên. Khi chúng đến gộp Nước Ló, bất ngờ bị những mũi tên tẩm thuốc độc lao thẳng vào đội hình, 2 tên chết tại chỗ (trong đó có tên Trung úy chỉ huy đại đội), một số hốt hoảng chạy sang hai bên thì lao vào bãi chông, bẫy đá của ta đã chuẩn bị sẵn làm 7 tên bị thương. Sau khi lui về củng cố đội hình, địch xung phong bắn mạnh vào khu vực gộp Nước Ló. Từ các hướng, những mũi tên tẩm thuốc độc phi thẳng vào quân địch, làm chết 1 tên và bị thương 6 tên, buộc chúng phải lùi lại.

Sau khi đánh lui hai đợt tiến công của địch, du kích chuyển về trận địa cuối làng, sẵn sàng đánh địch. 15 giờ ngày 17-3, địch tiếp tục tiến công, khi đến ngã ba suối ở làng Tà Lók lại bị những mũi tên độc bắn chết 1 tên, 5 tên bị thương. Đến 16 giờ, địch tiến công lần thứ tư, lần này, chúng tiến công ồ ạt hòng tiêu diệt lực lượng của ta và đánh chiếm làng. Nhưng cũng như lần trước, đợt tiến công lần này cũng bị du kích đẩy lùi và diệt thêm 2 tên, làm bị thương 5 tên. Thấy không thể vào làng, chúng gọi máy bay đến ném bom đánh phá và lui quân về quận lỵ Vĩnh Thạnh.

Sau một ngày chiến đấu, du kích xã Vĩnh Hiệp đã diệt 6 tên, làm 23 tên bị thương, thu 1 súng trường, 1 bản đồ và một số đồ dùng quân sự. Trận đánh để lại những kinh nghiệm quý về chọn thế hiểm của địa hình, bố trí các khu vực diệt địch phù hợp, kết hợp chặt chẽ và sáng tạo các loại vũ khí thô sơ, tự tạo của du kích trong chiến tranh nhân dân địa phương đánh địch, giữ làng. 

Dùng súng bộ binh diệt 7 máy bay địch

 

Được trang bị 2 khẩu súng trung liên, 8 khẩu súng CKC và 6 khẩu K44, nhưng với sự mưu trí, tinh thần dũng cảm, du kích xã Lộc Bắc (huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng) đã tiêu diệt nhiều máy bay trực thăng của địch, bảo vệ vùng giải phóng và hành lang khu căn cứ cách mạng.

Sáng 7-7-1970, tổ du kích xã Lộc Bắc do K'Vét chỉ huy đi tuần tra, phát hiện hai máy bay trực thăng địch hướng từ Phước Long bay tới Lộc Bắc. Tổ du kích nhanh chóng lợi dụng địa hình, địa vật, khi máy bay hạ thấp độ cao khoảng 300-400m để thị sát, K'Vét lệnh cho các thành viên trong tổ nổ súng. Trúng đạn, một chiếc trực thăng loạng choạng, lao vào chân núi, cách trận địa hơn 150m. Chiếc trực thăng còn lại vội vàng bốc lên cao, bay thẳng về hướng Biên Hòa. Nhận được tin máy bay địch bị bắn rơi và nhận định chúng sẽ cho không quân đến ứng cứu, Xã đội Lộc Bắc nhanh chóng tổ chức lực lượng đánh máy bay địch đến cứu đồng bọn.

Đúng như nhận định, 12 giờ cùng ngày, hàng chục máy bay trực thăng ầm ầm lao tới, bắn phá dọn bãi để hạ cánh, sau nhiều vòng quần lượn, một chiếc sà xuống thấp và bị du kích xã Lộc Bắc bắn cháy. Sau trận đầu thắng lợi, các tổ di chuyển vị trí, ngụy trang kín đáo, kiên trì chờ “giặc trời” đến, chớp thời cơ là nổ súng. 14 giờ 45 phút, máy bay địch tiếp tục kéo tới đánh phá, một chiếc bay thấp, 3 tổ du kích đồng loạt nổ súng. Chiếc máy bay bốc cháy.

Sáng hôm sau, địch lại huy động nhiều tốp máy bay đến ném bom, bắn phá các khu vực xung quanh nhằm tiêu diệt lực lượng của ta và lấy xác đồng bọn. Mỗi lần máy bay xuống thấp, ở các trận địa được ngụy trang kín đáo, các tổ lại đồng loạt hướng họng súng vào máy địch, khiến chúng không thể tiếp cận được mục tiêu. Sáng 9-7, địch huy động trực thăng và trinh sát, phản lực đánh phá và đổ quân xuống chân núi ở xã Lộc Bắc, dùng hỏa lực chi viện, lùng sục tìm kiếm.

Tuy là vũ khí bộ binh, nhưng vận dụng chiến thuật linh hoạt, nhất là lợi dụng địa hình, địa vật, di chuyển, ngụy trang kín đáo và biết chớp thời cơ mau lẹ, sau hai ngày chiến đấu, các tổ du kích xã Lộc Bắc đã bắn rơi 7 máy bay trực thăng, diệt 7 tên địch; thu 7 súng ngắn và một khẩu đại liên. Sau trận đánh này, du kích xã Lộc Bắc được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; du kích K’Vét được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”.

Dụ quân địch vào khu vực phục kích

 

Cách đây 50 năm, ngày 18-7-1974, các lực lượng của Sư đoàn 2 (Quân khu 5) đã tiêu diệt cụm cứ điểm của địch tại Nông Sơn-Trung Phước (Quảng Nam), xóa sổ Tiểu đoàn 78 biệt động quân, 1 đại đội bảo an, 10 trung đội dân vệ (lực lượng khoảng 1.500 tên) và phá hủy nhiều vũ khí, phương tiện chiến đấu của ngụy quân. Ngay sau khi ta tiêu diệt cụm cứ điểm Nông Sơn-Trung Phước, Bộ chỉ huy Chiến dịch Nông Sơn-Thượng Đức dự kiến địch sẽ tập trung lực lượng phản kích nhằm chiếm lại khu vực đã mất...

Đúng như dự đoán của ta, địch đã sử dụng lực lượng của Sư đoàn 3 tiến công hòng chiếm lại khu vực Nông Sơn-Trung Phước. Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy quân ứng cứu giải tỏa của địch đang đứng chân ở Thạch Bàn muốn vào giải tỏa Nông Sơn, nhất định chúng phải chiếm được khu vực Dương Côi-Song Sử để làm bàn đạp. Do đó, ngay chiều tối 18-7, Bộ chỉ huy chiến dịch giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 2 nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, bố trí đội hình sẵn sàng tiêu diệt địch ở khu vực Dương Côi-Song Sử.

Thực hiện nhiệm vụ được giao, nhằm dụ quân địch vào đúng khu vực ta đã chuẩn bị sẵn, Sư đoàn 2 dùng một bộ phận nhỏ chốt giữ khu vực Khương Quế, lực lượng tại các điểm cao 238, 284, 77 vừa đánh vừa lùi dần, nhử địch vào khu chiến để ta tiêu diệt lớn quân địch ngoài công sự. Chuẩn bị cho trận đánh, Sư đoàn 2 lệnh cho các đơn vị nhanh chóng làm công tác chuẩn bị, tập trung lực lượng vận dụng chiến thuật vận động bao vây tiến công liên tục, tiêu diệt lớn quân giải tỏa của địch ở khu vực Dương Côi-Song Sử.

Tại khu vực Dương Côi, Văn Chỉ, Kỳ Vĩ và điểm cao 238, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 sử dụng hai đại đội từ phía Bắc và phía Đông Bắc tiến công vào sở chỉ huy Tiểu đoàn 3 địch ở Dương Côi. Đại đội Công binh 15 và Đại đội 10 (Tiểu đoàn 3) tiến công quân địch ở Văn Chỉ. Bị ta đánh bất ngờ, phần lớn quân địch ở các vị trí này bị tiêu diệt, một bộ phận từ Dương Côi tháo chạy về phía Đông thì bị Đại đội 3 (Tiểu đoàn 1) và Đại đội 9 (Tiểu đoàn 3) đón lõng, phối hợp với Đại đội Công binh 15 (sau khi đã tiêu diệt xong địch ở Văn Chỉ) tiêu diệt gọn. Tiểu đoàn 3 tổ chức tiến công quân địch ở Kỳ Vĩ, do hiệp đồng thiếu chặt chẽ, các mũi tiến công của Tiểu đoàn bị địch dùng hỏa lực ngăn chặn quyết liệt nên phát triển chậm.

Chiều 25-7-1974, trận then chốt của chiến dịch kết thúc. Kết quả, ta diệt gọn 1 tiểu đoàn, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn khác của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 647 tên địch, bắt sống 73 tên, thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Thắng lợi của trận đánh Dương Côi-Song Sử góp phần củng cố và giữ vững vùng giải phóng, thu hút và phân tán bộ phận quan trọng quân chủ lực địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân ta trong tiến công giải phóng Thượng Đức, mở rộng vùng giải phóng nông thôn rộng lớn.

Nắm thời cơ hạ máy bay địch, vít cổ giặc lái

 

Những ngày này, trong ngôi nhà của cựu chiến binh (CCB) Đoàn Ngọc Sao (84 tuổi, ở tổ 7, khu 6, phường Thanh Sơn, TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh), nguyên Khẩu đội trưởng Khẩu đội 2, Trung đội 5 súng máy cao xạ 14,5mm, Đại đội 141, Tiểu đoàn 217 (Quân chủng Phòng không-Không quân) đông khách hơn thường lệ.

Những người lính của Tiểu đoàn 217 tìm đến nhà ông Sao để cùng ôn lại kỷ niệm đánh Mỹ của quân và dân vùng đất mỏ trong chiến thắng trận đầu cách đây 60 năm.

Thăm hỏi sức khỏe, bày tỏ ấn tượng với Lễ kỷ niệm 60 năm Chiến thắng trận đầu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, 25 năm hợp nhất quân chủng do Quân chủng Phòng không-Không quân tổ chức sáng 30-7, CCB Đoàn Ngọc Sao vào mạch chuyện: "Tôi vẫn nhớ như in khẩu lệnh của Đại đội trưởng Đinh Công Sự đầu giờ chiều 5-8-1964: “Trên thông báo, máy bay Mỹ đang vào vùng biển Hải Phòng, Quảng Ninh. Các bộ phận tập trung theo dõi, bắt mục tiêu, sẵn sàng nổ súng...”. Ít phút sau mệnh lệnh của Đại đội trưởng Đinh Công Sự, các tốp máy bay địch từ hướng biển tiến vào, bổ nhào thay nhau bắn phá các mục tiêu của ta. Ngoài biển, trên các con tàu, Bộ đội Hải quân đánh trả dữ dội. Trên bờ, Bộ đội Phòng không và các lực lượng giăng lưới lửa tiêu diệt lũ “giặc trời”.

Sau 30 phút chiến đấu, tại trận địa súng máy cao xạ 14,5mm ở mỏm đồi gốc đa Hà Tu xuất hiện một máy bay từ hướng biển tiến vào. Các khẩu đội đồng loạt nổ súng nhưng không diệt được mục tiêu. Chỉ huy đơn vị lập tức yêu cầu các khẩu đội bám sát mục tiêu, quay súng mau lẹ, mục tiêu vào tầm bắn hiệu quả mới nổ súng. Chiếc máy bay thứ hai quần lượn trên bầu trời Hà Tu, 4 khẩu súng máy cao xạ 14,5mm của Trung đội 5 bám, bắt mục tiêu, đón đúng đường bay, đồng loạt nổ súng. Chiếc A-4D trúng đạn buộc phi công phải nhảy dù cách trận địa khoảng 2km. Khi hắn điều dù hạ xuống khu vực Khe Cá, Hà Tu thì bị quân dân ta bắt sống. Đây là tù binh phi công Mỹ đầu tiên trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ra miền Bắc Việt Nam, được trao trả cho Chính phủ Mỹ ngày 12-2-1973, sau gần 9 năm bị giam giữ trong nhà tù Hỏa Lò.

Theo CCB Phạm Khắc Định, ít phút sau khi hạ chiếc A-4D, Đại đội 141 và Đại đội 143 (Tiểu đoàn 217) phối hợp với Bộ đội Hải quân và dân quân tự vệ mỏ tiếp tục bắn rơi chiếc A-4D thứ hai. Ngay sau trận đánh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm Tiểu đoàn 217 và căn dặn: “Thắng lợi của chúng ta rất lớn, nhưng mới chỉ là trận đầu. Địch có thể còn đánh trở lại với lực lượng lớn hơn nữa. Điều quan trọng là ta phải rút kinh nghiệm để chiến đấu giỏi hơn, giành thắng lợi lớn hơn. Cần cảnh giác cao độ, luôn sẵn sàng chiến đấu. Đừng để có một sơ suất nhỏ nào...”.

Không để cuộc nói chuyện trầm lắng, CCB Đoàn Ngọc Sao tiếp lời: “Trong diễn văn tại Lễ kỷ niệm 60 năm chiến thắng trận đầu, lãnh đạo Quân chủng Phòng không-Không quân nhấn mạnh, ngày 5-8-1964, Bộ đội Phòng không cùng với quân và dân miền Bắc đã mưu trí, dũng cảm bắn rơi 8 trong số 64 lần chiếc máy bay địch (đạt 12,5%). Đây là tỷ lệ rất cao trong tác chiến phòng không. Chỉ với vũ khí phòng không thông thường mà quân và dân ta đã bắn rơi nhiều máy bay hiện đại của địch, bắt sống được giặc lái. Có lẽ chỉ có Việt Nam mới làm được điều phi thường đến vậy!”.