Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019

CẦN VẠCH TRẦN CÁI GỌI LÀ “HỘI ANH EM DÂN CHỦ”


Gần đây, các thế lực thù địch đã tăng cường lừa phỉnh, chống phá các cấp chính quyền nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và sảo quyệt. Cùng với các hoạt động phá hoại vào nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, trên các phương tiện thông tin, chúng đặc biệt chú trọng lợi dụng các trang mạng xã hôi để tung tin. Dưới chiêu bài cái gọi là hội anh em dân chủ, họ tự xưng mình là những ngưi cósứ mệnh” đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam. Vậy thực chất quan điểm chính trị của họ là gì? Họ thường xuyên đăng tải những thông tin sai trái, thù địch, bịa đặt những vấn đề dân chủ, nhân quyền nhằm nói xấu chế độ, nói xấu chính quyền Việt Nam.
Cái gọi là hội anh em dân chủ xưa nay chúng ta đều biết là những thành phần bất ho, chống phá đất nước một cách quyết liệt. Đồng thi là hội hoạt động ngoài khuôn khổ, không có sự quản lý của pháp luật.
Những hội nhóm này là những nhóm nhn tiền của nước ngoài, thông đồng với ngoại bang, móc ni với các thế lực bên ngoài, mưu đồ bất chính, dụng ý thiếu lương thiện, ý đồ của họ là phản loạn, là chống phá cách mạng, gây rối an ninh, bt n chính trị, để họ thừa nước đục th câu, lôi kéo nước ngoài can thiệp vào Việt Nam. Họ không chỉ ph nhận chế độ dân chủ, nhân quyền Việt Nam, các thế lực thù địch - những k thường xuyên lợi dụng dân chủ giả tạo, để phá hoại cách mạng Việt Nam còn ra sức t v, sùng bái mô hình dân chủ của phương Tây. Họ tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người, quyn con người theo mô hình cùa phương Tây, cố tình tảng lờ một số quyền con người sẽ bị hạn chế đã được ghi trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966). Theo cách nói của họ, Nhà nước Việt Nam đã vi phạm quyền con người Điều 18 (Về quyền tự do tư tưng, tín ngưỡng, tôn giáo), Điều 19 (Về quyn tự do ngôn luận, báo chí), Điu 21, 22 (Về quyn hội họp hòa bình, quyền lập hội...) trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966) mà Việt Nam đã ký kết. Tuy nhiên, họ không hề đ cập đến việc thực hiện những quyn nêu trên đều có thể bị hạn chế (trong pháp luật quốc gia) là vì an ninh quc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bo vệ sc khỏe hoặc đạo đức của công chúng, hoặc các quyền và tự do của người khác. Gần đây, họ còn sử dụng các trang mạng xã hội nhằm phát tán, thu gom, lưu trữ các bài viết. Qua đó, họ ra Tuyên bố, lập bản "Kiến nghị", kêu gọi ký tên... ủng hộ các quan điểm cực đoan, sai trái. Họ là những kẻ đội lốt dân chủ, nấp bóng nhân quyn, nấp trong cái vỏ bọc tự do đ mà quấy phá đất nước, phá phố phá phưng, phá hoại an ninh, trật tự, an toàn xã hội, phá hoại an ninh quốc gia.
Những hoạt động xấu xa và mưu đ đen tối của cái gọi là hội anh em dân chủ đã được dư luận quần chúng nhân dân vạch mặt. Cũng như các hội nhóm phản động trước đây ra đời trong và ngoài nước, hội anh em dân chủ đã có cái kết rõ ràng. Nhân dân Việt Nam có tinh thần đoàn kết, yêu nước, sớm đã nhận ra những âm mưu, thủ đoạn hoạt động của bè lũ phn động và các đối tượng xấu lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước trên nh vực dân ch, nhân quyền. Mặt khác, tình hình thực tiễn v việc thực hiện dân chủ nhân quyền của Nhà nước Việt Nam đã được cả thế gii đánh giá và ghi nhận. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nước tới quyền và nghĩa vụ thiết thân của mỗi người dân trong xã hội.
Hoạt động của cái gọi là hội anh em dân chủ hiện đang bị dư luận trong và ngoài nưc, dư luận tiến bộ trên thế giới lên tiếng phản đối mạnh mẽ. Âm mưu thâm độc của cái gọi là “hội anh em dân chủ này đã bị bóc trần, bởi bất kỳ ai trong số trên 90 triệu người dân Việt Nam đang sinh sông trong và ngoài nưc, khi được hỏi về hội nhóm này đều nhận thức được mục đích chia rẽ khi đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam của chúng. Những hành động mới của số đi tượng trong “hội anh em dân chủ dù tinh vi, xảo quyệt, che giu bn cht lưu manh, phn động tới đâu thì những hành động đó cùng không thể che mắt được dư luận.

Thứ Ba, 1 tháng 10, 2019

Chu truong lua chon can bo cua Dang cho DH XIII


         Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, thu hút và trọng dụng người tài đức trở thành quốc sách, thành đạo đức và thấm sâu vào quan niệm sống của nhân dân ta. Kế thừa truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ và thu hút người tài đức để xây dựng, kiến thiết đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển”. Trong tuyển chọn, bố trí cán bộ, Người nhấn mạnh, không được thiên tư, thiên vị, không phân biệt là người trong hay ngoài Đảng mà lựa chọn những người thật sự có đức, có tài, hết mình phấn đấu cho cách mạng.
           Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ, coi đó chính là khâu "then chốt của nhiệm vụ then chốt". Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo công tác này. Không chỉ các hội nghị Trung ương, mà ngay trong văn kiện đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thể hiện rõ những chủ trương, giải pháp quan tâm, chăm lo đến nhiệm vụ xây dựng, bồi dưỡng cán bộ.Trong đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 là nghị quyết rất quan trọng và cấp thiết trong xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc ban hành hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý về công tác cán bộ thể hiện quyết tâm chính trị to lớn của Đảng, Nhà nước nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực, hạn chế trong công tác này ngay từ khâu đánh giá, lựa chọn cán bộ và thu hút người có đức, tài vào hệ thống chính trị của nước ta.
        Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chiến lược các cấp đã trưởng thành mọi mặt, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Việc lựa chọn, bầu vào các vị trí quan trọng của hệ thống chính trị đã được đổi mới, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công tâm, khách quan, có sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Trong công tác cán bộ, việc chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương luôn đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực như "chạy chức", "chạy quyền" hoặc hình thức, chiếu lệ trong lựa chọn, bố trí cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải đúng nguyên tắc, dân chủ, minh bạch, công khai, công tâm, khách quan. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cải tiến chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ hợp lý bảo đảm cho cán bộ, đảng viên sống tốt bằng thu nhập chính đáng của mình. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ cốt cán theo hướng hiện đại, chuẩn hóa chuyên sâu; coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; gắn đào tạo cơ bản tại trường và bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn để đánh giá, tuyển chọn, tạo nguồn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần gắn kết chặt chẽ đào tạo với sử dụng đúng chuyên môn được đào tạo. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng cán bộ, qua đó kịp thời xử lý tiêu cực, đồng thời phát hiện, thay thế cán bộ yếu kém bằng những người có đức, có tài, có đủ phẩm chất, năng lực.

Nhận diện thủ đoạn chống phá Đảng, nhà nước!

          Chung cho rằng, Đại hội XIII là thời cơ để đổi mới chính trị theo hình thức đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xây dựng nhà nước dựa trên nền tảng “xã hội dân sự”. Thực chất, ẩn khuất đằng sau những góp ý này là ý đồ xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hình thức “gửi thư”, “trao đổi”, “góp ý cho Đại hội XII” như trên đã trở thành hoạt động mang tính “truyền thống” mỗi kỳ Đại hội Đảng. Nếu thiếu nhận thức chính trị, chỉ nhìn qua những bản góp ý, trao đổi được chuẩn bị khá dày dặn này (có bản dài đến 50 trang) sẽ khiến nhầm lẫn “sự góp ý tâm huyết”. Song kỳ thực, vấn đề đã trở nên cũ rích từ nhiều kỳ đại hội trước được diễn đạt lại với giọng điệu mới tinh vi, được che đậy bởi nghệ thuật sử dụng ngôn từ trau chuốt mà “hoa ngôn xảo ngữ”.
           Họ trình bày nhiều vấn đề, nhất là những vụ việc gây rối mang màu sắc chính trị nơi này, nơi khác, một số người mệnh danh là “dân chủ” được thể bới lại và tung hô lên “vấn đề đa đảng” hòng đánh lừa hoặc lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin theo ý đồ chính trị của họ.
Điển hình trên các trang mạng, blog hải ngoại, mạng xã hội đăng tải bản “Góp ý cho Đại hội XIII”, tác giả sau trình bày những nội dung như “Đánh giá về tình hình mới”, quy kết Đảng “giác ngộ yếu kém yếu tố dân tộc, dân chủ đã tạo ra nỗi đau về hòa hợp dân tộc”, dẫn đến “Sự thất bại nghiêm trọng 43 năm xây dựng CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam trong phát huy sức mạnh quốc gia”… đã giả bộ “khẩn thiết kiến nghị” rằng: Chừng nào ở Việt Nam chỉ có độc tài, độc nhất một đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền dân chủ chân chính được; ở Việt Nam muốn phát triển, muốn có dân chủ thực sự thì phải hội nhập vào xu thế đa đảng, “xã hội dân sự” như nước ngoài.
         Lấy hiện trạng ngày nay xã hội còn những tồn tại, những hạn chế, nhiều vấn đề mất dân chủ, điển hình là những vụ án mà cá nhân lãnh đạo vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ để quy đó là lỗi cơ chế, là lỗi hệ thống? Đó là sự quy kết hoàn toàn sai lệch. Không có bất cứ xã hội nào tránh được những hạn chế khi thực hiện. Với Việt Nam, việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới XHCN tất còn nhiều tồn tại chưa dễ gì gỡ bỏ, và việc xảy ra những vấn đề mất dân chủ là biểu hiện của tồn tại xã hội mà chúng ta đang đấu tranh, ngăn ngừa, đó không phải là bản chất của xã hội XHCN.
         Như vậy, có thể thấy bằng giọng điệu tinh vi để vu khống chế độ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo sẽ không có dân chủ, họ cổ súy tư tưởng bài xích Đảng, từ đó thúc đẩy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi thực hiện nhà nước “tam quyền phân lập”. Phương thức, thủ đoạn rất nguy hiểm mà phần tử cơ hội chính trị, phản động sử dụng trong các “kiến nghị”, “góp ý”, “trao đổi” là đề và gửi đến cơ quan cao nhất của Đảng, đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sau đó phát tán trên các trang mạng hải ngoại, blog phản động, mạng xã hội. Người đọc cần phải tỉnh táo nhận diện, tránh bị cuốn vào trận địa xảo trá của họ, dẫn tới tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin với Đảng.

PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH TÔN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN



   
       Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng Nhân dân xuất phát một cách tự nhiên từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức vì nước, vì dân của Người. Hồ Chí Minh là con người sinh ra từ Nhân dân, sống hết lòng với dân cuối đời lại muốn trở lại với Nhân dân, làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, câu cá trồng hoa, sớm chiều làm bạn với cụ già hái củi, trẻ em, chăn trâu, không dính líu với vòng danh lợi. Người thường nói không có Nhân dân không có Bác Hồ Chí Minh có trái tim cùng đập cùng nhịp, có tâm hồn biết xót xa đến thân phận người cùng khổ của Nhân dân. Chính nhân cách lớn và cuộc đời oanh liệt Hồ Chí Minh đã tạo ra phong cách tôn trọng Nhân dân ở Người. Phong cách tôn trọng Nhân dân của Hồ Chí Minh thể nhiều cách. Người chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình mình. Phong cách Hồ Chí Minh phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng Nhân dân, đề cao vai trò, vị trí Nhân dân. Dù bận nhiều công việc đối nội, đối ngoại, với dân, đến với quần chúng, người “không quan trọng” để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực trong Bác. Phong cách ấy làm cho lãnh tụ quần chúng hòa nhập với nhau trong sự đồng cảm sâu sắc “Cán bộ đi về hợp tác xã không phải đi vào nhà chủ nhiệm để có chỗ có cơm nước đàng hoàng mà phải đi vào nhân dân”, phải “ba cùng”
       Mỗi cán bộ khi thực hiện phong cách phát huy dân chủ phải bắt đầu từ một khẩu hiệu, mỗi một công việc, mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến kinh nghiệm dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng dân chúng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến khen ngợi, người thêm hăng hái người khác học theo.  Phong cách Hồ Chí Minh chăm lo đời sống cho Nhân dân: trên cơ sở nhận thức “dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là không có ăn chẳng làm được việc gì cả, tư tưởng phong cách Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét trong việc chăm lo đời sống Nhân dân. Theo Người, Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi Nhân dân, quan tâm đến việc nhỏ cho đời sống ngày Nhân dân. “Chính sách Đảng Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn gương mẫu, thực hiện nói đi đôi với làm, “gần dân” thì phải tăng cường tiếp xúc với dân.
     Hiện nay có một số cán bộ, đảng viên có chức có quyền đã xa rời nhân nhân không lấy dân làm gốc, có thái độ cửa quyền hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân, làm cho dân bất bình làm xói mòn đến đạo đức, năng lực, trình độ. Ngay lúc này cán bộ, đảng viên phải xem lại chính mình. Đạo đức phong cách Hồ chí Minh đến hiện nay vẫn còn nguyên giá trị trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc. chúng ta phải lấy tấm gương của Bác Hồ để soi lại chính mình. Đẩy mạnh học tập theo đạo đức, phong cách Hồ chí Minh là nhu cầu cấp bách trong tình hình hiện nay.


NHẬN DIỆN THỦ ĐOẠN CỦA NHỮNG KẺ PHÁ HOẠI SAU PHÁT BIỂU CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG - BỘ TRƯỞNG BỘ NGOẠI GIAO PHẠM BÌNH MINH TẠI ĐẠI HỘI ĐỒNG LIÊN HIỆP QUỐC


Ngày 28/9/2019 đại hội đồng Liên hiệp quốc đã nhóm họp tại thành phố New York - Mỹ. Tại đây, Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh đã có bài phát biểu, trong đó thẳng thắn bày tỏ quan ngại của Việt Nam trước tình hình căng thẳng tại Biển Đông thời gian gần đây. Ngay sau đó, các thế lực thù địch đã có những bài báo, trang viết và video lan tỏa trên mạng với mục đích xấu, nhằm chia rẽ sự đoàn kết trong Đảng, bôi nhọ con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội tại nước ta hiện nay.

Thứ nhất, chúng đặt dấu hỏi tại sao Tổng bí thư Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng không tham gia và phát biểu mà người phát biểu lại là Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Phạm Bình? Thật nực cười cho những kẻ muốn can thiệp vào nội bộ của nước khác! Việc phân công sắp xếp ai, làm việc gì cho phù hợp, đó là việc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cớ gì chúng cần phải hỏi. Hay vì chúng cố tình quên đi rằng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập tự do hạnh phúc. Nước ta tuy nhỏ nhưng bình đẳng với các nước khác trên toàn thế giới, Tổng bí thư Chủ tịch nước ta khi đi sang các nước ngoài phải được tiếp đón long trọng và cần rất nhiều sự chuẩn bị kỹ lưỡng của cả hai bên.
Thứ hai, một số trang báo lá cải gắn mác quốc tế nhưng thực chất là do sự chỉ đạo của một số phần tử chống đối lại tỏ ra thắc mắc tại sao trong bài phát biểu Phó thủ tướng không chỉ đích danh Trung Quốc trong vấn đề biển Đông. Bọn chúng đã không thể hiểu được sự khôn khéo của Đảng ta trong đường lối và chính sách ngoại giao. Nhất là trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp hiện nay, việc dùng biện pháp ngoại giao nào cho hiệu quả chắc hẳn đã được bàn thảo kỹ lưỡng sao cho có lợi nhất. Và thực tế chúng ta vẫn giữ được sự ổn định chính trị, góp phần cho nền hòa bình trong khu vực và trên toàn thế giới.
Ngoài ra, bọn chúng còn cố tình lờ đi nội dung nhấn mạnh trong bài phát biểu của Phó thủ tướng - Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là chủ nghĩa đa phương. Trong bài phát biểu, Phó thủ tướng khẳng định hợp tác đa phương giữ một vị trí đặc biệt trong chính sách ngoại giao của Việt Nam. Đây  là thông điệp quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam muốn gửi đến Đại hội đồng liên hiệp quốc.
Cho dù với thủ đoạn nào, những gian dối lọc lừa của những cá nhân, phần tử chống đối luôn dễ dàng bị nhận ra. Nhân dân Việt Nam luôn một lòng tin tưởng đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Những cố công nói xấu, bôi nhọ của chúng luôn sẽ là vô ích trước công lý và sự công bằng ở nước ta hiện nay.

LỜI CUỐI CHO PHÁP LUÂN CÔNG


Từ hoạt động tuyên truyền và thực tiễn hoạt động của Pháp Luân Công chúng ta thấy rằng Pháp Luân Công đang được một thế lực chống phá chống phá chính trị tích cực. Bởi vì chúng ta đều biết Pháp Luân Công đang chống phá, xuyên tạc các học thuyết nền tảng của chủ nghĩa duy vật, học thuyết tiến hóa,... Qua các hoạt động phát chính niệm tiêu diệt tà linh của Đảng Cộng sản cũng đủ khẳng định Pháp Luân Công liên quan đến vấn đề chính trị, nên phải có thế lực hậu thuẫn.

VÉN MÀN PHÁP LUÂN CÔNG


Pháp Luân Công do Lý Hồng Chí sáng lập và tuyên truyền và khẳng định Pháp Luân Công không liên quan đến tôn giáo, phi chính trị, phi kinh tế. Thực tế trên các trang quảng cáo của Pháp Luân Công chỉ đề cập đến các vấn đề như: Pháp Luân Công được nhiều quốc gia theo, nhiều người theo, có nguồn gốc cổ xưa có nhiều bằng khen, giải thưởng, bị đàn áp tại Trung Quốc; đồng thời tuyên truyền Trung Quốc lại là rất xấu, Pháp Luân Công đề cao tâm tính, khỏi bệnh thần kỳ... Nhưng nội dung đằng sau các trang quảng cáo của Pháp Luân Công không có gì mới ngoài mượn danh các tôn giáo khác và phủ nhận giá trị của các tôn giáo.

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2019

VÌ SAO ÔNG DONALD TRUMP BỊ LUẬN TỘI

Đng Dân ch đã bt đu chính thc điu tra lun ti Tng thng Donald Trump v nhng cáo buc rng ông c gng gây áp lc vi Tng thng Ukraine đ điu tra ông Joe Biden, mt ng c viên Tng thng 2020; rng ông Trump đã phm ti cn tr công lý vvv.....
Quyết đnh ca Đng Dân ch theo đui lun ti ông Trump vì rơi vào thế cc chng đã, nếu h không lun ti thì h s b cho là tiếp tc bao che cho các hành vi không trong sáng ca ông Trump, có th b phe Cng hòa cáo buc là ‘bôi nh ông Trump đ giành li thế trong kỳ bu c sp ti’, nhưng ‘nhìn chung ông Trump s không b nh hưởng bao nhiêu (t vic lun ti này) tr phi b trut phế

Đây cũng là điều dễ thấy ở những quốc gia gọi là “đa nguyên, đa đảng đối lập” mà người ta thường cho là “tự do dân chủ nhất, tiến bộ nhất”, người ta thường nhòm ngó, rình dập, móc mói, bôi nhọ nhau, trong nn chính tr M khi mà các c tri luôn có xu hướng bu c theo đng phái thì bt k ng viên hay vn đ gì, thì vic lun ti này có th lay đng khi c tri trung dung vn đóng vai trò quyết đnh trong bt c kỳ bu c Tng thng nào.

Phòng chống “Tự diễn biến”, “ Tự chuyển hóa”


Thực hiện nghiêm, có kết quả tốt nhất về kết luận số 55- KL/TW ngày 15/8/2019 của Ban Bí thư “ Về việc tiếp tục chấn chỉnh công tác cán bộ  để chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và đại hội XIII của Đảng”.
Để kiên quyết loại bỏ những kẻ cơ hội chính trị chui vào bộ máy công quyền, cũng như kiên quyết sàng lọc không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng, bè phái cơ hội thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh để góp phần làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng cũng như nâng cao uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam.
            Chính vì lẽ đó trong thời gian tới để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy khóa mới của Học viện thì mỗi cán bộ đảng viên của Học viện phải nêu cao trách nhiệm trong bầu cử để  lựa chọn những đồng chí tiêu biểu đủ tiêu chuẩn vào cấp ủy khóa mới để lãnh đạo chỉ huy đơn vị vững mạnh góp phần xây dựng Đảng bộ Học viện luôn luôn trong sạch vững mạnh hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao trong thời kỳ mới.

Việt Nam thực hiện tốt vấn đề nhân quyền
Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch có nhiều tin, bài… nói xấu sự nghiệp đổi mới của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có nhiều tin, bài viết cho rằng: Việt Nam vi phạm nhân quyền; thực hiện quyền con người ở Việt Nam chỉ mang tính hình thức.
Nếu nói như vậy, thực chất chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch cho rằng: Ở Việt Nam không có nhân quyền; người dân Việt Nam phải sống trong cảnh mất tự do…bị bọc lột.
Tuy nhiên, không phải như vậy, Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (tháng 3/1930), đã lãnh đạo toàn dân đấu tranh cách mạng, giành độc lập dân tộc lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà  nước của nhân dân, do nhân dân,  vì nhân dân, đưa người dân nô lệ thành người làm chủ đất nước. Trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc và đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và thực hiện tốt vấn đề nhân quyền. Điều đó được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, các văn kiện các kỳ đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định quyền con người, quyền công dân và luôn đổi mới, phát triển, để không ngừng tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân tốt hơn, phù hợp hơn với các điều ước quốc tế và nguyện vọng chính đáng của con người. Để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thể chế hóa quyền con người trong hiến pháp và pháp luật (Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật, thể chế khác). Do làm tốt vấn đề trên, cho nên, thời gian qua, quyền con người ở Việt Nam luôn được bảo đảm trên thực tế và luôn được thực hiện tốt hơn.
Cụ thể: Trên lĩnh vực chính trị, các dân tộc, mọi người dân Việt Nam luôn được bình đẳng, phát huy dân chủ, trí tuệ;  đời sống  nhân dân ngày càng được cải thiện. Đặc biệt, đời sống  của nhân dân ở nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng có đạo luôn được bảo đảm và ngày càng tốt hơn. Quyền khiếu nại tố cáo được thực hiện chất lượng. Các quyền tự do dân chủ được thực hiện tốt. Đến nay, Việt Nam đã có hơn 50 cơ quan báo chí với hơn 650 ấn phẩm báo chí các loại, 47 nhà xuất bản, mỗi năm xuất bản hàng vạn đầu sách, in và phát hành trên 600 triệu bản báo.  Trên lĩnh vực kinh tế, quyền con người được bảo đảm, Nhà nước tôn trọng, bảo vệ, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người, mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng với nhau. Trên lĩnh vực  văn hoá, xã hội, luôn chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời  bằng những chính sách xã hội thỏa đáng, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối dưới nhiều hình thức, như: xây nhà chung cư cho những người có mức sống còn thấp, xây hàng vạn ngôi nhà tình nghĩa cho những người có công với cách mạng, khám chữa bệnh cho người nghèo, giáo dục tiểu học bắt buộc, bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc những người yếu thế, rủi ro, thiệt thòi; thực hiện chế độ trợ cấp đầy tính nhân đạo đối với con người: trợ cấp ốm đau thai sản, trợ cấp cho người cao tuổi, trợ cấp cho người tàn tật, trợ cấp tai nạn nghề nghiệp...
Với những thành tựu trên, Việt Nam hiện nay là một đất nước phát triển năng động, năm 2019 đã chính thức trở thành uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; là bạn, đối tác tin cậy của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có nhiều nước phát triển.
Từ những thành tựu trên, hoàn toàn bác bỏ những luận điệu sai trái của chủ nghĩa đế quốc và các  thế lực thù địch cho rằng ở Việt Nam vi phạm nhân quyền; thực hiện quyền con người ở Việt Nam chỉ mang tính hình thức; mà phải khẳng định rằng: Việt Nam là một đất nước tươi đẹp, có nền kinh tế năng động, phát triển, có môi trường hoà bình, nhân ái, bình đẳng, đoàn kết vì con người, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao…( một đất nước đáng sống).


Luận điệu xuyên tạc quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ của Đảng


Luận điệu xuyên tạc quy định kiểm soát quyền lực

trong công tác cán bộ của Đảng



Quy định này là phương thức, giải pháp để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, là bước cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị về xây dựng Đảng.
Tuy nhiên, lợi dụng việc này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động lại gia tăng xuyên tạc, chống phá.
Trong công cuộc đổi mới đặt ra rất nhiều nhiệm vụ quan trọng, nặng nề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Những nhiệm vụ đó đòi hỏi Ðảng phải không ngừng bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng. Nhà nước phải hoàn thiện thể chế, pháp luật theo hướng xây dựng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị.
Cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có đủ phẩm chất, đạo đức, trí tuệ, uy tín và năng lực mới có thể hoàn thành trách nhiệm và quyền hạn được giao. Thực thi quyền lực và kiểm soát quyền lực một cách đúng đắn, không chỉ phòng ngừa tiêu cực, lạm quyền trong công tác cán bộ mà còn bảo đảm cho sự lãnh đạo, quản lý vận hành có hiệu lực, hiệu quả.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Đảng ban hành Quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền là hết sức cần thiết nhằm nâng cao năng lực của Đảng cầm quyền, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.
Lợi dụng Quy định này, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động lập tức “diễn biến”, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông quốc tế, blog hải ngoại, mạng xã hội.
Đài Á châu tự do và nhiều trang mạng chống phá đăng tải loạt bài với mục đích chính trị, hướng lái cách mạng Việt Nam rằng “Bỏ độc quyền lãnh đạo mới có thể chấm dứt nạn đảng viên tha hóa”, họ hà hơi tiếp sức cho nhiều phần tử phản động lưu vong, cơ hội chính trị trong nước thể hiện quan điểm xuyên tạc rằng: Hiến pháp đã thể hiện mầm mống và bắt đầu của sự suy thoái, đó là Điều 4 khi cho phép đảng lãnh đạo độc quyền và tuyệt đối.
Và bản thân bất kể những cái gì độc quyền sẽ trở nên lạm quyền và lạm quyền thì tất yếu sẽ dẫn đến sự suy thoái. Họ cũng quy kết, sự độc quyền quá lâu, thiếu minh bạch trong một thời gian dài nên dẫn tới tình trạng phổ biến là tha hóa đạo đức của cán bộ lãnh đạo.
Rồi cho rằng, đây là vấn đề mang tính bản chất của chế độ, vì không có đối trọng quyền lực, không có giám sát, kiểm soát một cách độc lập, khách quan thì chắc chắn sẽ dẫn đến sự lạm quyền và tha hóa. Hay Quy định này là cơ hội để thanh trừng nội bộ, loại trừ phe nhóm, để hủy diệt đối với những người có khả năng tranh giành quyền lực… Để kết thúc, họ kết luận “Trong Đại hội XIII sắp tới, nếu không tỉnh ngộ và có những thay đổi về đường lối (cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội) thì Việt Nam cứ trượt dài theo con đường cũ, ngày càng mất niềm tin, rối loạn xã hội ngày càng tăng”.
Khi nghiên cứu về vấn đề kiểm soát quyền lực có thể thấy, mặc dù còn có nhiều quan điểm khác nhau về phương pháp, cách thức, tính chất được quy định trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, nhưng nhiều học giả quốc tế và trong nước đều thống nhất cho rằng kiểm soát quyền lực nhà nước đóng vai trò quan trọng và là tất yếu. Không quốc gia nào có thể phát triển nhanh, ổn định và bền vững nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng lạm quyền, tha hóa quyền lực vẫn luôn tiềm ẩn và thường xuyên xảy ra ở bất kỳ quốc gia nào cho dù thể chế chính trị có khác nhau.
Trong một hội thảo quốc tế về kiểm soát quyền lực và phòng chống tham nhũng (của Viện Nghiên cứu lập pháp - Quốc hội), bà Eleanor Valentine, chuyên về xây dựng và phát triển năng lực Nghị viện Hoa Kỳ cho biết, ngay cả ở Mỹ cũng luôn nỗ lực phòng chống tham nhũng, đây là nhiệm vụ phải được thực hiện một cách toàn diện và tổng thể, bắt đầu từ những bước phòng ngừa và tăng cường giám sát là vô cùng quan trọng. Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc đề xuất, soạn thảo và hướng dẫn thi hành luật như ở Việt Nam.
Hay trong công trình nghiên cứu và cuốn sách “Quyền lực chính trị và kiểm soát dân chủ ở Anh”, nhà nghiên cứu - học giả Stuart Weir và David Beetham rút ra kết luận, trong hệ thống chính trị ở Vương quốc Anh, kiểm soát quyền lực là phương thức tốt để đảm bảo chuẩn mực của nền dân chủ xã hội…
Nói như thế để thấy, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật, xa rời chuẩn mực của cán bộ, công chức là vấn đề được hầu hết các quốc gia quan tâm và có thiết chế quy định.
Do vậy không thể nói, sự tha hóa của cán bộ, đảng viên là bản chất của thể chế chính trị ở Việt Nam, việc ban hành Quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền là cơ hội để thanh trừng nội bộ, loại trừ phe nhóm, để hủy diệt đối với những người có khả năng tranh giành quyền lực… như những quy kết xuyên tạc, ác ý của những phần tử nói trên.
Ở một phương diện khác, thực tiễn đã chứng minh, người ta không thể nói ở các nước đa đảng thì đảm bảo vấn đề dân chủ, nhân quyền hơn ở các nước có một đảng (như ở Việt Nam) lãnh đạo; ngược lại cũng không thể khẳng định ở các quốc gia có một đảng duy nhất lãnh đạo lại dân chủ, đảm bảo vấn đề quyền con người hơn ở các nước đa đảng. Vấn đề dân chủ, nhân quyền, thể chế chính trị một đảng hay đa đảng, nhất nguyên hay đa nguyên ở mỗi nước là tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, điều kiện lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội và thực tiễn lịch sử dân tộc, con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của lịch sử, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của dân tộc Việt Nam. Đây là con đường cách mạng chân chính, tiến bộ, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, đáp ứng được yêu cầu mong mỏi của nhân dân.
Hơn nữa, Đảng là đội quân tiên phong của giai cấp công - nông, tầng lớp trí thức, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và nhân dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do vậy việc Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong Điều 4 - Hiến pháp 2013 là hiển nhiên, phù hợp với tư cách là một đảng chính trị cầm quyền và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó không thể phủ nhận, dưới tác động mặt trái của cơ chế thị trường, một số cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm bổn phận của mình trước Đảng, trước dân; việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; một số cơ chế chính sách đề bạt, bổ nhiệm chưa công bằng, chưa đầy đủ…
Để đáp ứng yêu của thời kỳ cách mạng mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, việc hoàn thiện chủ trương, đường lối, quy định nói chung và ban hành Quy định kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo hướng hoàn thiện, bổ sung, cụ thể hóa các Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh là hoạt động bình thường, cần thiết, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Nói như thế để thấy, các luận điệu trên là suy diễn, xuyên tạc của những đối tượng cơ hội, phản động, có nhiều hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, nhân dân, của Đảng, Nhà nước. Vậy âm mưu, thủ đoạn của chúng là gì?
Một là, mục đích của họ là xóa bỏ Điều 4 – Hiến pháp 2013 quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật. Từ đó lật đổ sự lãnh đạo của Đảng với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng.
Hai là, cổ xúy, thúc đẩy từ bỏ con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng lái theo con đường tư bản chủ nghĩa, theo hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, “xã hội dân sự” ở Việt Nam. Ba là, tạo cớ diễn biến tình hình chính trị ở nước ta, cố tình xuyên tạc công tác cán bộ theo kiểu “tung hỏa mù”, “khuấy nước đục, ngư ông đắc lợi” để tạo ra nhận thức sai lệch trước thềm Đại hội XIII của Đảng.
Từ đó tạo ra sự hoang mang, dao động, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong nội bộ.
Đây là âm mưu diễn biến hòa bình với thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Cán bộ, đảng viên, nhân dân cần tỉnh táo, cảnh giác, đấu tranh làm thất bại âm mưu nguy hiểm này.

Lựa chọn người tài đức - chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam


Lựa chọn người tài đức - chủ trương nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam


Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, thu hút và trọng dụng người tài đức trở thành quốc sách, thành đạo đức và thấm sâu vào quan niệm sống của nhân dân ta. Kế thừa truyền thống tốt đẹp đó của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ và thu hút người tài đức để xây dựng, kiến thiết đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển”. Trong tuyển chọn, bố trí cán bộ, Người nhấn mạnh, không được thiên tư, thiên vị, không phân biệt là người trong hay ngoài Đảng mà lựa chọn những người thật sự có đức, có tài, hết mình phấn đấu cho cách mạng. Hồ Chí Minh yêu cầu người lãnh đạo, quản lý phải biết chăm lo phát hiện người tài đức, phải biết đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng họ hợp lý và phải làm thường xuyên, liên tục, như: “Người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”. Người cũng khẳng định: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà”, đó chính là cuộc vận động chính trị quan trọng nhằm phát huy vai trò làm chủ thật sự của nhân dân trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người căn dặn: “khéo dùng cán bộ là phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”,“dụng nhân như dụng mộc”, “phải dùng người đúng chỗ, đúng việc”, biết dùng đúng năng lực sở trường của họ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, chú ý tạo nguồn và bồi dưỡng cán bộ kế cận cho đời sau. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt phê bình nghiêm khắc việc dùng cán bộ là người thân, anh em quen biết hay dùng những kẻ khéo nịnh dẫn đến hiện tượng ô dù, công thần, kéo bè cánh. Người yêu cầu phải tuyệt đối tránh hiện tượng địa phương cục bộ trong công tác cán bộ; phải xử lý nghiêm bệnh địa phương trong công tác này.
Ngày càng hoàn thiện chính sách về công tác cán bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với nhiệm vụ, coi đó chính là khâu "then chốt của nhiệm vụ then chốt". Vì vậy, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo công tác này. Không chỉ các hội nghị Trung ương, mà ngay trong văn kiện đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thể hiện rõ những chủ trương, giải pháp quan tâm, chăm lo đến nhiệm vụ xây dựng, bồi dưỡng cán bộ, như: Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18-6-1997 của Bộ Chính trị khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Văn kiện Đại hội X khẳng định: “Phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng người có đức, có tài; tạo bước chuyển căn bản trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài; xây dựng chiến lược quốc gia về nhân tài; coi đó là giải pháp quan trọng trong thực hiện chiến lược cán bộ”, “lựa chọn những người thực sự có đức, có tài giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”(1). Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng đã khẳng định một chủ trương rất mới và tích cực trong việc lựa chọn, bố trí người tài, đức vào các vị trí lãnh đạo: “Thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý”; Văn kiện Đại hội XII tiếp tục nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Bộ Chính trị khóa XII cũng ban hành Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Nghị quyết Trung ương 6, khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 90-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19-12-2017 của Bộ Chính trị quy định về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Bộ Chính trị về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng...
Trong đó, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 là nghị quyết rất quan trọng và cấp thiết trong xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế và phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việc ban hành hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý về công tác cán bộ thể hiện quyết tâm chính trị to lớn của Đảng, Nhà nước nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực, hạn chế trong công tác này ngay từ khâu đánh giá, lựa chọn cán bộ và thu hút người có đức, tài vào hệ thống chính trị của nước ta.
Đại hội không phải là nơi chạy chức, chạy quyền
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, đội ngũ cán bộ chiến lược các cấp đã trưởng thành mọi mặt, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Việc lựa chọn, bầu vào các vị trí quan trọng của hệ thống chính trị đã được đổi mới, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công tâm, khách quan, có sự tham gia rộng rãi của toàn xã hội. Trong công tác cán bộ, việc chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương luôn đi đôi với tạo cơ chế, môi trường, điều kiện để khuyến khích đổi mới, sáng tạo của cán bộ và tăng cường kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực.
Thời gian qua, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc trong đấu tranh chống tham nhũng, xử lý nghiêm minh trước pháp luật những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, vi phạm pháp luật, kể cả đương chức hoặc đã nghỉ hưu theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”; kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những cán bộ yếu kém, không đủ phẩm chất, năng lực, quan liêu, sách nhiễu nhân dân đã củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng bộ các cấp của Đảng được thực hiện trên cơ sở phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đại hội là dịp để ta sàng lọc cán bộ chứ không chỉ bàn phương hướng. Ai xứng đáng thì làm, không thì thôi, không sợ thiếu cán bộ”(2). Công tác nhân sự được thực hiện đúng điều lệ, quy chế, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; cán bộ phải tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Việc bầu ra cơ quan lãnh đạo các cấp được thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm tạo môi trường thực sự dân chủ trong quá trình chuẩn bị nhân sự và trong bầu cử tại đại hội... chứ không thể để gia tăng tình trạng  “con vua thì lại làm vua” hay là việc “củng cố hay thâu tóm quyền lực” như các thế lực thù địch đã rêu rao, xuyên tạc.
Tuy nhiên, cũng phải nghiêm túc nhìn nhận, vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định trong công tác cán bộ thời gian qua. Đảng, Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách hành chính, đổi mới công tác đánh giá, thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ, nhưng kết quả chưa đạt yêu cầu đặt ra. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ đạt được nhiều kết quả tốt, nhưng trên thực tế có nhiều cán bộ có đức, có tài, có triển vọng chưa được đưa vào quy hoạch. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn quy hoạch theo chức danh. Việc sắp xếp, bố trí giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc hoặc bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người thân, họ hàng của lãnh đạo còn diễn ra ở một số bộ, ngành, địa phương. Công tác giám sát của các cơ quan chức năng và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên ở một số nơi còn lỏng lẻo nên vẫn còn có cán bộ lãnh đạo, quản lý thoái hóa, biến chất, tham nhũng, hách dịch với nhân dân chưa được xử lý kịp thời. 
Thực tế đó đòi hỏi các cơ quan chức năng cần tiếp tục xây dựng được đội ngũ cán bộ chiến lược “vừa hồng, vừa chuyên”, có đủ tâm, đủ tầm, đủ tài để lãnh đạo thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ của cách mạng. Để đạt được mục tiêu này, cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong công tác cán bộ. Cần xây dựng bộ khung tiêu chuẩn cho tất cả chức danh trong bộ máy hành chính nhà nước, cấp nào ràng buộc tiêu chuẩn chức danh ấy. Trong đánh giá cán bộ, phải lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân đối với cán bộ làm thước đo chủ yếu. Cần tiếp tục thực hiện cơ chế thi tuyển các chức danh bổ nhiệm bảo đảm tính công khai, minh bạch, dân chủ, công bằng và cạnh tranh lành mạnh, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của nhiều cơ quan chức năng và nhân dân để lựa chọn những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo. Có cơ chế tranh cử đối với các chức danh bầu cử bằng cương lĩnh, chương trình hành động thuyết phục. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực như "chạy chức", "chạy quyền" hoặc hình thức, chiếu lệ trong lựa chọn, bố trí cán bộ. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ phải đúng nguyên tắc, dân chủ, minh bạch, công khai, công tâm, khách quan. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cải tiến chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ hợp lý bảo đảm cho cán bộ, đảng viên sống tốt bằng thu nhập chính đáng của mình. Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ cốt cán theo hướng hiện đại, chuẩn hóa chuyên sâu; coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành; gắn đào tạo cơ bản tại trường và bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn để đánh giá, tuyển chọn, tạo nguồn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất đạo đức để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Cần gắn kết chặt chẽ đào tạo với sử dụng đúng chuyên môn được đào tạo. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý, sử dụng cán bộ, qua đó kịp thời xử lý tiêu cực, đồng thời phát hiện, thay thế cán bộ yếu kém bằng những người có đức, có tài, có đủ phẩm chất, năng lực.