Thứ Ba, 18 tháng 8, 2020

Giải pháp giành chiến thắng chống chiêu bài mới của “diễn biến hòa bình”

 


Giải pháp giành chiến thắng chống

chiêu bài mới của “diễn biến hòa bình”

Chiêu bài mới của “Diễn biến hòa bình” đó là việc các thế lực thủ địch kêu gọi “Việt Nam không cần chống diễn biến hòa bình nữa”; chiêu bài này cũng đã mê hoặc được không ít người. Chúng ta cần nhận diện rõ chiêu bài này và có những giải pháp để giành chiến thắng trong cuộc chiến này.

Chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong bối cảnh mới, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của “diễn biến hòa bình” là rất thâm độc, nhưng có đạt được hay không lại phụ thuộc vào chính chúng ta. V.I. Lê-nin từng căn dặn: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”. Vì thế, để giành thắng lợi trong cuộc chiến này, chúng ta cần xây dựng nội bộ mình thật sự vững mạnh. Theo đó, phải phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu và phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đề ra. Trong khi phấn đấu thực hiện tốt 06 nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII xác định, cần coi trọng tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về bản chất, mục đích, các thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình”; về mối quan hệ chặt chẽ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để mọi người chủ động rèn luyện, nâng cao cảnh giác, không mơ hồ, mắc mưu những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đây là giải pháp có tính quyết định để vô hiệu hóa sự tác động của “diễn biến hòa bình”; bởi mục tiêu hướng tới của chiến lược này là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, qua đó hòng dùng chính bàn tay chúng ta để xóa bỏ chế độ chính trị của chúng ta.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa từ xa, với chủ động tiến công từ trong “trứng nước”, từ nơi xuất phát các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; không để chúng nhen nhóm gây dựng “ngọn cờ”, hình thành các tổ chức đối lập. Để thực hiện được, phải dựa vào “tai, mắt” của nhân dân. Muốn vậy, cấp ủy và chính quyền các cấp phải hết sức chăm lo các vấn đề an sinh xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kịp thời giải tỏa những bức xúc của dân trong quan hệ với chính quyền. Trên cơ sở đó để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, vô hiệu hóa mọi mưu đồ, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Tiến hành đồng bộ các giải pháp xây dựng và bảo vệ đất nước, kết hợp “xây” và “chống” trên mọi lĩnh vực; lấy xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh là cốt lõi, phải là liệu pháp căn bản để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình”./.

 

 

 


LÒNG YÊU NƯỚC LÀ TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

LÒNG YÊU NƯỚC LÀ TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM

 LÒNG YÊU NƯỚC LÀ TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên khi đất nước đang đắm chìm trong đêm dài nô lệ. Yêu nước, thương dân, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Sức mạnh truyền thống yêu nước đã hun đúc quyết tâm cứu nước, cứu dân và  thôi thúc Người bôn ba tìm đường giải phóng đất nước; cũng chính là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”... Sau này, trong bài viết Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba"…Từ khi ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi từ biệt chúng ta trở về với thế giới người hiền, Người luôn khát khao và phấn đấu cho mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân chủ và giàu mạnh, nhân dân Việt Nam được ấm no, tự do và hạnh phúc. Cuộc đời cách mạng đầy gian truân song rất đỗi vinh quang của Người xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân và cũng vì nước vì dân mà tận tâm, tận lực phấn đấu.

Thấm nhuần sâu sắc rằng, lòng yêu nước là một giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, được sinh dưỡng bởi những cư dân một nước nông nghiệp luôn gắn bó, cố kết, đùm bọc, che chở và giúp đỡ lẫn nhau để chống lại thiên tai, địch họa và cả dịch bệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”[1] và "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước". Trong tất cả những con dân đất Việt đó, chỉ “trừ một bọn rất ít đại Việt gian, đồng bào ta ai cũng có lòng yêu nước”[2]…

Vì thế, trên những chặng đường cách mạng, Người luôn khơi dậy và  phát huy nguồn sức mạnh của lòng yêu nước đó để lãnh đạo nhân dân ta từng bước giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không phải ngẫu nhiên, vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng lại được ghi rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v.) để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến,v.v.) thì phải đánh đổ”[3]; đồng thời, nhấn mạnh “trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”[4]. Sau đó, vấn đề tập hợp lực lượng được thể hiện trong việc thành lập và phát huy vai trò của Mặt trận Việt Minh, nhằm đoàn kết mọi người dân Việt Nam yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để cùng tranh đấu vì độc lập, tự do đã góp phần to lớn vào thành công của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ…

Tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh chính là yêu Tổ quốc và nhân dân, coi việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc, thực dân và ngoại bang, giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là lòng yêu nước chân chính, sâu sắc và triệt để. Vì thế, khi thấu hiểu rằng “tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”[5], Người đã khơi dậy lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam, coi đó là “chìa khóa vàng” để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức họ, lãnh đạo họ thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

KHƠI DẬY VÀ PHÁT HUY LÒNG YÊU NƯỚC CỦA MỖI NGƯỜI DÂN

Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam chính là nền tảng, cơ sở cho sự thống nhất trong khác biệt để Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của một dân tộc, đất không rộng, người không đông, tiềm lực kinh tế, quân sự không lớn, song đã đoàn kết, đồng lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi ách nô lệ thực dân, đế quốc, giành độc lập, tự do; tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, khi nước nhà đã giành được độc lập, song hiểm nguy từ nạn "giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm" vẫn đe dọa nền độc lập, tự do mà nhân dân ta đã giành được sau hơn 80 năm trời nô lệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”[6]; đồng thời khơi dậy tinh thần yêu nước của mọi người dân, mọi giai tầng trong xã hội trong các bức thư gửi cho các cụ phụ lão: “Xưa nay, những người yêu nước không vì tuổi già mà chịu ngồi không” (Thư gửi các cụ phụ lão); cho các em nhỏ: “Các em phải thương yêu nước ta” (Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa); cho một Việt kiều: “Tôi vẫn nghe ông là người yêu nước thương nòi, vậy dịp này rất thuận tiện cho ông tỏ lòng trung thành với Tổ quốc” (tháng 9/1945); cho các giám mục và đồng bào công giáo Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình: “Các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính tín đồ của đức Giêsu” và bao dung, vị tha với những người trót lầm đường, lạc lối: “Ai cũng có lòng yêu nước, chẳng qua có lúc vì lợi nhỏ mà quên nghĩa lớn. Nói lẽ phải họ tự nghe”[7]... để quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở của lòng yêu nước chân chính, tiến hành sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

Trân trọng giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi việc tuyên truyền về lòng yêu nước, tinh thần yêu nước cho mọi người dân, trong mọi thời điểm là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước không chỉ dừng ở nhận thức mà chính là phải thể hiện ở hành động. Cho nên, để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn, Người yêu cầu các cấp, các ngành “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[8], vì “đành biết rằng từ đây đi đến cuộc toàn thắng, chúng ta còn phải kinh qua nhiều nỗi khó khăn. Nhưng chúng ta giàu lòng yêu nước, thì chúng ta quyết cứu được nước”[9]…

Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với Đại đoàn quân Tiên Phong tại Đền Giếng, Đền Hùng

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Người, trong những năm tháng đấu tranh gian lao ấy, tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường của mọi người dân Việt Nam đã được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nổi bật tinh thần, ý chí và trí tuệ con người Việt Nam. Đó chính là sức mạnh của lòng yêu nước được hun đúc suốt hàng ngàn năm lịch sử; không chỉ được bồi đắp mà còn phát triển lên một tầm cao mới, gắn với tinh thần quốc tế trong sáng. Đó chính là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính hòa quyện với chủ nghĩa quốc tế cao cả trên tinh thần đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội; là lòng nồng nàn yêu nước gắn với sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các đồng chí, bạn bè và nhân dân lao động các nước; là phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đấu tranh để “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[10] trong thời đại Hồ Chí Minh lịch sử. Đó cũng chính là hiển hiện của những tấm gương yêu nước, anh hùng mà khiêm nhường của biết bao quần chúng ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi; của đội ngũ cán bộ, đảng viên trên mọi lĩnh vực công tác ở cả tiền tuyến và hậu phương,v.v.. đã kết thành "một làn sóng mạnh mẽ", tạo thành sức mạnh tổng hợp, vô song, làm nên những chiến công của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, đưa đất nước ta tới hòa bình, độc lập, thống nhất, kiên định ục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Vì thế, có thể nói, những giá trị tinh hoa truyền thống như tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương giống nòi, phụng sự Tổ quốc, tinh thần sẵn sàng hy sinh vì dân, vì nước,v.v.. đến Hồ Chí Minh, thời đại Hồ Chí Minh đã được nâng lên một tầm cao. Yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung và hình thức mới, mang bản chất giai cấp, hòa quyện chặt chẽ giữa giai cấp, dân tộc và nhân loại mà cơ sở tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là yêu nước chân chính gắn với tinh thần quốc tế vô sản, "khác hẳn tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động. Nó là một bộ phận của tinh thần quốc tế”… và chính Người là một mẫu mực của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần yêu nước Việt Nam hiện đại đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình ảnh của sự gặp nhau giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản”[11].  

TIẾP TỤC NHÂN NGUỒN SỨC MẠNH CỦA LÒNG YÊU NƯỚC

Đất nước đang tiến hành đổi mới và hội nhập sâu rộng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hơn bao giờ hết, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Càng khó khăn, thử thách, truyền thống yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người dân Việt Nam được hun đúc từ bao đời, trở thành sức mạnh Việt Nam, biểu tượng Việt Nam càng được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, tỏa sáng trên tinh thần: “Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”[12], để luôn chủ động, quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…

Để đất nước vững bước trên hành trình đã chọn và nhất là để phát huy tinh thần yêu nước của mỗi cá nhân, mỗi tập thể, cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành chức năng cùng cả hệ thống chính trị cần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về lòng yêu nước, về lý tưởng cách mạng và sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; cụ thể hóa thành các chính sách và các phong trào thi đua yêu nước cụ thể, thiết thực. Theo đó, công tác tư tưởng không chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền và kêu gọi lòng yêu nước của mỗi người mà cao hơn, quan trọng hơn là phải hướng dẫn lòng yêu nước, chỉ dẫn các hành động yêu nước đúng đắn thông qua công tác tuyên truyền, bồi dưỡng, phát triển các nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Cùng với đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm trong thực  thi công vụ, thực hiện công tác chuyên môn gắn với các phong trào thi đua yêu nước, để làm gương cho quần chúng.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống phải góp phần làm cho mỗi người Việt Nam, trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên… nhận thức rõ yêu nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thực hành yêu nước là một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của sự nghiệp cách mạng 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lòng yêu nước ấy, tinh thần yêu nước ấy rất cụ thể và sinh động, hiển hiện trong mỗi việc làm hằng ngày của mỗi người tại mỗi cơ quan, đơn vị, gia đình và trong cộng đồng. Đó chính là ý thức chấp hành pháp luật, là tinh thần là cần, kiệm, liêm, chính, nỗ lực góp sức dựng xây quê hương, đất nước, kiên quyết chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu; là lối sống giản dị, chan chứa tình yêu thương con người, không vô cảm trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, sẻ chia và cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau khi gặp nguy nan, thử thách.

Lòng yêu nước, tinh thần yêu nước phải trở thành động cơ để trước hết gắn kết mọi người dân Việt Nam trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu nước đồng nghĩa với yêu đồng bào và cao hơn chính là trân trọng truyền thống lịch sử cách mạng, gắn bó và bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng; trung thành với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì thế, cần thầm nhuần sâu sắc và chú trọng xây dựng lòng yêu nước, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước; đồng thời, chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách... theo tinh thần các văn kiện Đại hội của Đảng, nhất là văn kiện Đại hội của Đảng trong hơn 30 năm đổi mới, hội nhập quốc tế và tiếp tục được thể hiện trong Nghị quyết 33-NQ/TW về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước".

Thực tế cho thấy, từ trong các phong trào thi đua yêu nước thiết thực, rộng khắp ở mọi cấp, mọi ngành, khắp các địa phương trong cả nước đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, trong đó có các đoàn viên, thanh niên, các sinh viên thủ khoa, các doanh nhân giỏi, các chiến sĩ thi đua... trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Gần đây nhất, những tấm gương của đội ngũ y, bác sĩ, chiến sĩ quân đội trong cuộc chiến chống dịch bệnh, sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị và mỗi người dân cả nước trong cuộc chiến chống "giặc dịch Covid-19" để "không để một ai bị bỏ lại phía sau" chính là biểu hiện sinh động nhất của tình thần nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó cũng chính là trái ngọt của việc phát huy sức mạnh tinh thần yêu nước Việt Nam, là kết quả việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” trở thành nhu cầu tự thân, nền nếp tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị. Và hơn bao giờ hết, càng đối diện với khó khăn, thử thách từ thiên tai, địch họa và dịch bệnh, mỗi người dân Việt Nam càng phát huy và tỏa sáng tinh thần yêu nước, chung sức, đồng lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phát triển bền vững.                  

Cùng với đó, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân, đổi mới và đa dạng hóa các phong trào thi đua yêu nước với nhiều hình thức, nội dung phong phú trên tất cả các lĩnh vực của đời sống: Lao động, sản xuất, học tập, chiến đấu, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Tiếp tục bồi đắp tinh thần yêu nước và nâng cao giác ngộ chính trị của nhân dân, làm cho nhân dân tuyệt đối tin tưởng ở vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để mỗi người thực hành tinh thần yêu nước đúng với tư tưởng Hồ Chí Minh; để càng khó khăn, thử thách, lòng yêu nước, tinh thần yêu nước của mỗi người càng cần phải được đặt đúng chỗ, được phát huy mà không bị hoang mang, dao động, không để kẻ xấu và các thế lực thù địch lợi dụng vào các hoạt động biểu tình, tung tin xấu độc trên mạng xã hội…

Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ - lực lượng kế cận, rường cột của nước nhà, việc giáo dục lòng yêu nước phải thầm nhuần yêu cầu “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương nòi. Phải dạy cho họ có chí tự lập, tự cường, quyết không chịu thua kém ai, quyết không chịu làm nô lệ”[13], để mỗi người trở thành người công dân có tài và có đức, kiên định và tiếp tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.

Những nét đặc sắc trong tư tưởng yêu nước và tấm gương mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lòng yêu nước, hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân không chỉ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc mà còn có ý nghĩa thời đại to lớn; là tấm gương sáng, bài học quý để mỗi người Việt Nam, mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện và noi theo./.

Khi mới về nước sau những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập tờ báo “Việt Nam độc lập”; đăng nhiều bài viết ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với mọi tầng lớp nhân dân nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước trong lòng nhân dân; trong đó có những câu thơ như: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Dân ta phải biết sử ta/Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”; “Việt Nam phụ nữ đời đời/Nhiều người vì nước, vì nòi hy sinh”; “Thợ thuyền ta phải đứng ra/Trước ta cứu nước, sau ta cứu mình”, v.v.. 
HVCT
ST HONG GAI

Thứ Hai, 17 tháng 8, 2020

“Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”

 

Nhìn lại lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đoàn kết luôn là truyền thống quý báu, nguồn sức mạnh, động lực quan trọng, nhân tố quyết định mọi thắng lợi.

Trong trận chiến chống dịch COVID-19, với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, Đảng, Chính phủ Việt Nam đã sớm kêu gọi nhân dân quyết liệt, đoàn kết một lòng, tạo nên sức mạnh tập thể, cùng nhau đẩy lùi dịch bệnh. Từ đó, đã huy động được sức mạnh hưởng ứng, chung tay của mỗi người dân, mỗi cá nhân trong phòng, chống dịch. Mỗi người dân, các tầng lớp nhân dân, các giới tùy khả năng của mình, người có tiền góp tiền, người có hiện vật góp hiện vật, người có sức giúp sức, người có ý tưởng góp ý tưởng... Với truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái của dân tộc, thời gian qua, nhiều tổ chức, cá nhân đã tự nguyện vận động, ủng hộ một số địa phương, cơ sở, cá nhân và những trường hợp phải cách ly, điều trị. Nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước, đồng bào ta ở nước ngoài, với tình cảm sâu sắc và trách nhiệm của mình đã tích cực tham gia ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Nhiều câu chuyện đẹp và cảm động đã được lan tỏa... Chúng ta càng thấy ý nghĩa sâu sắc và giá trị nhân văn lớn lao từ những quyết sách của Đảng và Chính phủ, từ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của các bộ, ngành chức năng và nhân dân… Trong khó khăn, thử thách, những phẩm chất tốt đẹp của người Việt càng tỏa sáng.

Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phải đi cùng một nhịp. Trong Lời kêu gọi, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, trong tình hình hiện nay, sự đoàn kết và phối hợp hành động toàn cầu là cơ sở bảo đảm chắc chắn cho chiến thắng cuối cùng của thế giới trước đại dịch này. Trong điều kiện nguồn lực đất nước còn khiêm tốn, là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Việt Nam cũng đã bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông sâu sắc và đang hết sức nỗ lực, cố gắng, nỗ lực hợp tác thiết thực, phối hợp kịp thời với các nước, nhất là các nước bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19.

Cuộc chiến còn lâu dài và phức tạp. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lưu ý: “Thời gian tới đây, chúng ta có thể sẽ còn phải đối mặt với khó khăn lớn hơn gấp nhiều lần, đòi hỏi sự nỗ lực nhiều hơn nữa, kiên quyết hơn nữa”. Để vượt qua và chiến thắng, chỉ có thể đoàn kết, đồng lòng, đồng thuận, mới có thể biến nguy thành cơ. Ta lại nhớ đến lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”./.

HA200821

 

Nhạc sỹ Văn Cao với tác phẩm "Tiến quân ca"

 

Bài Tiến quân ca được nhạc sĩ Văn Cao sáng tác cuối năm 1944 tại căn gác nhà số 171 phố Mongrand (nay là nhà số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội) và được in lần đầu trên trang văn nghệ của báo Độc lập tháng 11-1944. Ngay từ khi mới ra đời, bài hát đã được đội ngũ chiến sĩ cách mạng nồng nhiệt đón nhận, sau đó trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh, góp phần quan trọng cổ vũ nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám.

Tháng 8-1945, Quốc dân Đại hội họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), bàn về kế hoạch Tổng khởi nghĩa và mẫu Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca khi Việt Nam độc lập. Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi được giao nhiệm vụ tham khảo ý kiến các đại biểu, lựa chọn một số bài hát đặc sắc để trình lên lãnh tụ Hồ Chí Minh và Quốc dân Đại hội quyết chọn làm Quốc ca. Ba bài hát được trình lên là Cùng nhau đi hồng binh của Đỗ Nhuận, Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi và Tiến quân ca của Văn Cao. Cuối cùng, bài Tiến quân ca được chọn làm Quốc ca vì vừa thể hiện được ý chí, khát vọng dân tộc, hợp cảnh hợp thời, vừa ngắn gọn, dễ thuộc lời, dễ phổ cập mà giai điệu lại hùng tráng...

Trong những ngày Tổng khởi nghĩa từ 17 đến 19-8-1945 ở Hà Nội, bài hát đã vang lên tại các cuộc tuần hành, biểu tình, mít tinh của quần chúng cách mạng. Những chiến sĩ của chiến khu Đông Triều (Quảng Ninh) dọc đường hành quân về giải phóng Hải Phòng cũng ca vang bài hát này. Tiếp theo là Sài Gòn và cả nước cùng vang lên giai điệu Tiến quân ca...

Ngày tuyên bố độc lập 2-9-1945, dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Đinh Ngọc Liên, Tiến quân ca được dàn nhạc Giải phóng quân cử hành, hàng triệu người hát vang lời ca theo tiếng nhạc của hành khúc hùng tráng, sôi động. Năm 1946, Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quyết định lấy bài Tiến quân ca do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác làm Quốc ca Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, tại Điều 3 cũng ghi rõ: “Quốc ca là bài Tiến quân ca”. Kỳ họp thứ năm Quốc hội khóa I (năm 1955) đã quyết định giữ nguyên nhạc, chỉ sửa đôi chút về lời của Quốc ca.

Từ tháng 4-1981 đến tháng 6-1983, Hội đồng Nhà nước đã tổ chức một cuộc thi sáng tác Quốc ca mới nhưng cuối cùng cũng không chọn được bài hát nào có thể thay thế Tiến quân ca. Năm 1993, Quốc hội một lần nữa khẳng định vị thế thiêng liêng cao quý của Quốc ca Việt Nam. Và tại Khoản 3, Điều 13 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định: “Quốc ca nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhạc và lời của bài Tiến quân ca”.

Bài Tiến quân ca ngày nay có những điểm khác so với bài Tiến quân ca ban đầu do có một số sửa đổi về lời và nhạc. Về lời, câu đầu tiên trong các bản đầu của Tiến quân ca là “Đoàn quân Việt Minh đi” thì khi trở thành Quốc ca từ năm 1945 sửa thành “Đoàn quân Việt Nam đi”. Năm 1955, theo sự góp ý của các đại biểu Quốc hội khóa I, tác giả Văn Cao đã sửa câu “Thề phanh thây uống máu quân thù” thành “Đường vinh quang xây xác quân thù”. Câu cuối “Tiến lên! Cùng thét lên! Chí trai là nơi đây ước nguyền!” được tác giả sửa thành “Núi sông Việt Nam ta vững bền” nhưng đến khi xuất bản thành Quốc ca đã được Ban biên tập sửa thành “Tiến lên! Cùng tiến lên! Nước non Việt Nam ta vững bền”. Về nhạc cũng có một số sửa đổi, chẳng hạn bài Tiến quân ca trước khi được cử hành trong lễ chào cờ sáng ngày 2-9-1945 đã được tác giả cùng các nhạc sĩ Nguyễn Hữu Hiếu, Đinh Ngọc Liên bàn bạc, thống nhất sửa 2 chỗ để tiết tấu của bản nhạc khỏe và hùng tráng hơn./.

HA200819


Ảnh: Đoàn quân nhạc trình diễn Quốc ca Việt Nam.

 

Một số biện pháp về phòng chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng trong quân đội ta hiện nay


Chiến lược “diễn biến hoà bình” là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của các thế lực thù địch, chống các n­ước xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc và đư­ợc tiến hành trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự, ngoại giao,v.v…theo ph­ương thức thẩm thấu dần từng b­ước tạo sự chuyển hoá từ bên trong. “Diễn biến hoà bình” sử dụng biện pháp phi quân sự là chủ yếu, kết hợp với bạo loạn lật đổ can thiệp vũ trang khi có điều kiện thời cơ nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, giành thắng lợi cho chủ nghĩa t­ư bản mà không cần chiến tranh. Trong đó, các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng và đi sâu chống phá nội bộ Đảng cộng sản, chính quyền, chuyển hoá đội ngũ cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, phi chính trị hoá quân đội và công an.

Trong tình hình mới, âm m­ưu phi chính trị hoá quân đội của kẻ thù tuy chưa thể làm ảnh hưởng đến tinh thần, sức chiến đấu của quân đội ta; như­ng sự tồn tại của nó là hết sức nguy hiểm. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế xã hội của đất n­ước, nhất là mặt trái của cơ chế kinh tế thị trư­ờng đã ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức lối sống của một số ít cán bộ, chiến sỹ trong quân đội ta, dẫn đến “Một số cán bộ, chiến sĩ thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, kém cảnh giác với âm m­ưu thủ đoạn của địch, làm việc cầm chừng, thiếu chí tiến thủ, có những ngư­ời phai nhạt lý tư­ởng, dao động, cá biệt chịu ảnh h­ưởng của quan điểm sai trái, cơ hội. Một số ít biến chất sa đoạ, tự do vô kỷ luật, tham nhũng, thu vén cá nhân, quan liêu, quân phiệt, gây tác hại xấu” như trong Nghị quyết 79/ ĐUQSTƯ đã chỉ ra. Do vậy, để đấu tranh làm thất bại chiến lư­ợc “diễn biến hoà bình” đặc biệt là âm mư­u “phi chính trị hoá quân đội” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, cần làm tốt một số biện pháp cơ bản sau:

Một là: Th­ường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị tư­ tư­ởng cho cán bộ chiến sỹ. Bởi vì, bản lĩnh chính trị của bộ đội ta là yếu tố cơ bản, then chốt tạo nên sức mạnh chiến đấu, trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội và từng đơn vị, giữ vai trò định hư­ớng thúc đẩy hành động và hành vi của bộ đội. Các thế lực thù địch hiểu rất rõ rằng: sức mạnh trong hành động của con ng­ười đều bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc với bản lĩnh chính trị vững vàng. Chính niềm tin sắt đá vào con đường xã hội chủ nghĩa do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, niềm tin tất thắng vào mục tiêu lý t­ưởng chiến đấu của quân đội đã tạo nên sức mạnh vĩ đại trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội của quân đội và nhân dân ta. Vì vậy, trong chiến l­ược “diễn biến hoà bình” của kẻ thù với âm m­ưu chiến thắng không cần chiến tranh, chúng đã tập trung phá hoại về chính trị t­ư t­ưởng trong quân đội ta. Yêu cầu về bản lĩnh chính trị của bộ đội hiện nay có nội dung chủ yếu là: Sự kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư­ tư­ởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, có niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng xã hội chủ nghĩa và thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Sắc sảo, nhạy bén về chính trị, ứng xử kịp thời và đúng đắn các vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của quân đội và từng đơn vị. Đồng thời,  kiên quyết đấu tranh bảo vệ đ­ường lối quan điểm của Đảng, đấu tranh chống lại các quan điểm t­ư t­ưởng sai trái và phản động, các biểu hiện  mơ hồ, ảo t­ưởng, hoài nghi dao động, lơ là mất cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ.

Hai là: Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ, xây dựng mọi ph­ương án chiến đấu, luyện tập thành thạo mọi ph­ương án không để bị bất ngờ khi có tình huống xảy ra. Đây là một trong những biện pháp quan trọng, nhằm bảo đảm cho các đơn vị trong quân đội đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống; là biện pháp trực tiếp đánh bại âm m­ưu thủ đoạn của kẻ thù hòng phá hoại quân đội về tổ chức, làm suy giảm khả năng chiến đấu, vô hiệu hoá sức mạnh chiến đấu của quân đội làm ảnh hư­ởng trực tiếp đến yếu tố chính trị t­ư tư­ởng của mỗi cán bộ, chiến sỹ trong quân đội ta. Mặt khác xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, luyện tập và thành thạo các phư­ơng án chiến đấu còn là cơ sở bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sỹ giữ vững niềm tin vào thắng lợi khi tình huống diễn biến phức tạp xảy ra. Đồng thời, phải coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn văn kiện chiến đấu, nhất là phư­ơng án phòng chống bạo loạn; tập trung nâng cao chất lư­ợng huấn luyện để đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Gắn chặt nhiệm vụ xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện với xây dựng các tổ chức đảng trong quân đội trong sạch vững mạnh, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, xây dựng tổ chức đảng là then chốt. Duy trì chặt chẽ đơn vị theo nề nếp chính quy và các chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm đơn vị sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ đ­ược giao trong mọi tình huống.

Ba là: Lãnh đạo, duy trì chặt chẽ công tác quản lý nội bộ, ngăn chặn và đập tan các hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp, tình báo của các thế lực thù địch. Đây là biện pháp tích cực và hữu hiệu nhằm chống lại có hiệu quả m­ưu đồ hoạt động gián điệp tình báo của chúng. Trong tình hình hiện nay, vấn đề này càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, đòi hỏi phải đư­ợc tiến hành chặt chẽ, chủ động và tích cực trong từng đơn vị quân đội. Mặt khác đối với các thế lực thù địch tiến hành chiến tranh tâm lý, hoạt động gián điệp và tình báo là một thủ đoạn thâm độc và xảo quyệt nhằm khai thác bí mật quốc gia, bí mật quân sự, và lôi kéo mua chuộc cán bộ ta, gây tâm lý bất bình mơ hồ ảo t­ưởng, phá hoại về chính trị tư tư­ởng. Do đó, nội dung quản lý chính trị nội bộ ở trong từng đơn vị phải toàn diện; đặc biệt, trong nhiệm vụ phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị t­ư tưởng cần tập trung vào quản lý lập tr­ường quan điểm, thái độ chính trị, các mối quan hệ của từng quân nhân. Đồng thời phải coi trọng quản lý chặt chẽ cả tổ chức và con ngư­ời bảo đảm đơn vị luôn vững vàng kiên định về chính trị tư­ t­ưởng, trong sạch về tổ chức, thực sự xứng đáng là lực l­ượng chính trị tin cậy và trung thành của Đảng và nhân dân.

Bốn là: Phát huy vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ đảng viên và các tổ chức, địa ph­ương, đơn vị bạn trong việc phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị t­­ư t­ưởng. Trong tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của quân đội cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực l­­ượng, các tổ chức tạo nên sức mạnh tổng hợp để phòng chống “diễn biến hoà bình”: Trong quân đội trư­ớc hết là các tổ chức đảng; tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức chỉ huy điều hành của đội ngũ cán bộ các cấp, đây là các tổ chức cơ bản nhất trong tổ chức hiện các nhiệm vụ chính trị của các đơn vị trong quân đội ta. Vì vậy, trong phòng chống “diễn biến hoà bình” về chính trị tư­ tư­ởng cần phải coi trọng và phát huy vai trò của các tổ chức này.

Phòng chống “diễn biến hoà bình”, của các thế lực thù địch chống phá cách mạng n­ước ta là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc ta. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đư­ờng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi đ­ường lối đổi mới của Đảng, thư­ờng xuyên cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội, kịp thời xử lý có hiệu quả và đúng đắn các tình huống có thể xảy ra là trực tiếp góp phần đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, của các thế lực thù địch đối với quân đội ta./.

Quân đội đẩy mạnh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

Chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên không gian mạng là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội là lực lượng xung kích, nòng cốt, đi đầu trong cuộc đấu tranh đó.

Hiện nay, công nghệ thông tin, không gian mạng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng không gian mạng để chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi và xảo quyệt. Chúng thiết lập các trang website, blog, mở các “diễn đàn”, “câu lạc bộ”, phát tán các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video clip có nội dung xấu, độc để chống phá. Thủ đoạn chính của chúng là lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội; khai thác thông tin từ những vụ việc tiêu cực xảy ra trong đời sống rồi xuyên tạc sự thật, thổi phồng thiếu sót khuyết điểm; lấy hiện tượng quy kết thành bản chất; đăng tải thông tin thật, giả lẫn lộn để đả kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận truyền thống, bản chất cách mạng của Quân đội, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, chia rẽ mối quan hệ mật thiết Quân đội với nhân dân, v.v. Qua đó, thúc đẩy nhanh các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng và Quân đội; truyền bá lối sống thực dụng, thẩm thấu tư tưởng văn hóa ngoại lai vào đời sống văn hóa, tinh thần, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, mục ruỗng về tổ chức, băng hoại đạo đức xã hội. Các thông tin được chúng nhào nặn rất tinh vi, trộn lẫn thật - giả, tốt - xấu, khó nhận diện, trở nên cực kỳ nguy hiểm. Quân đội là một trong những đối tượng chúng chống phá quyết liệt, vì đây là lực lượng chủ yếu, nòng cốt bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Mục tiêu của chúng là “phi chính trị hóa” Quân đội, tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Quân đội đứng ngoài chính trị, Đảng Cộng sản mất công cụ bạo lực sắc bén, không còn giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội, dẫn tới mất vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.

Đảng và Bác Hồ trong Cách mạng Tháng Tám

Ngày 28-01-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng ở nước ngoài; cùng với Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và lãnh tụ là thống nhất và thể hiện ở việc đề ra, phát triển đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, nêu cao ngọn cờ dân tộc. Đường lối đó được nêu ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì và sau đó Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì phát triển hoàn chỉnh.

Đường lối cơ bản đó của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thông qua tổ chức thực tiễn. Và thực tiễn lại tiếp tục kiểm chứng, bổ sung, cụ thể hóa, khái quát hóa thành những chủ trương sát hợp với tình hình cách mạng, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai.

Với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng, cần thiết phải thúc đẩy xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang để đi tới tổng khởi nghĩa. Ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, phát triển mạnh mẽ các đội vũ trang ở địa phương, phối hợp tác chiến, thúc đẩy đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang của quần chúng. Khi quân Nhật chiếm Đông Dương (tháng 9-1940), kẻ thù của cách mạng Việt Nam và Đông Dương là Pháp-Nhật, thế lực quân Nhật ngày càng phát triển, Đảng xác định kẻ thù là Nhật-Pháp. Ngày 9-3-1945, Nhật làm đảo chính, gạt Pháp khỏi Đông Dương, kẻ thù lúc này là Nhật. Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (ngày 12-3-1945) phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước.

Cao trào cách mạng ngày càng phát triển, tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh rời Cao Bằng về Sơn Dương (Tuyên Quang), cùng Trung ương Đảng xây dựng trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Theo quyết định của Đảng, ngày 15-5-1945, Việt Nam Giải phóng quân được thành lập trên cơ sở thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân; ngày 4-6-1945, thành lập Khu giải phóng Việt Bắc-hình ảnh của nước Việt Nam độc lập. Nhiều địa phương trong cả nước cũng lập căn cứ địa, chiến khu, phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang. Đã có những cuộc khởi nghĩa nổ ra với những kinh nghiệm đấu tranh rất phong phú, sáng tạo, như: Khởi nghĩa Thanh La ở Tuyên Quang (10-3-1945), Khởi nghĩa Ba Tơ, Quảng Ngãi (11-3-1945) và Tự vệ cứu quốc Hưng Yên đánh đồn Bần thắng lợi (12-3-1945)… Kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh đó có ý nghĩa lớn đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Từ tháng 3 đến tháng 5-1945, Đảng phát động Phong trào “Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói”. Từ mục tiêu đấu tranh về kinh tế, đời sống phát triển, giác ngộ chính trị quần chúng đứng lên tự cứu mình.

Tháng 8-1945, phong trào cứu nước phát triển đến đỉnh cao trên cả nước, quần chúng sẵn sàng hành động theo sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh. Đội quân xâm lược của Nhật liên tiếp thất bại trước sự tiến công của Liên Xô và Đồng minh, khiến chúng buộc phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh (ngày 15-8-1945). Quân Nhật ở Việt Nam hoang mang, mất sức chiến đấu. Trong hoàn cảnh đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Ban Thường vụ Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh quyết định triệu tập Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang) từ ngày 13 đến 15-8-1945. Hội nghị nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới”. Mục tiêu của ta là “giành quyền độc lập hoàn toàn”. Đảng đề ra 3 nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là: Tập trung, thống nhất, kịp thời. Tập trung mọi lực lượng vào nhiệm vụ giành độc lập, giành chính quyền; thống nhất về quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy; kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội.

Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng theo dõi chặt chẽ diễn biến trong nước và quốc tế. Người nói với các đồng chí của mình: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Đó là kết tinh ý chí của toàn Đảng và khát vọng độc lập của cả dân tộc. Thực hiện quyết định của Đảng và lãnh tụ, Quốc dân đại hội được triệu tập họp ở Tân Trào ngày 16-8-1945, thành lập Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam gồm 15 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ủy ban có nhiệm vụ chỉ đạo cuộc tổng khởi nghĩa của cả nước và khi khởi nghĩa thành công trở thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Với đường lối, chủ trương đúng đắn, sự chỉ đạo thống nhất, kịp thời, cuộc tổng khởi nghĩa trên cả nước đã nhanh chóng giành thắng lợi trong nửa cuối tháng 8-1945. Cách mạng Tháng Tám là sự phát triển sáng tạo của khoa học nghệ thuật khởi nghĩa của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự chủ động xử lý đúng đắn tình thế và thời cơ cách mạng. Cách mạng Tháng Tám là thành quả của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, của ý chí tự lực tự cường của dân tộc Việt Nam. Đó cũng là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh; đồng thời khẳng định vai trò quan trọng, sự chủ động, sáng tạo của các cấp bộ Đảng địa phương, các Xứ ủy, Thành ủy, Tỉnh ủy đến tổ chức Đảng ở cơ sở trong lãnh đạo, chỉ đạo khởi nghĩa.

Bài học thành công về sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám được Đảng ta phát triển trong các thời kỳ cách mạng tiếp theo, dẫn tới thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành trọn vẹn độc lập, thống nhất Tổ quốc, giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nâng cao và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế./.

 


Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay

 

Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã và đang gây ra nhiều tác hại đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những biến thể của “diễn biến hòa bình”, với những biểu hiện, như: xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên,... trong đó có đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là quá trình diễn ra trong nhận thức, tư tưởng, thái độ, tình cảm, hành vi của mỗi người theo chiều hướng tiêu cực, suy giảm và biến đổi về bản chất, đi ngược lại bản chất, truyền thống cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ là tổng thể hoạt động của tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thể trong Quân đội và các tổ chức chính trị - xã hội, thực hiện các chủ trương, biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức, chính sách và luật pháp để ngăn chặn nguồn gốc, nguyên nhân và khắc phục biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mỗi sĩ quan trẻ, góp phần xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ vững mạnh về mọi mặt, có lý tưởng, hoài bão phấn đấu vươn lên, khẳng định tài năng, trí tuệ trong thực tiễn.

Đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội là những người được đào tạo cơ bản, có nhiệt huyết trong công việc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, lối sống tốt. Tuy nhiên, do chưa trải nghiệm nhiều trong thực tiễn, nhất là những tình huống phức tạp, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, nên khi có tình huống xảy ra dễ lúng túng, mất phương hướng, dẫn đến mắc vào mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Nhận rõ điều đó, những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tích cực, chủ động đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội; thường xuyên quan tâm, chăm lo giáo dục, giữ vững bản lĩnh chính trị, lập trường, quan điểm, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách lãnh đạo, chỉ huy, tạo sự chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ huy đơn vị. Tuy nhiên, so với yêu cầu đề ra, việc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Một số chủ thể, lực lượng chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề này, còn có tư tưởng chủ quan, coi nhẹ, chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; nội dung, hình thức, biện pháp còn đơn điệu, thiếu đồng bộ, tính hiệu quả chưa cao. Do vậy, một số biểu hiện lệch chuẩn giá trị trong nhận thức và hành động của sĩ quan trẻ chưa được khắc phục kịp thời. Một bộ phận sĩ quan trẻ còn bị chi phối bởi những tiêu cực ngoài xã hội và sự kích động, chống phá của các thế lực thù địch, nên chưa tích cực, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt, nhất là học tập chính trị; thiếu yên tâm xây dựng Quân đội, bản lĩnh chính trị chưa thật vững vàng, vi phạm vào quy định về những điều đảng viên không được làm, có biểu hiện xa rời thực tiễn, cơ sở, v.v.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đang đặt ra những yêu cầu mới rất cao và toàn diện; việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” đã đạt được những kết quả tích cực, song còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Trong khi đó, tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, sự chống phá của các thế lực thù địch, khoét sâu vào những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… đã tác động nhiều chiều đến sự phấn đấu, rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Bởi vậy, việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ đang là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay; trong phạm vi bài viết, xin đề xuất một số nội dung, biện pháp sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ Quân đội hiện nay. Nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ luôn có vị trí quan trọng hàng đầu để lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động phòng, chống với biểu hiện này. Nếu các chủ thể, lực lượng nhận thức không thống nhất, không xác định rõ trách nhiệm thì không thể phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Trong đó, cần tập trung nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức quần chúng, tổ chức chính trị - xã hội trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các chủ thể cần nhận thức rõ các biểu hiện, tác hại, nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; nhìn nhận, đánh giá đúng thực trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ hiện nay; những vấn đề nổi lên cần quan tâm giải quyết, không để lây lan, kéo dài, chi phối đến tình hình chung toàn đơn vị. Trên cơ sở đó, xác định yêu cầu, biện pháp thiết thực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ ở các cơ quan, đơn vị trong Quân đội hiện nay.

 

Hai là, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Sĩ quan trẻ trong Quân đội sinh ra và lớn lên trong hoà bình, nhận thức, tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, lợi ích, quan hệ xã hội có sự phát triển rất cao, song cũng rất đa dạng, phức tạp. Đặc biệt, họ chưa được rèn luyện, thử thách trước khi vào Quân đội nên dễ mắc phải những khuyết điểm, hạn chế về phẩm chất chính tri, đạo đức, lối sống, ý chí quyết tâm, sự hy sinh, cống hiến, trách nhiệm đối với Tổ quốc, gia đình và bản thân. Nếu không chủ động phòng ngừa những diễn biến tiêu cực về tâm lý, tư tưởng thì dễ xảy những hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân chính dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của sĩ quan trẻ. Để chủ động phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần tích cực đổi mới nội dung, hình thức tiến hành phù hợp lứa tuổi trẻ, đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị, song phải toàn diện cả về công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác quản lý. Đối với công tác tư tưởng, tích cực đổi mới nội dung giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng; nắm, quản lý, phân tích, đánh giá, phân loại và giải quyết tư tưởng; dự báo xu hướng vận động của những tư tưởng tiêu cực dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đối với công tác tổ chức, chú trọng vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trong công tác quản lý, đổi mới hình thức, biện pháp quản lý các mối quan hệ xã hội, quản lý tư tưởng, phát huy dân chủ trong chấp hành kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy, môi trường văn hóa,... đảm bảo phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Bên cạnh đó, cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với sĩ quan trẻ; tăng cường tổ chức các buổi tọa đàm, thông tin chuyên đề trên các phương tiện thông tin đại chúng; duy trì và phát huy tốt các hình thức thông báo chính trị, đọc báo, nghe đài, xem truyền hình, truyền thanh nội bộ, góp phần nâng cao nhận thức về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để sĩ quan trẻ tự điều chỉnh nhận thức, hành vi của mình.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp, các cơ quan chức năng đối với phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội chịu trách nhiệm lãnh đạo nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ ở cơ quan, đơn vị mình; xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm, được thể hiện trong nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng, kế hoạch công tác của người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên và hoạt động của các tổ chức quần chúng. Cơ quan chính trị các cấp làm tốt chức năng tham mưu, đề xuất với đảng ủy cấp mình những chủ trương, biện pháp lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ; trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc quyền thực hiện chủ trương, nghị quyết của đảng ủy cấp mình, sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính trị cấp trên về nhiệm vụ quan trọng này. Với tư cách là người chủ trì về chính trị của đơn vị, chính ủy, chính trị viên trực tiếp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ chính trị thuộc quyền, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên về chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với đội ngũ sĩ quan trẻ. Đồng thời, trực tiếp tiến hành các hình thức tuyên truyền, giáo dục, nói chuyện thời sự, báo cáo chuyên đề cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị, nhân dân nơi đóng quân về phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Quân đội theo cương vị, chức trách được giao.

Bốn là, phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ sĩ quan trẻ. Thông qua tự học, tự giáo dục, rèn luyện, đội ngũ sĩ quan trẻ củng cố thêm những kiến thức về pháp luật, kỷ luật Quân đội và các kiến thức cần thiết khác. Đồng thời, bồi đắp, cập nhật thêm nhiều kiến thức mới, giúp cho quân nhân không bị hụt hẫng, lạc hậu trước sự phát triển của thực tiễn và sự chống phá của các thế lực thù địch. Từ đó, bồi dưỡng thế giới quan, phương pháp luận, niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, ý thức chấp hành kỷ luật,… góp phần hình thành và phát triển bản lĩnh cho đội ngũ sĩ quan trẻ trước diễn biến phức tạp của tình hình. Vì vậy, cùng với sự giáo dục của tổ chức, đoàn thể, mỗi sĩ quan trẻ phải chủ động xây dựng cho mình kế hoạch, nội dung, biện pháp tự học tập, tự giáo dục, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ đơn vị và chức trách của mỗi người. Thông qua những hoạt động đó, giúp cho đội ngũ sĩ quan trẻ đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu, nhận thức rõ quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc; tìm ra cách thức, biện pháp tự rèn luyện, tự học tập để phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả hơn. Để phát huy tính tích cực, tự giáo dục, tự rèn luyện của sĩ quan trẻ, cần chú trọng xây dựng động cơ đúng đắn, thái độ, trách nhiệm cao trong mọi hoạt động; quan tâm, định hướng, giúp sĩ quan trẻ xây dựng nội dung, kế hoạch, phương pháp tự học tập, rèn luyện một cách khoa học, phù hợp kế hoạch công tác chung của đơn vị; thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, uốn nắn kịp thời những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, v.v.

 

Năm là, xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của sĩ quan trẻ. Trước hết, cần giải quyết hài hòa các mối quan hệ, ứng xử có văn hóa trong đơn vị theo đúng điều lệnh, điều lệ Quân đội; đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Cùng với đó, tổ chức tốt các hoạt động thi đua, khen thưởng gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” và các phong trào, cuộc vận động khác; chú trọng nhân rộng điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt”, mô hình sáng tạo, hiệu quả để nhân rộng và phát huy. Đồng thời, quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần; nhu cầu về đọc báo, đọc sách, văn hóa, văn nghệ, xem phim, thể dục - thể thao, chế độ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí cho sĩ quan trẻ. Những nhu cầu chính đáng đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm, chăm lo giải quyết hài hòa, thỏa đáng, vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị, hợp tình, hợp lý, không máy móc, cứng nhắc. Trên cơ sở đó, khơi dậy, động viên tinh thần, góp phần ngăn chặn các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phòng, chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội hiện nay.Bài 1. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên

Cần phải khẳng định rằng, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân. Trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng tiên phong. Để đấu tranh, bảo vệ thành công nền tảng tư tưởng của Đảng, trước hết phải bảo vệ vững chắc nội bộ. Nội bộ đoàn kết, không dao động, không "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" thì thế lực thù địch dù có nhiều âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt đến mấy cũng khó bề làm lung lạc ý chí, niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Vì thế, việc đầu tiên là cần có biện pháp đấu tranh, khắc phục thực trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ phai nhạt lý tưởng mà còn thiếu niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong mỗi cá nhân, tổ chức thường bắt đầu từ mất niềm tin, mất phương hướng, từ bỏ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tiến tới du nhập tư tưởng, lý luận phi mác-xít, sẵn sàng "trở cờ" phản bội, đưa đất nước đi theo hướng khác, con đường khác phi xã hội chủ nghĩa. Thực tế là nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trong cả nhận thức và hành động của một số người. Nhận thức đó có thể bắt nguồn từ những vấn đề còn chưa tỏ tường về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kết hợp với sự xuất hiện những thế mạnh của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong quá trình toàn cầu hóa. Những điều đó đã tác động mạnh tới nhận thức của một số người, trong đó có một số văn nghệ sĩ, trí thức, làm cho nhận thức của họ trở nên mông lung, như người "đứng giữa ngã ba đường".

THA HÓA QUYỀN LỰC NGUYÊN NHÂN QUAN TRỌNG DẪN ĐẾN THA HÓA ĐẠO ĐỨC



Quyền lực và tha hoá quyền lực
Quyền lực “là quyền hành và thế lực mạnh, đủ để quyết định các công việc: nắm quyền lực trong tay - dùng quyền lực ép người ta phải nghe theo, làm theo”, hiểu khái quát đó là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để bảo đảm việc thực hiện quyền ấy.
Còn tha hóa là:
1. Trở nên khác đi, biến thành cái khác…
2. Trở thành người mất phẩm chất đạo đức, một cán bộ bị tha hóa”. Hiểu theo nghĩa chung nhất, đó chính là cái ban đầu được biểu hiện là cái khác, là hiện tượng làm biến tướng bản chất hoặc mục đích của sự vật, hiện tượng.
Tha hóa quyền lực là căn bệnh của những người có chức, có quyền, vì thế cần phải phòng và chống sự tha hóa quyền lực bằng cách: “1. Kiểm tra, xem xét, nhằm ngăn ngừa những sai phạm các quy định… 2. Đặt trong phạm vi quyền hành và trách nhiệm”
Tiếp cận từ góc độ “phạm vi quyền hành và trách nhiệm”, có thể nhận dạng sự tha hóa quyền lực ở một số biểu hiện cơ bản như sau:
1) Lạm quyền: chủ thể nắm quyền tự cho mình thêm những quyền mà họ không có được khi được trao quyền. Sự “tạo thêm” này là “dạng vượt quá giới hạn”, làm biến dạng quyền lực.
2) Lộng quyền: là sự liều của chủ thể của quyền lực khi “làm” mà không cần biết hậu quả xảy ra thế nào và cũng không sợ trách nhiệm mình phải gánh chịu.
3) Trục lợi từ quyền: hình thành dần trong quá trình thực thi quyền lực, do các chủ thể quyền lực có thể “tranh thủ” chi phối đối tượng để đòi hỏi các lợi ích vật chất và tinh thần cho mình.
4) Độc đoán, chuyên quyền: người được xã hội trao quyền muốn thâu tóm, khống chế quyền lực bằng một cơ chế tập trung quyền lực cao độ về mình; trấn áp tất cả các thế lực chống đối để tuyệt đối hóa quyền lực của mình.
5) Quan liêu: biểu hiện người nắm quyền không bám sát thực tế, không dựa trên những cơ sở thực tế để thực thi quyền lực công mà chỉ nhằm bảo vệ lợi ích ích kỷ của mình, nhóm mình, địa phương mình,v.v..
6) Tuỳ tiện: người nắm quyền hoặc không biết rõ quyền lực của mình đến đâu hoặc cẩu thả trong thực thi quyền được trao mà không ý thức được hậu quả mình gây ra.
7) Tiếm quyền: là biểu hiện người nhận được quyền lực một cách không hợp pháp mà là sự “đoạt được” địa vị của người có quyền lực hợp pháp.
8) Vô trách nhiệm: là thờ ơ hoặc buông xuôi trước trước yêu cầu của việc thực thi quyền lực được trao; thường gây thiệt hại cho xã hội và cho chính người trao quyền.
9) Bất lực: thể hiện trong việc người nắm quyền lực dần mất đi thực quyền hoặc kém khả năng quyết đoán; chỉ có danh mà không có sức mạnh để thực thi ý chí của mình; thường bị thao túng bởi một thế lực nào đó.
10) Tham quyền cố vị: là biểu hiện người có quyền lực bằng mọi cách giữ lại địa vị vốn có mà không từ một thủ đoạn nào để loại trừ đối thủ.
11) Phân tán quyền lực: là sự biến tướng dưới dạng cục bộ địa phương, lợi ích cá nhân, chia bè kéo cánh; làm mất đi tính thống nhất về quyền lực nhà nước cũng như lợi ích của quốc gia, dân tộc,v.v..
Với một chính đảng đã cầm quyền, việc thực thi quyền lực và yêu cầu phải phòng, chống sự tha hóa quyền lực đối với tổ chức đảng, nhất là với các cán bộ, đảng viên được trao quyền giữ các chức vụ trọng yếu trong Đảng, các cơ quan công quyền, các tổ chức chính trị xã hội là nhằm đảm bảo cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành được vận hành hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, ngăn ngừa và phòng, chống các biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đảng cầm quyền ở đây hiểu theo nghĩa là Đảng lãnh đạo Nhà nước và “lãnh đạo” thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ những trọng trách trong tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước, hệ thống chính trị.
Do có quyền lực, người được trao quyền lực dễ bị tha hóa bởi tự coi mình trở thành “hiện thân” của quyền lực - đặt mình lên trên các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Do có quyền lực, người được trao quyền lực dễ bị tha hóa bởi tự coi mình trở thành “hiện thân” của quyền lực - đặt mình lên trên các nguyên tắc tổ chức của Đảng, dẫn đến từng bước vô hiệu hóa vai trò của tổ chức, làm mất đi tính tiên phong của Đảng cách mạng.
Theo đó, người được trao quyền đã vượt quá "phạm vi quyền hành và trách nhiệm" của mình; đã sử dụng quyền lực để chiếm đoạt các giá trị vật chất, tinh thần của xã hội, xâm phạm tới lợi ích của các thành viên khác nhằm mưu cầu cho mình, người thân,v.v..
Tha hóa quyền lực biểu hiện ở nhiều sự việc: từ sự nhũng nhiễu, hạch sách, vòi vĩnh để “tham nhũng vặt” người dân; quan liêu, thờ ơ trước yêu cầu, bức xúc của nhân dân, chậm giải quyết các thủ tục hằng ngày cho người dân ở địa bàn cơ sở,v.v.. đến việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực công vụ để mưu lợi ích, tham ô, “tham nhũng lớn” cho cá nhân, nhóm lợi ích…
Ở chiều cạnh này, sự tha hóa quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ phản ánh sự suy thoái về phẩm chất và năng lực của người cán bộ, đảng viên mà còn phản ánh thực chất mức độ sự suy thoái quyền lực nhà nước mà đảng đang cầm quyền.
Đặc biệt quan tâm vấn xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc: “Đảng là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải thật sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.





NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG BỐI CẢNH MỚI

Một là, dùng thực tiễn để bảo vệ lý luận, lấy thành tựu đổi mới, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân làm chỗ dựa vững chắc cho tư tưởng.

Bản chất của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là thực tiễn như Mác đã từng nói “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”(2). Không một lý thuyết nào có thể đứng vững nếu lý thuyết đó không giúp làm thay đổi thực tiễn theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cũng như vậy, với tư cách là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, trong điều kiện mới của đất nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng ngày càng được khẳng định bằng chính thực tiễn sinh động của Việt Nam.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, học tập, giáo dục và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một thứ tín ngưỡng hay giáo điều cứng nhắc, mà là một học thuyết mang tính mở, sáng tạo, gắn liền với sự phát triển của thực tiễn, hay nói cách khác, là thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Muốn bảo vệ một cách đúng nghĩa nhất phải thực sự sử dụng vũ khí tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải phát huy sức mạnh thế giới quan và phương pháp luận của nền tảng tư tưởng trong hoạt động thực tiễn, nghĩa là phải có ích cho việc phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề của thực tiễn Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải được nuôi dưỡng, bổ sung và phát triển bằng thực tiễn cuộc sống. Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là để vận dụng vào chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, thực tiễn hằng ngày chính là nguồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, tách rời thực tiễn đất nước khỏi nền tảng tư tưởng vừa khiến chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên giáo điều, vừa làm chậm quá trình phát triển bền vững của đất nước.

Ba là, phê phán nền tảng tư tưởng của thế lực thù địch và phản động.

Nhiều nhà tư tưởng phương Tây, từ các góc độ của mình đã tập trung phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Bên cạnh việc thảo luận học thuật, chống lại các luận điệu sai trái, thù địch, việc chống lại các nền tảng tư tưởng của các luận điệu sai trái đó, đấu tranh với các hệ tư tưởng thấm đẫm trong các trào lưu chính trị cũng là một việc làm hết sức quan trọng. Để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần quan tâm và đấu tranh với các hình thức cực đoan của các loại chủ nghĩa khác, như chủ nghĩa tự do mới, chủ nghĩa dân tộc dân túy, chủ nghĩa bảo hộ, chủ nghĩa đế quốc,... Cụ thể, chủ nghĩa tự do mới phản đối sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế, cực đoan hóa vai trò của thị trường tự do, quá thiên về chủ nghĩa cá nhân; chủ nghĩa dân tộc dân túy cực đoan hoá chủ nghĩa dân tộc, đe dọa đến hòa bình và thịnh vượng chung…Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn được đúc kết từ tinh hoa trí tuệ dân tộc và nhân loại, vì vậy phải được sử dụng để đối thoại với các trào lưu tư tưởng tiến bộ hiện nay, để hấp thụ, chuyển hóa và sử dụng những giá trị hợp lý phục vụ cho dân tộc và cộng đồng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời kho tàng trí tuệ nhân loại, không quay lưng với thế giới, không “một mình một kiểu”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không xa lạ với những giá trị của thế giới phương Tây đương đại, như tôn trọng nhân phẩm, tôn trọng tự do, bình đẳng, dân chủ, bác ái, bao dung,... vì những giá trị này cũng chính là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chúng ta không nên chỉ tập trung vào những điểm khác biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết khác mà còn phải nhìn thấy những điểm tương đồng, dù cho cách tiếp cận có thể khác nhau. Có như vậy, chúng ta mới có thể xuất phát từ cao độ của chủ nghĩa Mác - Lênin để lý giải các học thuyết khác, phê phán và tiếp thu các học thuyết ấy nhằm làm phong phú thêm cho hệ tư tưởng mácxít và giải quyết tốt hơn những vấn đề do thực tiễn đặt ra./.VNĐ

NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh diễn ra trong bối cảnh phức tạp, vừa có thuận lợi, vừa không ít khó khăn.

VỀ THUẬN LỢI

Một là, tăng trưởng kinh tế trong những năm qua đã thể hiện rõ nét những thành tựu đổi mới, nâng cao đáng kể chất lượng đời sống nhân dân. Những thành quả của tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội đã khẳng định đường lối xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn. Thực tiễn lịch sử phát triển của nhân loại đã cho thấy, không có con đường nào chỉ có thuận lợi mà không có khó khăn, hay nói cách khác - không bao giờ có con đường chỉ đầy hoa hồng. Chính vì vậy, không thể vì những khó khăn trước mắt mà hoài nghi con đường chân chính - đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã chọn.

Hai là, chính trị, xã hội ổn định, dân trí ngày càng cao, các quyền tự do, dân chủ ngày càng được thực hành rộng rãi trong xã hội. Những giá trị này hoàn toàn phù hợp với lý tưởng của Mác, với tâm nguyện của Hồ Chí Minh. Coi trọng tự do và dân chủ, quá trình dân chủ hóa trong Đảng và dân chủ hóa trong xã hội chính là thành công của tất cả cán bộ, đảng viên, của mọi người dân Việt Nam. Đây là nền tảng để có được sự ổn định của đất nước, đại đoàn kết dân tộc, là tiền đề để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Ba là, nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn, thiết tha quan tâm đến tình hình đất nước. Khác với một số xã hội người dân có thể lãnh cảm với chính trị, chỉ quan tâm đến cá nhân mà không quan tâm đến cái chung thì ngược lại, ở Việt Nam trên nhiều phương diện, tinh thần trách nhiệm xã hội của người dân rất cao. Người dân không chỉ biết đến quyền lợi, mà còn thấu hiểu trách nhiệm, nghĩa vụ công dân của mình; không chỉ biết đến cá nhân mà còn biết đến cộng đồng, đến cái chung; không chỉ quan tâm đến bản thân mình mà còn quan tâm đến người nghèo, người yếu thế trong xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ nghĩa nhân đạo của Mác - Lênin và Hồ Chí Minh.

Bốn là, quá trình hội nhập quốc tế mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới, biết được nhiều kinh nghiệm quốc tế, học được từ nhiều tấm gương của thế giới, tiếp xúc với các hệ giá trị, các tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó vươn lên để khẳng định vị thế Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia đa dạng văn hóa, rộng mở, bao dung, truyền thống này rất thích hợp với yêu cầu hội nhập của xã hội hiện đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ăn sâu bám rễ được ở Việt Nam, hòa quyện với văn hóa Việt Nam chính nhờ tinh thần bao dung này.

NHỮNG KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Một là, xây dựng niềm tin tuyệt đối của dân đối với Đảng, đối với chế độ là vấn đề khó khăn. Nguyên nhân trực tiếp của thách thức trên chính là tệ nạn nhóm lợi ích, tham nhũng. Đặc biệt là “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty... Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”.

Hai là, đã xuất hiện hiện tượng một bộ phận đảng viên, cán bộ và quần chúng nhân dân lơi là, thậm chí coi thường việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xuất hiện khuynh hướng đề cao, tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế, ít chú ý đến củng cố nền tảng tư tưởng. Tính chiến đấu về mặt tư tưởng chưa được đề cao. Xuất hiện tâm lý ngại đấu tranh trên phương diện tư tưởng, lý luận. Một số người coi thường lý luận, chỉ quan tâm đến thực tiễn mà không hiểu rằng lý luận và thực tiễn gắn bó chặt chẽ với nhau không thể tách rời.

Ba là, sự tấn công của các thế lực thù địch và phản động ngày càng tinh vi hơn. Trước đây, các thế lực thù địch và phản động thường xuyên tạc, phủ nhận trực tiếp nền tảng tư tưởng của Đảng, hoặc tấn công cá nhân, bôi nhọ đời tư các nhà kinh điển và các lãnh tụ thì trong thời gian qua, bên cạnh các phương thức cũ, chúng tấn công về mặt lý luận ngày càng nhiều hơn. Ngày càng có nhiều bài viết dài, sâu, đứng trên lập trường, cách tiếp cận phương Tây, trái ngược với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra, ở một mức độ tinh vi hơn, nhiều lý thuyết được dịch, truyền bá vào Việt Nam nhằm pha loãng hoặc nhằm dần thay thế cho hệ tư tưởng chính thống.

Một số kẻ cơ hội chính trị hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội dân chủ và chủ nghĩa dân chủ xã hội, cho rằng chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải đạt được thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng vô sản. Một số người đã phản bác khái niệm nhà nước xã hội chủ nghĩa, phản đối chuyên chính vô sản; phê phán những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, như chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận giá trị thặng dư,... Một số khác lại cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống chưa hoàn chỉnh, các lý luận về mặt triết học, kinh tế, chính trị, xã hội còn nhiều điểm lạc hậu. Tất cả mưu toan thâm hiểm và tinh vi đó của các thế lực thù địch và phản động cần phải bị bóc trần và đấu tranh ngăn chặn.VNĐ