Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2020

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỚI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Thấm nhuần truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập. Đó chính là tư tưởng, đường lối chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Quân đội nhân dân đóng vai trò nòng cốt đối với nhiệm vụ quan trong này.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, ngay từ những ngày đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị đều nhằm thực hiện tốt công tác quốc phòng, quân sự: “Mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng lợi”1. Thực hiện nghiêm sự chỉ đạo đó, các hoạt động xây dựng, triển khai và bố trí các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang tại chỗ (tự vệ chiến đấu, dân quân du kích, công an vũ trang) và nhân dân trên từng địa bàn nhanh chóng được hoàn thành - cơ sở khoa học, điều kiện tiên quyết để ngăn chặn, đánh bại các trận càn, những cuộc hành binh của quân viễn chinh Pháp. Nổi bật như: cuộc chiến đấu 60 ngày đêm bảo vệ Thành Hà Nội (cuối năm 1946) của Trung đoàn Thủ Đô cùng lực lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân Hà Nội. Hoặc, việc tạo lập thế trận phản công linh hoạt của Bộ Tổng Chỉ huy trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, góp phần quyết định làm nên thắng lợi vang dội, đánh bại cuộc tiến công chiến lược của thực dân Pháp lên vùng Chiến khu Việt Bắc, giữ vững căn cứ địa cách mạng, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến.

Thực tiễn đó cho thấy, tuy các hoạt động quốc phòng trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các hoạt động quân sự bảo vệ căn cứ địa cách mạng, hậu phương kháng chiến, giành và giữ dân, mở rộng vùng giải phóng,... nhưng đã khẳng định hiệu quả to lớn về tư tưởng chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ đất nước; trong đó, các đơn vị Vệ quốc đoàn, các Chi bộ Nam tiến, bộ đội chủ lực của Bộ và các khu,... giữ vai trò là lực lượng chủ yếu, cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.

Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện đường lối chiến lược về xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng của Đảng, Tổng Quân ủy chỉ đạo toàn quân hoàn thành chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Đồng thời, khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, cải tiến vũ khí, trang bị, đẩy mạnh thực hiện kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,... sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và tay sai”2. Cùng với phát triển lực lượng lục quân chính quy và các đơn vị binh chủng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - Không quân nhanh chóng được kiện toàn về tổ chức3, xây dựng, phát triển và triển khai bố trí lực lượng theo kế hoạch phòng thủ thống nhất, hình thành thế trận bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa cả trên bộ, trên biển và trên không. Vì thế, mặc dù kẻ địch sử dụng nhiều thủ đoạn xảo trá để tạo cớ, hay dựa vào sức mạnh vượt trội của vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại, mở rộng chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng hải quân, không quân,... nhưng đều bị đánh bại, bởi thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở miền Bắc đã nhanh chóng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển.

Ở miền Nam, thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân bằng bạo lực vũ trang, hệ thống chỉ huy quân sự được củng cố, ngày càng phát triển ở các cấp. Đặc biệt, với sự ra đời của các đơn vị bộ đội chủ lực Miền (B2), Khu 5 và sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, quân, dân miền Nam đã khôn khéo từng bước tạo lập thế trận vững chắc, hiểm hóc và rộng khắp, đánh bại các cuộc càn quét, các chiến dịch,… của địch ra vùng giải phóng. Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, Quân đội ta đã xây dựng được các sư đoàn chủ lực cơ động mạnh, đứng vững trên các địa bàn chiến lược, sau đó phát triển thành các quân đoàn, binh chủng, có thể tiến hành tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn, tạo thế, lực, thời cơ chín muồi, có một không hai để tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, Quân đội vừa tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa chấn chỉnh tổ chức biên chế, bố trí lại lực lượng trên các vùng, miền, xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, đồng thời bước vào hai cuộc chiến đấu ở biên giới Tây Nam và phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, Quân đội thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài. Chủ trương nhất quán của Đảng là đẩy mạnh xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”; chủ động điều chỉnh thế bố trí chiến lược; kết hợp thế trận tại chỗ với thế trận cơ động, thế trận rộng khắp với thế trận trọng điểm, tập trung cho hướng, khu vực, địa bàn chiến lược; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc./.

VH.

 

 

 “DÂN SỰ HÓA QUÂN ĐỘI” - MỐI NGUY HẠI KHÔN LƯỜNG

Gần đây, trên mạng xã hội, diễn đàn truyền thông và thậm chí ở một số nghị trường, cụm từ “dân sự hóa quân đội”, “dân sự hóa hoạt động quân sự” xuất hiện, gây ra không ít tranh luận đa chiều. Đáng lo ngại là việc nhận thức về nội hàm, bản chất của cụm từ này chưa đầy đủ, thậm chí còn sai lệch nghiêm trọng-được xem là dấu hiệu ban đầu nhưng khá rõ nét của biểu hiện “tự diễn biến” trong chính một bộ phận cán bộ, đảng viên về vai trò, vị trí, chức năng và đặc thù hoạt động của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam.

Trước hết, đó là những “hiến kế” phiến diện về việc cân đối lại ngân sách quốc gia, theo hướng giảm tỷ lệ GDP đầu tư cho hoạt động quân sự và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Các ý kiến này cho rằng, nên “dân sự hóa quân đội” theo “lối” phát huy đơn thuần các nguồn lực xã hội để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà không nên tập trung đầu tư xây dựng “đội quân chủ lực”, gây ảnh hưởng đến nguồn lực đầu tư cho phát triển kinh tế.

Đây thực chất là cách nhìn thiển cận, phiến diện, chưa thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Hơn nữa, đặt trong mối quan hệ giữa “xây dựng” và “bảo vệ” Tổ quốc, thì yếu tố bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định là điều kiện cơ bản, tiên quyết để đất nước ổn định, phát triển về kinh tế và các lĩnh vực khác. Như vậy, nếu không đầu tư chăm lo, xây dựng quân đội thì cũng đồng nghĩa với việc xem nhẹ, hạ thấp nhiệm vụ BVTQ.

Với chủ trương thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và BVTQ, việc sử dụng ngân sách nhà nước cho hai nhiệm vụ này được Đảng, Nhà nước nghiên cứu, tính toán rất kỹ lưỡng, làm sao để bảo đảm trong điều kiện cụ thể có thể hoàn thành tốt hai nhiệm vụ chiến lược. Trên thực tế, do những khó khăn khách quan của tài chính quốc gia, việc đầu tư xây dựng quân đội vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu tiến nhanh lên chính quy, hiện đại của quân đội. Trong khi đó, với chủ trương chủ động phát huy nội lực, khắc phục khó khăn, QĐND Việt Nam luôn sử dụng nguồn kinh phí hiệu quả nhất cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Từ năm 1998 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần công bố “Sách trắng về quốc phòng Việt Nam”. Đây là căn cứ quan trọng để nâng cao hiểu biết về quốc phòng đất nước cho công dân Việt Nam, góp phần làm cho mọi tổ chức, cá nhân hiểu rõ hơn quyền lợi, trách nhiệm trong tham gia công cuộc củng cố quốc phòng, vì sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.

Một biểu hiện “tự diễn biến” nghiêm trọng nữa là không ít cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận thức hời hợt, chưa đầy đủ về tính chất, yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới; chưa thấy rõ diễn biến phức tạp, mau lẹ của tình hình thế giới, khu vực, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nguy hại cả tiềm tàng lẫn trực tiếp đến nhiệm vụ BVTQ. Với chức năng, nhiệm vụ được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng, giúp có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó; nhất là bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Ở đây, cần hiểu rất đúng, đủ về chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD) và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội-“công cụ bạo lực” bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ chế độ và nhân dân trong mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong các LLVT, xét về chiến lược cũng phải từng bước được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trước tiên và trên hết phải đặc biệt ưu tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của nền QPTD.

Một đội quân với chức năng là công cụ bạo lực phải nhất thiết được xây dựng theo hướng tinh nhuệ, hiện đại; có đủ năng lực xử lý các tình huống phức tạp. Đó là lý do vì sao Trung ương, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán xây dựng quân đội “cách mạng”, nhưng đồng thời chú trọng xây dựng tiến lên “chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”. Nghị quyết Trung ương khóa XI, XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu tiên xây dựng một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đó là mục tiêu khách quan, là đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.

Như vậy, những nhận thức nêu trên là hoàn toàn sai lệch, gây nhiều nguy hại trong nhận thức và hành động. Đó là một cách đánh mất, hạ thấp chức năng, nhiệm vụ của quân đội, mà trước hết là chức năng đội quân chiến đấu. Không thể đánh đồng khái niệm “dân sự hóa quân đội” với chủ trương phát huy sức dân trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Đây là "hướng tư duy" có nguyên nhân do sự thiếu hiểu biết của một số cán bộ, đảng viên, nhưng thường bị các thế lực thù địch tận dụng, khai thác triệt để; dùng nhiều ngón đòn và các chiêu thức khác nhau, với nhiều giọng điệu khác nhau-khi thì đứng hẳn về phía đối lập ra sức và trực diện chống phá, khi thì như “người trong cuộc” thể hiện “thiện chí”, “tâm huyết” đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, cố gắng “khuyên nhủ” phải đẩy nhanh “dân sự hóa quân đội”.

Từ việc không nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của QĐND Việt Nam, một số ý kiến đưa ra lập luận, so sánh mức lương của sĩ quan quân đội và các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực quân sự với thu nhập của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nói chung. Đáng buồn là từ những ý kiến chưa toàn diện ấy, một bộ phận quần chúng do thiếu thông tin nên đã “a dua”, “cổ xúy”, “thêu dệt”… thông qua các trang mạng xã hội và tin đồn xã hội, tạo nên những luồng thông tin khó phân biệt đúng sai, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tâm lý xã hội.

Nguyên nhân của hiện tượng này trước hết bắt đầu từ việc chưa hiểu đúng về tính chất, đặc thù hoạt động quân sự gắn với tình hình đất nước và yêu cầu BVTQ ngày càng cao. Phản ứng lại ý kiến này, ngay trên nghị trường Quốc hội, nhiều đại biểu đã phân tích rõ đặc thù hoạt động 24/24 giờ của cán bộ, chiến sĩ quân đội; với tính chất, cường độ ác liệt, khó khăn, thử thách con người trên nhiều phương diện; đòi hỏi sự đánh đổi không chỉ bằng mồ hôi mà còn bằng máu của cán bộ, chiến sĩ. Các ý kiến đều thống nhất cho rằng, lương của sĩ quan quân đội chỉ là nguồn thu nhập duy nhất và mức lương ấy cũng còn quá thấp so với lương sĩ quan quân đội các nước trên thế giới, chỉ bảo đảm mức sống trung bình so với đời sống xã hội Việt Nam hiện tại.

Như vậy, vấn đề ở đây là vì không thấy hết tính chất hoạt động quân sự mà sinh ra "phủ nhận” vai trò và đóng góp của cán bộ, chiến sĩ quân đội. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm, trách nhiệm của những người đang trực tiếp thực hiện nhiệm vụ BVTQ. Thực tế cho thấy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, dù trong điều kiện thời bình nhưng vẫn có không ít cán bộ, chiến sĩ quân đội anh dũng hy sinh vì chủ quyền Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân, trở thành những tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng giai đoạn mới, được xã hội và quần chúng tôn vinh, trân quý.

Trong dịp này, Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X vừa diễn ra thành công tốt đẹp. Tại đây, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội vinh danh hàng trăm điển hình tiên tiến-những tập thể, cá nhân ngày đêm cần mẫn hy sinh cho lợi ích quốc gia, dân tộc, BVTQ, phục vụ nhân dân. Đó là hình ảnh những con người hành quân vào vùng bão lũ cứu dân; đi ngược dòng người “tránh” đại dịch Covid-19, đến với biên cương chốt chặn, đẩy lùi dịch bệnh. Đó là những cán bộ, chiến sĩ chắc tay súng, ngày đêm bảo vệ vùng biển, vùng trời; những người phải chịu thương tật, thậm chí hy sinh khi đấu tranh với tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân và nền hòa bình cho đất nước, khu vực.

Như vậy, “đánh đồng” tính chất hoạt động quân sự với hoạt động nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ, công chức trên lĩnh vực dân sự là một cách tư duy hoàn toàn không đúng với thực tế, cần phải được khắc phục triệt để. Thay vào đó, cần phải thống nhất nhận thức từ Trung ương đến địa phương, từ cán bộ đến quần chúng về đặc thù hoạt động quân sự; cần thấu hiểu, chia sẻ và sớm có thêm những chủ trương, giải pháp mới, đồng bộ, cùng với những hành động thiết thực của toàn xã hội nhằm giúp đỡ, hỗ trợ tốt hơn cho cán bộ, chiến sĩ đang thực hiện nhiệm vụ BVTQ; kịp thời động viên, quan tâm hơn nữa đến tư tưởng, tình cảm, đời sống vật chất của cán bộ, chiến sĩ.

Các biểu hiện tư tưởng, tư duy, nhận thức nêu trên, khi vừa nghe qua, có thể giản đơn nhận định đây chỉ là những biểu hiện đơn lẻ, vô hại, nhưng xét về thực chất, nhận diện một cách sâu sắc, có thể khẳng định: Đây là một khuynh hướng sai lệch nghiêm trọng trong nhận thức và tư duy, mang lại nhiều hệ lụy và hậu quả to lớn, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của quân đội; tác động trực tiếp đến kết quả xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chi phối nghiêm trọng đến công cuộc xây dựng nền QPTD và tiềm lực sức mạnh quân sự đủ mạnh đáp ứng yêu cầu BVTQ trong tình hình mới.

Để đẩy lùi các biểu hiện nêu trên, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp cần chú trọng giáo dục, tuyên truyền uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những nhận thức lệch lạc; quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng quân đội; kiên quyết khắc phục các hiện tượng thụ động, hoặc chỉ hô hào chung chung mà trên thực tế không đấu tranh với những lập luận “dân sự hóa quân đội” như thời gian qua. Cần vạch rõ bản chất phản khoa học và tính chất nguy hiểm, cùng những tác hại của những quan điểm nêu trên. Cần tổ chức lực lượng đấu tranh, tranh luận, đối chất, chất vấn với những cán bộ, đảng viên, quần chúng có cách suy nghĩ thiển cận; nâng cao tính Đảng, tính chiến đấu, tính khoa học, sự nhạy bén và sắc sảo trong kết hợp đấu tranh phòng, chống các xu hướng “dân sự hóa quân đội” với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính hàng ngũ cán bộ, đảng viên.

Cùng với đó, các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng, nhất là lực lượng ở các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường quân đội chú trọng tổ chức nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về vấn đề “dân sự hóa quân đội” một cách khách quan, toàn diện. Có thể phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền trong đội ngũ, coi trọng chia sẻ tài liệu, tri thức trên các diễn đàn truyền thông, báo chí và thậm chí là ở diễn đàn nghị trường chính thức, kết hợp với phát huy tuyên truyền miệng và các hình thức tuyên truyền khác. Cần có chính sách rõ ràng, phù hợp, hợp lý cả về vật chất và tinh thần, có cơ chế xuất bản, phát hành rộng rãi những sản phẩm đấu tranh tư tưởng, lý luận, phòng, chống xu hướng này; sớm công khai, công bố rộng rãi, góp phần thống nhất nhận thức, tư duy chính thống.

Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp tiếp tục đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ dân trí, tạo ra sự “miễn dịch” trong cộng đồng, tăng sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luồng tư tưởng, tư duy sai lệch về tính chất đặc thù hoạt động quân sự; về vai trò, vị trí, chức năng của QĐND Việt Nam; tin tưởng sâu sắc vào truyền thống, bản chất của QĐND Việt Nam anh hùng và phẩm chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới. Làm được như vậy thì dù các thế lực thù địch có chống phá quyết liệt; âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội có thâm độc và tinh vi như thế nào chăng nữa, dù những nguy cơ và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có phức tạp, chi phối tiêu cực thì cũng sẽ bị vô hiệu hóa.

DC.

 

 

TỪ BỎ "CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN" - SỰ ĐÒI HỎI PHI LÝ

Gần đây, trên các trang mạng xã hội, một số người lại gióng lên bài ca cũ, rằng: Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn giá trị, đã mất ý nghĩa và tác dụng. Họ khuyên Đảng Cộng sản Việt Nam không nên lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam; không thể dựa vào chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp. Đảng cần “thay máu” cho hệ tư tưởng và tìm một con đường khác để phát triển đất nước theo gương chủ nghĩa tư bản. Vậy họ là ai? Tại sao họ phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, coi chủ nghĩa Mác - Lênin đã “cáo chung” kể từ sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Xô-viết ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ? Dựa vào đâu họ cao giọng tuyên bố rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã cũ, đã lỗi thời, lạc hậu, không còn đóng vai trò là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam?

Trước hết, không khó để nhận thấy họ là những người chống Đảng, chống chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì lẽ đó, họ bất chấp sự thật; hơn thế, còn cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật, mưu toan “đánh tráo khái niệm”, “tung hỏa mù”, dùng phép ngụy biện để lừa gạt những người “nhẹ dạ cả tin” do trình độ nhận thức, sự hạn chế trong hiểu biết về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Sự thật là chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những năm 40 của thế kỷ XIX ở nước Đức, trong những điều kiện lịch sử cụ thể gắn với sự phát triển chín muồi của điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, gắn với các tiền đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,… của châu Âu thời ấy. Đương nhiên, bối cảnh lịch sử khi đó hoàn toàn khác bối cảnh lịch sử ngày nay. Những người có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta đã bám vào sự kiện ấy để thổi phồng tính lịch sử và vu khống rằng, quan điểm của C. Mác và Ph.Ăng-ghen không còn phù hợp với cuộc sống đương đại, thời toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng ở Liên Xô và các nước Đông Âu theo học thuyết Mác - Lênin đã sụp đổ. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời. Mặt khác, những hạn chế, khuyết tật của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và một số nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã mắc phải chứng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học của C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin là không tưởng, vô tác dụng, vậy không nên cứ khư khư “bám giữ, níu kéo”. Họ tuyên bố rằng, Việt Nam muốn “cất cánh”, phát triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì cách tốt nhất là phải theo con đường tư bản chủ nghĩa mà các nước phát triển đã đi qua; rằng, Việt Nam nên học tập kinh nghiệm của các nước phát triển và do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào “bảo tàng lịch sử”.

Chúng ta biết rằng, C.Mác, Ph.Ăng-ghen sáng lập chủ nghĩa Mác trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đặc biệt là đã kế thừa những “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng duy tâm khách quan của Hê-ghen, chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoi-ơ-bắc; học thuyết kinh tế chính trị của A.Smith và D. Ri-các-đô; những tư tưởng tiến bộ về xã hội của các nhà tư tưởng Pháp: Xanh-xi-mông, Phu-riê, O-wen và những phát minh “vạch thời đại” của khoa học tự nhiên. Đồng thời, với kết quả lao động khoa học nghiêm túc, kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã sáng lập chủ nghĩa Mác - một học thuyết khoa học, cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Đây là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, con đường, lực lượng, phương thức, biện pháp và điều kiện đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người và giải phóng nhân loại. Vì vậy, V.I.Lênin đã nhận xét sâu sắc rằng, giống như Đác-uyn đã vạch ra quy luật phát triển của giới tự nhiên, C.Mác đã vạch ra quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người; C.Mác vĩ đại vì ông “đứng trên vai của những người khổng lồ”. Vì vậy, từ buổi đầu, học thuyết Mác chỉ là một “bóng ma ám ảnh châu Âu”, song đã sớm trở hành hệ tư tưởng thống trị phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vào những năm 70 của thế kỷ XIX ở châu Âu và nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới.

Trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lê-nin đã kế thừa, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác ở nước Nga trên cả ba phương diện: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học, làm sâu sắc và giải đáp rõ ràng nhiều vấn đề mới mà các bậc tiền bối và thời đại đặt ra; đáng kể là học thuyết về khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt, nơi tập trung những mâu thuẫn cơ bản của hệ thống tư bản chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã xây dựng học thuyết về chính đảng mác-xít kiểu mới, cùng với Đảng Bôn-sê-víc Nga, đã lãnh đạo nhân dân Nga làm cuộc Cách mạng Tháng Mười thành công năm 1917, mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Qua đó, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga và Liên bang Xô-viết.

Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Đó là sự thật hiển nhiên, biểu hiện sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin mà bất kể ai, hễ là người có lương tâm, danh dự, đều phải thừa nhận và không thể chối cãi, không thể bác bỏ sự thật ấy. Những thành tựu mà nhân dân Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó có Việt Nam đạt được, đã và đang chứng minh sức sống diệu kỳ của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng chân chính, đã chỉ ra những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thực hiện tiến bộ xã hội.

Phát hiện ra quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người, chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rõ lập trường, thế giới quan, nhân sinh quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của những người cộng sản là xóa bỏ ách thống trị của giai cấp bóc lột, tệ nạn người áp bức, bóc lột người mà chủ nghĩa tư bản gây ra. Điều đó hoàn toàn phù hợp với ước mơ, khát vọng sống hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của hàng tỷ người trên hành tinh. Bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin còn thể hiện ở chỗ: dự báo về một xã hội tương lai mà tất yếu lịch sử của nó sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn.

Thực tế đau xót, phản lại sự tiến bộ xã hội đang diễn ra trong các nước đã từng là chủ nghĩa xã hội, chuyển sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đã phản ánh đúng tính quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người mà C.Mác, Ph.Ăng-ghen và V.I.Lênin đã vạch ra. Nó chứng minh rằng, trong điều kiện cách mạng vô sản đã thắng lợi, Đảng Cộng sản đã cầm quyền, nhưng do chủ quan duy ý chí, do mắc mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, vi phạm thô bạo nguyên tắc mác-xít, thì kết cục đều dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng, Đảng Cộng sản bị mất quyền lãnh đạo, thành quả cách mạng giành được bằng xương máu của quần chúng nhân dân sẽ bị tước đoạt. Hệ lụy đau xót ấy là minh chứng thuyết phục về sự làm sai, phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trong thế kỷ XXI, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, mặc dù chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh và thích nghi với điều kiện mới, song, bản chất bóc lột, bất công, phi nhân tính vốn có của nó là không thể che giấu, mà ngược lại, càng thể hiện rõ hơn. Những hành vi xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trước đây và ngày nay dưới mọi hình thức, dù được che đậy kín đáo, tinh vi đến mức nào thì nó vẫn lộ nguyên hình của kẻ ăn cướp. Chúng tiếp tục làm bằng mọi cách để mở rộng tầm ảnh hưởng, sự thống trị nhằm chiếm đoạt các nguồn tài nguyên, của cải và ép buộc các nước nhỏ khuất phục ngày càng bộc lộ rõ hơn. Các cuộc chiến tranh ở Nam Tư, Áp-ga-ni-xtan, I-rắc, Xy-ri, Ly-bi và nhiều nước khác thời gian gần đây cho thấy điều đó.

Nếu nhìn nhận từ góc độ nhân văn và chứng kiến những đau thương, chết chóc của hàng nghìn người dân vô tội ở các nước Trung Đông, Bắc Phi thì thấy, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thật sự là nhân văn, là ước mơ, khát vọng sống hòa bình của hàng triệu người dân lương thiện, có lương tâm với tình thương yêu nhân loại. Những điều tốt đẹp ấy thể hiện đầy đủ, sâu sắc, toàn diện trong chủ nghĩa Mác - Lênin về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Với công lao và đóng góp to lớn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học; đã tìm ra quy luật vận động, phát triển của lịch sử loài người. V.I.Lênin đã chuyển lý luận khoa học, cách mạng của C.Mác thành thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Tất cả điều ấy là sự kết tinh, được hình thành từ những yếu tố thực tiễn của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong lòng chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là một học thuyết khoa học và cách mạng, phù hợp cả về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng, cả về tính nhân văn đích thực mà loài người cần hướng đến, phấn đấu đạt được.

Ai đó cố tình quy kết, rêu rao sự lỗi thời, lạc hậu và hướng tới phủ nhận giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin là chính họ đã “bán mình cho quỷ dữ”. Chủ nghĩa Mác - Lênin không lỗi thời mà chính những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin mới là những kẻ lỗi thời, cố tình không nhìn thấy bản chất khoa học, cách mạng và giá trị nhân văn cao cả của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với thái độ thù địch và dã tâm đen tối, họ đã rắp tâm xuyên tạc, dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để “bóp chết” chủ nghĩa Mác - Lênin vì lý do chính trị, vì sự đố kỵ và hèn hạ về nhân cách với mưu đồ xấu xa, bỉ ổi và nhằm để bảo vệ chủ nghĩa tư bản, duy trì chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Trong đó, vì lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị mà những người đứng ra bảo vệ nó đang được các ông chủ tư bản bố thí và thụ hưởng.

Chúng ta không phủ nhận rằng, ở mặt này mặt khác, chủ nghĩa Mác - Lênin có một số luận điểm đến nay không còn phù hợp, vì điều kiện đã thay đổi, lịch sử đã vượt qua, hoặc là sự lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu, chưa nhận thức đầy đủ, chưa vận dụng đúng đắn, sáng tạo để giải quyết những vấn đề cụ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo quy luật phát triển nhận thức, chúng ta sẽ khám phá ra những bí mật của thế giới khách quan, tự vạch đường đi tới nhằm thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Không thể võ đoán và vu khống rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã lỗi thời khi cứ khư khư bám giữ lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và bất chấp quy luật khách quan”; đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, thay vào đó là hệ tư tưởng tư sản.

Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự phát triển vững mạnh của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô, ở Đông Âu và nhiều nước trên thế giới đã khẳng định tính ưu việt, sự vượt trội và những giá trị chân chính, tốt đẹp đem lại cho nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Sự thật ấy có sức mạnh diệu kỳ và là nguồn lực vật chất, tinh thần vô cùng to lớn để động viên, cổ vũ lực lượng yêu chuộng hòa bình đứng lên đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Không thể quy kết sự sụp đổ của một mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể của Liên Xô hay Đông Âu là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin - một học thuyết khoa học, cách mạng. Mà trái lại, chính sự sai lầm và sự đổ vỡ ấy càng khẳng định tính đúng đắn về bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và dự báo về tương lai, tiền đồ tốt đẹp mà nhân loại phải hướng tới, đạt được.

Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã làm nên Cách mạng Tháng Tám thành công, đã đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, tiến hành xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tất cả những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ấy không tách rời chủ nghĩa Mác - Lênin. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ai đó mưu toan đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin là một sự đòi hỏi phi lý, nhằm dụng ý xấu. Cuộc sống vốn công bằng, “nhân nào quả ấy”, “kẻ gieo gió ắt gặt bão”.

NS.

 

 

 

 

 

 

 


Nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật

         Văn học, nghệ thuật đã và đang đồng hành cùng lịch sử dân tộc, phát huy sứ mệnh nuôi dưỡng, bồi đắp những tư tưởng, tình cảm nhân văn, trong sáng, cổ vũ, tập hợp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, văn học, nghệ thuật cũng là “mảnh đất” thường bị các thế lực thù địch lợi dụng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm gieo rắc những tư tưởng phản động, chống phá Đảng và chế độ ta. Do đó, nhận diện để đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật là việc làm rất cần thiết hiện nay.

Trong những năm tháng chiến tranh, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ văn nghệ sĩ đã đồng lòng, quyết tâm, nguyện đứng dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng, đồng hành cùng nhân dân bằng những tác phẩm nghệ thuật để truyền tải hơi thở và tinh thần thời đại, phản ánh một cách chân thực, sinh động công cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, sức mạnh của tình quân dân, ngợi ca tinh thần lạc quan cách mạng... Bằng những trải nghiệm thực tiễn trong những đợt hành quân, trong những trận chiến đấu, nhiều văn nghệ sĩ - chiến sĩ đã viết nên những tác phẩm bằng cả tinh thần, trái tim quả cảm, bằng mồ hôi, xương máu của mình để ghi lại những phút giây, những con người lịch sử. Từ khi Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới (năm 1986) đến nay, lực lượng sáng tác văn học, nghệ thuật ở nước ta ngày càng trưởng thành, được bổ sung nguồn sáng tác dồi dào từ những người viết trẻ thuộc nhiều thế hệ. Họ được đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và bản lĩnh cách mạng, ý thức rõ về tâm thế, trách nhiệm của người cầm bút. Đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ văn nghệ sĩ được cải thiện, nâng cao với nhiều chính sách ưu đãi về nhuận bút; biên chế, môi trường, điều kiện làm việc được quan tâm; nhiều chính sách về bảo hộ quyền tác giả, sở hữu trí tuệ được ban hành; văn nghệ sĩ có nhiều cơ hội để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia có nền văn học, nghệ thuật phong phú. Số lượng, chất lượng các tác phẩm nghệ thuật ngày càng được nâng cao, đa dạng về chủng loại, loại hình, mẫu mã, hình thức bởi công nghệ in ấn, xuất bản, phát hành ngày càng hiện đại, nhanh chóng, thuận tiện, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp công chúng.

Cùng với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, trong đó có văn học, nghệ thuật đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tạo nền tảng tinh thần phong phú, vững chắc góp phần bồi đắp tư tưởng, tình cảm, lối sống tốt đẹp cho con người. Bên cạnh những thành tựu đạt được, văn học, nghệ thuật những năm qua cũng phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức từ những tác động trái chiều của bối cảnh, tình hình phức tạp trong và ngoài nước, nhất là khi các thế lực thù địch, phản động lợi dụng văn học, nghệ thuật để xuyên tạc, chống phá, đả kích về Đảng và chế độ. Không ít hiện tượng văn học, nghệ thuật tiêu cực nảy sinh, chạy theo một số chiều hướng, như phủ nhận thành tựu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, kích động sự thù hằn, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gieo rắc tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; “hạ bệ thần tượng”…, đi sâu khai thác những câu chuyện đời tư của các anh hùng dân tộc, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước theo hướng thêu dệt, thổi phồng, bóp méo. Hầu hết các tác phẩm này được in ấn, xuất bản ở nước ngoài với sự tài trợ của các nhóm, thế lực công khai chống đối Đảng, Nhà nước ta. Bằng những chiêu thức quảng bá mang tính giật gân, câu khách, những tác phẩm này đã kích thích sự tò mò, chú ý của nhiều bạn đọc, tạo những nhận thức sai lệch về cuộc chiến tranh chính nghĩa giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Không chỉ trong phạm vi văn chương mà trong các loại hình nghệ thuật khác, như âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, một số ca sĩ, nghệ sĩ cũng bị chi phối bởi cái nhìn lệch lạc, bị giật dây bởi các thế lực thù địch trong và ngoài nước, từ đó viết những ca khúc đi ngược lại giá trị chân - thiện - mỹ, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, thậm chí mang tư tưởng phản động. Trong bối cảnh công nghệ thông tin, in-tơ-nét, mạng xã hội phát triển như hiện nay, trên không gian mạng xuất hiện không ít sản phẩm mang tính đồi trụy, phản động. Phương thức, thủ đoạn dùng văn học, nghệ thuật để cổ súy cho những tư tưởng phản động, sai trái không chỉ diễn ra ở trong nước mà bằng sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông hiện đại, truyền thông đa phương tiện ở nước ngoài, các thế lực thù địch đã mở nhiều chuyên trang về văn học, nghệ thuật gieo rắc những tư tưởng, quan điểm lầm lạc, gây những hệ lụy xấu trong nhận thức của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ về lịch sử, truyền thống dân tộc, về lãnh tụ của đất nước. Đây được xem là một trong những nguy cơ lớn cần được nhận diện và xử lý để làm lành mạnh, trong sạch đời sống văn hóa, văn nghệ ở nước ta hiện nay.

Chính vì thế, việc quán triệt tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng đối với đội ngũ văn nghệ sĩ các cấp cần được triển khai một cách nhất quán, theo các nội dung, chủ đề, chủ điểm phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành, với nội dung, hình thức đa dạng, phong phú. Tạo mọi điều kiện để phát huy trí tuệ, sức sáng tạo và hướng ngòi bút của văn nghệ sĩ vào phục vụ lợi ích nhân dân, lợi ích quốc gia, dân tộc. Tăng cường kết nối, phối hợp từ Trung ương đến địa phương (cấp tỉnh) và giữa các hội chuyên ngành của các địa phương; trao đổi thông tin giữa các vùng, miền, nhất là những nơi thường có các vụ, việc nhạy cảm, phức tạp, vùng biên giới... để kịp thời nhận diện âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận văn nghệ sĩ /.

VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU “MƯỢN GIÓ BẺ MĂNG”.


Sau  vụ việc 39 người Việt Nam thiệt mạng trong container khi tìm đường vào nước Anh đã trở thành một sự kiện thu hút sự chú ý của dư luận Việt Nam và thế giới. Tuy nhiên, trong khi các nạn nhân chưa được nhận dạng chính thức, chính quyền nước Anh và cộng đồng quốc tế đang nỗ lực để xác thực về danh tính các nạn nhân, nhiều người Việt ở trong và ngoài nước đón nhận thông tin một cách thận trọng, có lý có tình thì lợi dụng sự việc, một số phần tử cơ hội, chống đối có cái nhìn phiến diện để quy chụp, xuyên tạc Việt Nam là “quốc gia buôn bán người”, “chế độ chính trị xã hội ở Việt Nam đã khiến người dân phải bỏ quê hương mà đi”, “báo hiệu cái chết đang đến dần của chế độ xã hội chủ nghĩa”... 

Không ít người dân do không nắm rõ sự việc hoặc vì tâm lý a dua cũng đã có những bình luận sai lệch, cổ suý cho luận điệu chống phá của kẻ địch. Những luận điệu “cả vú lấp miệng em”, làm rối loạn tình hình, tạo hình ảnh méo mó về chế độ, đất nước Việt Nam.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã lập tức giao Bộ Công an phối hợp Bộ Ngoại giao, UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, các địa phương và cơ quan liên quan khẩn trương xác minh, làm rõ vụ việc để có biện pháp xử lý phù hợp luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế; điều tra phát hiện các vụ đưa công dân Việt Nam xuất cảnh trái phép ra nước ngoài để xử lý hành vi vi phạm. Song, trong khi nhà chức trách nước Anh chưa công bố thông tin về quốc tịch của 39 người đã mất, thì trên internet, đặc biệt là mạng xã hội, đã xuất hiện nhiều tin tức cho rằng nạn nhân là người Việt Nam. Và lợi dụng việc xảy ra rất đau lòng này, một số phần tử cơ hội, thù địch đã nhân cơ hội đưa tin với ác ý nhằm mục đích chính trị, nói xấu Nhà nước Việt Nam làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, làm cộng đồng quốc tế nghĩ sai về Việt Nam từ đó làm mất ổn định về ANCT, TTATXH gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong đó điển hình là ngày 10/11, chỉ sau 3 ngày cảnh sát Anh công bố 39 người thiệt mạng là người Việt Nam linh mục Đặng Hữu Nam quản giáo xứ Mỹ Khánh thuộc giáo xứ Nghệ An đã đăng trên trang cá nhân Facebook nói rằng chính phủ Anh hỗ trợ chi phí cho các gia đình có thân nhân thiệt mạng tại hạt Essex của Anh với số tiền lên tới 25.000 euro cho mỗi gia đình để chuyển thi thể từ Anh về Việt Nam. Trắng trợn hơn là ông này còn vu cáo cho cho  phía cảnh sát Việt Nam bắt tay với cảnh sát Anh  ép các gia đình nạn nhân đồng ý mang tro cốt về nước thay vì thi thể nguyên vẹn để ăn tiền chênh lệch. Đây là luận điệu xuyên tạc sự thật mà chỉ càn một người bình thường khi kiểm chứng lại thông tin sẽ nhận ra rằng không có nguồn tin thực tế nào như vậy cả. Có thể khẳng định Linh mục này đã phạm  tội bôi nhọ, vu khống, thông tin sai sự thật; căn cứ vào luật hình sự của Việt Nam kẻ nào có ý đồ xấu xuyên tạc bôi nhọ người khác phải xử lý nghiêm, cần thiết phải dùng bộ luật hình sự. Chúng ta phải nói rõ cho hơn 7 triệu người tín đồ Công giáo Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam trong và ngoài nước biết sự việc một chức sắc tôn giáo ở Giáo phận này đã tung tin sai sự thật với mục đích cơ hội chính trị và  phải yêu cầu linh mục này đính chính công khai xin lỗi.

 Cũng lợi dụng vụ việc này một số phần tử tung tin sự việc đáng tiếc nêu trên là việc hệ quả của việc đảng chính phủ Việt Nam không quan tâm đến xóa đói giảm nghèo buộc người dân phải bỏ quê hương đi nước ngoài bằng con đường bất hợp pháp và dẫn đến bi kịch. Nhưng sự thật có đúng như vậy? Đi tìm câu trả lời  các cơ quan chức năng đến địa phương có số người đi lao động nước ngoài nhiều nhất đó là huyện Nghi Xuân- Hà Tĩnh thì được biết điều kiện kinh tế xã hội ở đây những năm gần đây có bước phát triển mạnh mẽ, chương trình xoá đói giảm nghèo đã thu được nhiều thành tựu hết sức thành công, nhiều mục tiêu kinh tế xa hội đã đạt và vượt chỉ tiêu, đời sống nhân dân được cải thiện. Không tự nhiên mà Việt Nam được thế giới và liên hiệp quốc ghi nhận là một trong nước đi đầu về những sáng kiến giảm nghèo bền vững. Vấn đề nằm ở chỗ nhận thức của người dân và trào lưu xuất ngoại với ước muốn làm giàu đổi đời nhanh nên nhiều gia đình cho con em đi lao động xuất khẩu cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp mặc dù được những người đi trước cảnh báo là con đường xuất khẩu lao động vô cùng nguy hiểm có thể ảnh hưởng tới tính mạng.

Một kiểu vu khống nữa đó là một số phần tử cho rằng những người di cư sang Anh là những người tị nạn hoặc tị nạn niềm tin; bọn chúng cho rằng chỉ ở Việt Nam hoặc ở chỉ những quốc gia có bất ổn về chính trị chị mới có hiện tượng di cư trái phép như vậy. Đây là một luận điệu hoàn toàn sai trái vì như chúng ta đã biết những người khi di cư bất hợp pháp sang Anh hay các nước khác ở Châu Âu hoàn toàn không phải vì lý do, mục đích chính trị; họ không hề đưa ra bất cứ yêu sách gì đối với Đảng và nhà nước Việt Nam mà đơn thuần là họ chỉ muốn kiếm một sự giàu có nó nhanh hơn ở nước ngoài.

Qua sự việc nêu trên chúng ta cần nhận thức rõ hơn và đưa ra một số giải pháp đó là:

Thông qua sinh hoạt của các tổ chức các cấp các ngành và địa phương để thông báo cho toàn thể nhân dân biết sự việc. Nhìn nhận đánh giá sự việc một cách khách quan chính xác.

Về mặt chính quyền nhà nước cần thiết phải có một thái độ rõ ràng đối với những kẻ tung tin sai sự thật và việc này cũng làm công khai. Một kẻ phạm tội chúng ta không được để họ tiếp tục phản bội.  Chính quyền phải vào cuộc, phải đưa  lên đưa lên phát thanh truyền hình thông báo công khai xin lỗi cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự không một nhà nước nào trên thế giới cho phép công dân bôi nhọ  xuyên tạc đối với Nhà nước.

Thực tế những năm qua, để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc các thế lực thù địch ngày đêm tìm mọi thủ đoạn chống phá Đảng của chính phủ Việt Nam với mục động cơ chính trị nhằm chia sẻ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng  mô  tả vấn đề xuất khẩu lao động chui như là lối thoát cuối cùng để chạy trốn khỏi đất nước. Những kẻ cơ hội những thế lực xấu đã phủ nhận thành tựu của đất nước được cả thế giới công nhận.  Lợi dụng vụ việc 39 người Việt tử vong ở nước Anh để đả phá bôi xấu, vu khống chính phủ Việt Nam nằm trong ý đồ cố tình “Mượn gió bẻ măng” của những kẻ cơ hội, những luận điệu này cần được mỗi người dân mỗi cơ quan tổ chức nhận diện và vạch trần để cuộc đấu tranh lên án và ngăn chặn những âm mưu thâm độc của những thế lực thù địch ngày càng phát huy hiệu quả./.

ĐT st


NHẬN DIỆN MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRƯỚC THÊM ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦNTHỨ XIII

 

Các thế  lực thù địch và phản động lợi dụng sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là các ứng dụng, dịch vụ tiện ích trên không gian mạng, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, chính trị không ngừng gia tăng các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; xuyên tạc nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xuyên tạc vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng và công tác nhân sự Đại hội XIII… Tất cả sự chống phá trên đều nhằm tới mục tiêu: Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng; phá hoại Đại hội XIII của Đảng.

Hoạt động của chúng tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua các trung tâm, tổ chức thù địch Việt Nam ở nước ngoài như: Các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong (“Việt Tân”, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên”, “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”…); các trung tâm truyền thông nước ngoài (Đài BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, RFA tiếng Việt…); các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài (“Theo dõi Nhân quyền thế giới - HRW”, “Ân xá quốc tế - AI”, “Phóng viên không biên giới - RSF”…), phối kết hợp của nhiều lực lượng thù địch cả trong và ngoài nước, nhất là số dân biểu cực hữu trong chính giới các nước Mỹ, phương Tây; số đối tượng chống đối chính trị trong nước đồng loạt tán phát các bài viết có nội dung xuyên tạc cương lĩnh, đường lối của Đảng. Đồng thời, kêu gọi sửa đổi “toàn diện” văn kiện, đường lối chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò “độc tôn” của Đảng; thay đổi hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước; xây dựng nền kinh tế đa sở hữu bắt đầu từ năm 2021.

Chúng thực hiện tuyên truyền xuyên tạc công tác nhân sự Đại hội XIII, các trang mạng của các tổ chức phản động lưu vong, đài phát thanh nước ngoài đã đồng loạt tán phát hàng chục bài viết có nội dung xuyên tạc về công tác nhân sự Đại hội XIII, bịa đặt nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang hình thành “phe cánh” để “tranh giành, đấu đá quyền lực; có “lợi ích nhóm”, “thanh trừng phe phái” trong công tác nhân sự Đại hội Đảng XIII. Mục đích tuyên truyền chống phá Đại hội XIII của ĐảNg, phá hoại công tác chuẩn bị Đại hội, phá hoại công tác nhân sự; phá hoại các dự thảo văn kiện; gây mâu thuẫn, chia rẽ, nghi kỵ, mất đoàn kết nội bộ Đảng; làm suy giảm niềm tin của các tầng lớp nhân dân, cán bộ, đảng viên với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Bên cạnh đó, chúng còn hướng tới những mục tiêu khác như: Xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng; gây nhiễu loạn thông tin; gây mâu thuẫn, chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ; kích động các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước.

Qua các hoạt động của bọn phản động và các thế lực thù địch, hơn lúc nào hết, chúng ta cần nâng cao cảnh giác, kịp thời phát hiện không để mắc mưu kẻ xấu làm tổn hại tới uy tín của Đảng ./.

HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động đang ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta...

 Một số hoạt động can thiệp của các thế lực thù địch:

Hàng năm, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) có các báo cáo đánh giá, nhận định thiếu chính xác về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam và đề xuất Bộ Ngoại giao Mỹ có các hoạt động can thiệp. Cơ quan đặc biệt của Mỹ và một số nước EU đã bảo trợ, hậu thuẫn cho các trung tâm phản động lưu vong, tổ chức phi chính phủ (NGO) lợi dụng nhiều danh nghĩa, thủ đoạn khác nhau để thâm nhập, đẩy mạnh các hoạt động chống phá nước ta trên lĩnh vực tôn giáo; các tổ chức tôn giáo tại một số nước có đông lao động người Việt Nam (Hàn Quốc, Đài Loan, Ma-lai-xi-a, Thái Lan, Ả-rập Xê-út...) đẩy mạnh các hoạt động phát triển đạo trong cộng đồng người Việt và lợi dụng những khó khăn, sự kém hiểu biết của một bộ phận lao động Việt Nam, lôi kéo, mua chuộc, có nhiều hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước ta quyết liệt sau khi trở về nước.

Hoạt động chống phá của bọn phản động người Việt lưu vong: Tiếp tục được sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, bọn phản động người Việt lưu vong tăng cường các hoạt động gây quỹ ở nước ngoài, tài trợ cho một số đối tượng tôn giáo cực đoan ở trong nước, triển khai các hoạt động chống phá chính quyền. Chúng đẩy mạnh hoạt động truyền thông qua các phương tiện đài phát thanh tiếng Việt, qua các đầu báo nhà xuất bản, website, blog… tiếp tục lập các nhóm bí mật trên facebook để phân công thành viên trong và ngoài nước thu thập thông tin viết bài, nhằm xuyên tạc các vụ việc liên quan đến tôn giáo và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta … để kích động người dân biểu tình, bạo loạn.

Một số tổ chức phản động lưu vong tại Mỹ, Ca-na-đa, Đức, Pháp, Bỉ, Séc… đã đồng loạt tổ chức biểu tình vào các ngày cuối tuần tại trung tâm các thành phố lớn và trước trụ sở cơ quan đại diện Việt Nam, nhằm cổ vũ phong trào chống đối của các chức sắc và giáo dân cực đoan trong nước

Trong nước các thế lực thù địch câu kết, móc nối, chỉ đạo, huấn luyện một số đối tượng  tiến hành các hoạt động chống phá như: tổ chức cho giáo dân tuần hành, biểu tình phản đối chống Đảng, Nhà nước ta, chỉ đạo các đối tượng trong nước  mua các thiết bị viễn thông để tường thuật trực tiếp diễn biến cuộc tuần hành trên đài SBTN “chân trời mới”… Tổ chức “khóa huấn luyện lãnh đạo trẻ” tại  các giáo xứ để huấn luyện kỹ năng tổ chức, lãnh đạo đám đông, cách thức viết bài, đưa tin, kinh nghiệm đối phó với cơ quan an ninh… cho một số đối tượng chống phá trong nước. Thúc đẩy hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” trong Công giáo. Tìm cách thâu tóm các hội, nhóm “Thanh niên Công giáo”, “Club tương trợ”, “Người bạn của Nguyễn Quốc Quân”… Huấn luyện họ cách thức chuyển tải thông tin cho “đảng Việt Tân” và các tổ chức nhân quyền quốc tế.

 Lợi dụng các địa bàn giáp biên với nước ta để phát triển đạo “Tin lành Đêga” nhằm phát triển lực lượng và xây dựng đội ngũ cốt cán, từ đó chỉ đạo các “cơ sở ngầm” tại khu vực Tây Nguyên thu thập số liệu, hình ảnh để viết tin bài vu cáo chính quyền người Kinh “cướp đất, đàn áp người Thượng”.

Qua hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo của các thế lực thù địch, phản động  chúng ta nhận thấy rất rõ âm mưu, thủ đoạn nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Mong mọi người nhận rõ âm ưu, thủ đoạn của chúng, vạch trần bộ mặt của những kẻ đội lốt tôn giáo làm hại dân hại nước, không để chúng lợi dụng lòng tin của nhân dân, lợi dụng tự do tín ngưỡng, hãy sống tốt đời đẹp đạo, chấp hành tốt các đường lối chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước.

Ngăn ngừa, vô hiệu hóa cách thức chống phá trên mạng Internet của các thế lực thù địch

         Sự phát triển của khoa học công nghệ và truyền thông đã làm cho con người xích lại gần nhau hơn. Trước đây, để gửi một bức thư thăm hỏi đến ai đó phải mất hàng tuần đến hàng tháng thì giờ đây chỉ tính bằng tích tắc. Do đặc thù của mạng Internet là tốc độ truyền tải thông tin nhanh, thông tin gần như tức thì, việc lập một địa chỉ mail, một Blog cá nhân, một địa chỉ Facebook, một nick zalo...chỉ mất vài phút và không phải trả phí nên, chưa kể thông tin đăng ký tính “tự do” tương đối của những chủ thể thông tin... nên những quan điểm "chẳng biết đúng sai" "không rõ thật hay giả" "chẳng biết từ đâu"...trên mạng internet có khả năng ảnh hưởng nhanh, sâu và rộng đến nhiều đối tượng. Chính vì vậy, mạng Internet đã trở thành phương tiện mà các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội thoái hóa biến chất, đã sử dụng để tạo ra rất nhiều các trang tin điện tử truyền bá quan điểm sai trái, chống chế độ XHCN, chống chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng thường thiết kế các trang tin với nhiều hình thức "bắt mắt", thông tin hấp dẫn, có tác dụng thu hút, lôi kéo người dân trong nước truy nhập vào, để rồi sau đó cài vào đó các thông tin phản động, chống đối. Loại hình nói trên đều có đặc điểm chung là sử dụng nhiều phương thức, hình thức dịch vụ tin tức, trao đổi khác nhau để lôi kéo định hướng người sử dụng Internet đến với các nội dung cần tuyên truyền. Đôi khi các thông tin đánh lạc hướng là những thông tin rất có giá trị để nhằm làm người đọc mất cảnh giác khi đến với các nội dung phản động, họ đã "trộn lẫn thật giả". Các nội dung thường bị bóp méo, xuyên tạc dẫn đến làm sai lệch cách nhìn nhận của cộng đồng mạng về tình hình trong nước, chúng tập trung vào một số vấn đề chính như:

Thứ nhất, qua các trang mạng xã hội và blog xấu độc, tung ra những thông tin và quan điểm sai trái, thù địch nhằm phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường đi lên CNXH của Việt Nam; xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gây mâu thuẫn nội bộ, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Kêu gọi thay đổi chế độ chính trị, đòi đa nguyên, đa đảng; kêu gọi biểu tình gây áp lực đối với Đảng, Nhà nước; âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phi chính trị hóa quân đội…

Thứ hai, họ phát tán trên mạng Internet những tin, bài, tài liệu có nội dung sai trái, thù địch và khuyến khích nhiều người lên mạng “trao đổi”, “thu nhận” thông tin; dùng các trang mạng xã hội và blog làm “nóng” các vấn đề trong nước để tuyên truyền chống phá ta,  kêu gọi từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, xuyên tạc, tung tin thất thiệt gây chia rẽ nội bộ, kêu gọi biểu tình, phản đối ban hành Luật Đặc khu...

Thứ ba, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo” “đất đai”... để vu cáo, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, gây sức ép về chính trị và kinh tế, gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với các điều kiện về hợp tác kinh tế; tìm cách tác động, kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế gia tăng sức ép với Việt Nam…nhằm gây chú ý của dư luận, tạo áp lực với Đảng, Nhà nước ta; nhào nặn, lan truyền những thông tin thất thiệt gây tâm lý bi quan, hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, thực hiện mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, từng bước hướng lái Việt Nam theo chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Thứ tư, lợi dụng những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, xã hội, những vấn đề “nóng”, “bức xúc” trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo, lấy hiện tượng quy thành bản chất nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Thứ năm, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, định hướng thông tin, tác nghiệp ở một số cơ quan báo chí để xảy ra tình trạng một số bài viết phản ánh về các vụ việc phức tạp, nhạy cảm sai sự thật, thiếu khách quan; cá biệt một số tờ báo có những bài viết “giật tít” nhằm câu khách; tần suất, số lượng bài viết về các mặt trái, tiêu cực xã hội quá nhiều, nhất là trên một số báo điện tử, để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta.

Tình hình đó  đặt ra nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết đối với cách mạng nước ta cần phải nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, trên mạng Internet.

Để ngăn chặn, vô hiệu hóa những âm mưu và thủ đoạn phá hoại đó của các thế lực thù địch, thì các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, cấp ủy đảng các địa phương, cơ quan, đơn vị phải thường xuyên nắm chắc âm mưu và thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị; kịp thời có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh phản bác; tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, góp phần phòng, chống tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.

Hai là, các tổ chức Đảng, các đoàn thể chính trị-xã hội chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của đảng viên, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân thấy rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị trong việc thu thập, tán phát thông tin và luận điệu sai trái chống phá ta trên các trang mạng xã hội, blog xấu độc, phần lớn có máy chủ đặt ở nước ngoài. Nâng cao cảnh giác không tin theo, không truy cập và tán phát những thông tin xấu độc đó; chủ động đấu tranh ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái không để các thế lực thù địch lợi dụng mạng Internet chống phá ta; đồng thời tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, mở rộng việc cung cấp thông tin chính thức, kiến thức pháp luật để nâng cao trình độ nhận thức, tạo sức đề kháng của cán bộ, đảng viên và nhân dân chống lại, vô hiệu hóa những thông tin và luận điệu sai trái, thù địch.

Ba là, các cơ quan thông tin đại chúng duy trì thường xuyên chuyên trang, chuyên mục đăng tải các tin, bài đấu tranh phản bác các thông tin và luận điệu sai trái, thù địch; siết chặt quy trình làm báo không để xảy ra sai sót về chính trị, nhất là những tin, bài liên quan những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, các sự kiện chính trị của đất nước, của các địa phương, đơn vị mà các thế lực thù địch có thể lợi dụng để thổi phồng, vu cáo chống phá ta.

Bốn là, các tổ chức xã hội phải chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng thường xuyên nắm bắt tình hình; kịp thời phát hiện, đề xuất tham mưu với cấp ủy các giải pháp ngăn chặn ảnh hưởng, tác hại của những thông tin xấu độc, luận điệu sai trái do các thế lực thù địch tung lên mạng Internet nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

CHO ĐẾN LÚC ĐI XA TRÊN NGỰC ÁO CỦA BÁC VẪN KHÔNG CÓ 1 TẤM HUY CHƯƠNG


Chủ Tịch Hồ Chí Minh - suốt một đời Người  không màng vật chất, sang quý, sẵn lòng gửi đi hết mà không cần nhận lại

Tại kỳ họp Quốc hội khoá II, đúng vào dịp chuẩn bị kỉ niệm lần thứ 73 ngày sinh của Bác, các đại biểu đã nhất trí đề nghị Quốc hội trao tặng Bác Hồ huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta.

Biết tin ấy, Bác Hồ rất cảm động. Bác nói: “Tôi vừa nhận được một tin tức làm tôi rất cảm động và sung sướng. Đó là tin Quốc hội có ý định tặng cho tôi Huân chương Sao vàng, huân chương cao quý nhất của nước ta. Tôi xin tỏ lòng biết ơn Quốc hội. Nhưng tôi xin Quốc hội cho phép tôi chưa nhận huân chương ấy. Vì sao? Vì huân chương là để thưởng người có công huân, nhưng tôi tự xét chưa có công huân xứng đáng với sự tặng thưởng cao quý của Quốc hội”.

Bác nhắc đến đồng bào miền Nam đang sống trong gian khổ, đang anh dũng kiên quyết đấu tranh xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” và xứng đáng được tặng huân chương cao quý nhất, vì những lẽ đó, Bác đề nghị với Quốc hội: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng vui mừng”.

Năm 1967, Đảng, Chính phủ và nhân dân Liên Xô quyết định tặng Bác Huân chương Lênin – huân chương cao quý của Nhà nước Xôviết - nhưng Bác cũng từ chối, hẹn đến ngày đất nước Việt Nam thống nhất, Bắc Nam sum họp một nhà. Nhưng đến ngày vui đại thắng ấy đã không có Bác. Và cho đến lúc đi xa, trên ngực Bác vẫn không một tấm huy chương nhưng phía trong ngực trái luôn có một trái tim, trái tim vĩ đại và ấm áp.                     Thanh Bình ST



Khẳng định tầm vóc, giá trị lịch sử và hiện thực của Chiến thắng Biên Giới Thu – Đông 195

 Sáng 2-10, tại Lạng Sơn, Bộ Quốc phòng (BQP) chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Lạng Sơn tổ chức Hội thảo khoa học “Chiến thắng Biên Giới Thu – Đông 1950 – Tầm nhìn chiến lược của Đảng và bài học lịch sử”. Các đồng chí Ủy viên Trung ương (UVTƯ) Đảng: Trung tướng Nguyễn Tân Cương, Thứ trưởng BQP; Nguyễn Hồng Diên, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; Lâm Thị Phương Thanh, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, đồng chủ trì hội thảo.

Hoàn tất cáo trạng bổ sung vụ Trần Bắc Hà VKSND Tối cao vừa hoàn tất cáo trạng bổ sung vụ án Trần Bắc Hà, chuyển hồ sơ tới TAND TP Hà Nội đưa ra xét xử theo thẩm quyền. Trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung vụ Trần Bắc Hà Truy tố dàn cựu cán bộ cấp dưới của ông Trần Bắc Hà Lời khai về sức ép từ ông Trần Bắc Hà và kết cục cay đắng Trước đó, VKSND Tối cao đã hoàn tất cáo trạng lần 1, chuyển hồ sơ vụ án này tới TAND TP Hà Nội để xét xử. Nhưng sau khi nghiên cứu, Tòa đã trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung để làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án dân sự giữa BIDV và Công ty Trung Dũng. Hoàn tất cáo trạng bổ sung vụ Trần Bắc Hà Ông Trần Bắc Hà Theo cáo trạng lần này, từ năm 2011- 2016, lợi dụng chức trách được giao, ông Trần Bắc Hà (cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng BIDV) đã chỉ đạo cấp dưới cho vay trái quy định, gây thất thoát 1.664 tỷ đồng. Công ty Bình Hà là công ty mới thành lập, chưa có bất cứ hoạt động kinh tế phát sinh, thuộc doanh nghiệp chưa đủ điều kiện xếp hạng tín dụng theo tiêu chuẩn của BIDV. Vốn tự có và tài sản bảo đảm của công ty này không đủ điều kiện để cấp tín dụng theo chính sách tín dụng của BIDV..., nhưng theo chỉ đạo của ông Hà, BIDV đã thẩm định, đề xuất và phê duyệt cho Công ty Bình Hà vay vốn. Quá trình giải ngân, BIDV đã không kiểm soát dòng tiền có được sau kinh doanh, để các cổ đông Công ty Bình Hà dùng vốn vay không đúng mục đích, thông qua các nhà thầu chiếm đoạt và chiếm dụng tiền giải ngân của BIDV. Tổng dư nợ của Công ty Bình Hà tại BIDV không có khả năng thu hồi là hơn 799 tỷ đồng. Theo cáo buộc, dù thẩm định, đánh giá tình hình tài chính của Công ty Trung Dũng gặp khó khăn, chỉ tiêu tài chính phản ánh khả năng thanh toán chưa đảm bảo..., nhưng tháng 8/2011, các bị can trong vụ án đã cấp hạn mức tín dụng ngắn hạn 700 tỷ đồng cho công ty này. Do áp lực từ sự chỉ đạo của ông Trần Bắc Hà, các bị can là cấp dưới của ông Hà đã quyết định giải ngân cho Công ty Trung Dũng vay 26 khoản, trong đó có 20 khoản giải ngân không đáp ứng đúng tỷ lệ tài sản đảm bảo. Đối với 26 khoản vay trên, các bị can đã không kiểm soát được tiền bán hàng của doanh nghiệp để thu nợ, không kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của Công ty Trung Dũng đối với các khoản giải ngân để mua phôi thép, dẫn đến còn dư nợ lớn. Hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng của các bị can trong việc cho Công ty Trung Dũng vay gây thiệt hại cho BIDV 865 tỷ đồng. Trong vụ án này, ông Trần Bắc Hà được xác định là chủ mưu, cầm đầu về tội Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Tháng 7/2019, ông Trần Bắc Hà tử vong trong trại giam vì bệnh hiểm nghèo nên CQĐT đã đình chỉ bị can. Nguồn: VN Preess
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Việc giới thiệu nhân sự Trung ương khoá XIII rất tốt đẹp 09/10/2020 11:45 GMT+7 Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra và bế mạc vào trưa 9/10. 'Cởi trói' cho người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm Người vì lợi ích chung làm việc không quan tâm đến ghế Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Nhân sự Trung ương phải đảm bảo lãnh đạo toàn diện Các Ủy viên Trung ương và các đại biểu tham dự Hội nghị đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thảo luận dân chủ, thẳng thắn, đóng góp nhiều ý kiến trí tuệ, xác đáng vào các báo cáo, đề án. Bộ Chính trị đã tiếp thu tối đa và giải trình những vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Ban Chấp hành Trung ương đã nhất trí cao thông qua Nghị quyết của Hội nghị. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Việc giới thiệu nhân sự Trung ương khoá XIII rất tốt đẹp Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng Giới thiệu nhân sự Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ trưởng Bộ Y tế Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khái quát lại những kết quả chủ yếu đã đạt được và làm rõ thêm một số vấn đề để thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết của Trung ương. Cùng với các nội dung về kinh tế - xã hội năm 2020 – 2021, tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, tại Hội nghị lần này, Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét cho ý kiến đối với Báo cáo của Bộ Chính trị về các công việc quan trọng mà Bộ Chính trị đã giải quyết từ sau Hội nghị lần thứ 12 đến Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khoá XII và Báo cáo công tác tài chính đảng năm 2019. Hội nghị giao Bộ Chính trị tiếp thu các ý kiến góp ý của Trung ương để có các giải pháp đồng bộ, mạnh mẽ và hiệu quả hơn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong thời gian tới. Cũng tại Hội nghị này, theo Quy chế làm việc, Ban Chấp hành Trung ương đã xem xét Tờ trình của Bộ Chính trị và đã ghi phiếu giới thiệu nhân sự trước khi Bộ Chính trị quyết định giới thiệu để Chính phủ trình Quốc hội xem xét, phê chuẩn việc bổ nhiệm các chức danh Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ trưởng Bộ Y tế. Đề cập đến công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 13, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng cho biết, Ban Chấp hành Trung ương đánh giá cao Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự, kể từ sau Hội nghị Trung ương 12 (tháng 5/2020) đã bám sát Phương hướng công tác nhân sự Đại hội XIII được Trung ương thông qua, chuẩn bị một cách công phu, khoa học, bài bản, kỹ lưỡng các báo cáo về công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII. Trung ương cũng biểu dương các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung ương đã chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, có chất lượng nhân sự đại hội cấp mình, đồng thời tổ chức nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao việc lấy phiếu giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, cơ bản bảo đảm tiến độ, đúng quy trình, hướng dẫn của Tiểu ban Nhân sự. 'Kết quả rất tốt đẹp' Trên cơ sở Phương hướng và quy trình công tác nhân sự, kết quả giới thiệu nhân sự, Trung ương đã thảo luận dân chủ, xem xét khách quan, công tâm, toàn diện về dự kiến danh sách nhân sự tái cử và nhân sự lần đầu được giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII và các phương án lựa chọn; đồng thời phân tích, đánh giá, góp nhiều ý kiến sâu sắc, tâm huyết, bổ sung vào các báo cáo và phương án nhân sự. Trung ương đã bỏ phiếu biểu quyết giới thiệu nhân sự Trung ương khoá XII tái cử và nhân sự mới lần đầu được dự kiến giới thiệu tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII (cả Uỷ viên Trung ương chính thức và dự khuyết). Tổng Bí thư, Chủ tịch nước: Việc giới thiệu nhân sự Trung ương khoá XIII rất tốt đẹp Bế mạc Hội nghị Trung ương 13 Đồng thời, Trung ương đã bỏ phiếu biểu quyết giới thiệu nhân sự Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XII tái cử khoá XIII và giới thiệu nhân sự mới lần đầu tham gia Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá XIII. Kết quả rất tốt đẹp, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, thống nhất rất cao với đề xuất của Bộ Chính trị. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, Ban Chấp hành Trung ương giao Bộ Chính trị và Tiểu ban Nhân sự căn cứ Nghị quyết của Hội nghị, Báo cáo kết quả giới thiệu nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII và các ý kiến đóng góp của Trung ương, tiếp tục xem xét, rà soát thật kỹ, bổ sung, hoàn chỉnh các phương án nhân sự theo đúng quy trình công tác nhân sự đã đề ra để báo cáo Trung ương xem xét, quyết định thông qua tại các hội nghị Trung ương tiếp theo trước khi trình Đại hội XIII của Đảng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Hội nghị của chúng ta đã thành công tốt đẹp. Với những nội dung chủ yếu vừa nêu trên đây, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần này sẽ góp phần tích cực vào việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 gắn với phòng, chống dịch bệnh, xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021; tiếp tục hoàn thiện dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng; làm tốt công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII, góp phần bảo đảm thành công Đại hội lần thứ XIII của Đảng. “Tôi mong muốn mỗi đồng chí Uỷ viên Trung ương cần nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu thực hiện và lãnh đạo tổ chức thực hiện thật tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương và đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.

Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950: 70 năm vẹn nguyên giá trị lịch sử

 Kỷ niệm 70 năm Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 là dịp để chúng ta cùng ôn lại một dấu mốc lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, qua đó khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng vươn lên của cả dân tộc, đặc biệt trong thời điểm toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thi đua, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

BỐN ĐIỀU GỬI ĐẾN VIỆT TÂN


Tôi là một Đoàn viên "Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh". Tôi, là một Việt Cộng - một người Việt Nam, yêu Lý tưởng Cộng sản: Lý tưởng bảo vệ, nâng đỡ, giữ gìn phẩm giá, cuộc sống cho những người nghèo, những người kém ưu thế trong xã hội.

Tôi xin có vài lời gửi đến các người.

Thứ nhất, các người hãy thôi nói về tự do ngôn luận...

Thật là kì quặc khi các người - những kẻ cầm súng bắn gục những nhà báo Việt Nam chân chính ở Mỹ, lại mở mồm rao giảng về tự do ngôn luận. Phải chăng da mặt các người dày hơn da trâu?

Tự do ngôn luận là khái niệm có tính tương đối. Xã hội loài người luôn có nhiều người xấu hơn là người tốt, nếu để tự do ngôn luận tuyệt đối, ai muốn nói gì thì nói, chắc chắn những dư luận xấu sẽ tràn ngập khắp mọi nơi và làm băng hoại đạo đức loài người. Đó là lý do nước nào cũng có những cơ quan kiểm duyệt thông tin.

Thứ hai, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về tình yêu nước.

Thật là kì quặc khi các người - những kẻ đã từng khom lưng cúi đầu làm tôi mọi, làm tay sai cho Pháp, cho Mỹ để bức hại đồng bào, phản bội lại khát vọng độc lập, tự do, thống nhất của nhân dân, giờ đây lại rao giảng về tình yêu nước.

Thế thì khác gì Lê Chiêu Thống dạy Quang Trung về lòng trung thành, khác gì Trần Ích Tắc dạy Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn về tinh thần dân tộc?

Các người không có tư cách dạy nhân dân Việt Nam về tình yêu nước. Các người càng không có tư cách dạy Việt Cộng về tình yêu nước.

Hãy tìm Bảy Nhu – người cai ngục ở nhà tù Phú Quốc để biết Việt Cộng yêu nước như thế nào. Có rất nhiều người yêu nước không phải là Việt Cộng: có thể kể đến như Nguyễn An Ninh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, sinh viên Nguyễn Thái Bình... Nhưng Việt Cộng là những người gan góc nhất, kiên cường nhất, bất khuất nhất trước sự dã man, tàn bạo của kẻ thù. Lịch sử nhà tù Phú Quốc và Côn Đảo đã chứng minh.

Chỉ có những kẻ mù lương tri, điếc lẽ phải và ung thư dối trá, mới phủ nhận điều đó.

Thứ ba, các người hãy thôi dạy người Việt Nam về cách chiến đấu bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông.

Thật là nực cười khi những kẻ tụt quần đu càng, bán Hoàng Sa cho Tàu lại lên tiếng hướng dẫn những người đã từng đánh bại thực dân Pháp, quét sạch phát-xít Nhật và tống cổ đế quốc Mỹ về nước, đập tan tập đoàn bành trướng Bắc Kinh ở biên giới phía Bắc, thần tốc tiêu diệt bè lũ Polpot (tay sai của Mỹ - Trung), rằng phải làm thế nào để bảo vệ chủ quyền lãnh hải.

Xin lỗi, kinh nghiệm đu càng hay nghệ thuật đu càng sao cho đu không rớt, càng không gãy, khi đu tè không ướt quần, các người cứ dạy lại cho con cháu các người học tập và làm theo. Còn chúng tôi thì không cần đâu nhé.

Thứ tư, các người hãy thôi nói về nhân quyền.

Những người đã từng đập vỡ cổ chai thuỷ tinh, đâm xoáy cổ chai thuỷ tinh vào cửa mình của thiếu nữ Nguyễn Thị Mai, sẽ là người mang đến nhân quyền cho phụ nữ Việt Nam? (Mời đọc Bài ca hi vọng, NXB Tổng hợp Tp.HCM).

Những người đã từng cưa sống 6 lần đôi chân của thanh niên Nguyễn Văn Thương, sẽ là người mang đến nhân quyền cho thanh niên Việt Nam? (Mời đọc Người bị CIA cưa chân 6 lần, NXB Tổng hợp Tp.HCM).

Việt Tân à.

Tôi khuyên các bạn nên dừng lại những trò lố bịch, kệch cỡm và vô sỉ.

Chúng tôi - những người Việt Nam yêu nước, những người Việt Cộng yêu nước tự biết phải làm gì để thay đổi những cái chưa tốt, phát huy những cái tốt ở quê hương chúng tôi. Chúng tôi không có cái khoái cảm đặc biệt khi làm tay sai cho ngoại bang như các bạn, nên các bạn đừng phiền công cuộc xây dựng, đổi mới của đất nước chúng tôi nữa nhé.

Nếu các bạn dừng lại, sám hối với Tổ Quốc, với nhân dân, chúng tôi vẫn xem các bạn là đồng bào. Nếu các bạn tiếp tục ngoan cố, thì chúng tôi đành xem các bạn là giặc vậy.

Thân chào!

Yêu nước ST.

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

"Trích chéo" Phạm Đoan Trang

             Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978 tại Hà Nội trong một gia đình cơ bản, được ăn học tử tế, từng là học sinh trường Hà Nội – Amstesdam. Nhiều người phải thừa nhận Phạm Đoan Trang có năng lực học hành, viết lách sắc sảo, có tài năng, từng là phóng viên có triển vọng tại nhiều tờ báo ở Việt Nam như: Vnexpress, Vietnamnet, Pháp luật… Tuy nhiên, có chút năng lực nhưng vì các động cơ cá nhân, Phạm Đoan Trang đã đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, nhân dân, Đảng và Nhà nước.

Trong nhiều bài viết, nhiều cuốn sách như: “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”... (đều xuất bản chui), Phạm Đoan Trang xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam, kích động những người nhẹ dạ cả tin tham gia biểu tình, chống phá chính quyền, nhà nước, làm mất an ninh trật tự, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định chính trị ở Việt Nam.

Trong phát ngôn cũng như hoạt động của mình, Phạm Đoan Trang bất chấp đạo lý, luôn thể hiện cái gọi là tinh thần “dấn thân”, đã liên kết với một số blogger chống phá dưới các trướng “dân chủ”, “xã hội dân sự”, hô hào mang lại “tự do, dân chủ, nhân quyền” cho Việt Nam! Nguy hiểm hơn, đối tượng này được cho là thành viên, phối hợp tích cực với Tổ chức Việt Tân (tổ chức đã được Bộ Công an xếp vào tổ chức khủng bố), “ngưu lai, mã khứ tầm quy” cùng với Phạm Chí Dũng, Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải... “nội công, ngoại kích”, không từ âm mưu, thủ đoạn nào nói xấu đất nước, chế độ, lên án xã hội, vu cáo chính quyền đến thực hiện âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

Với thủ đoạn “dẫn lang nhập thất”, Phạm Đoan Trang liên hệ với nhiều tổ chức, ủy ban nhân quyền quốc tế để đối thoại, thảo luận trước các báo cáo định kỳ phổ quát liên quan đến tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam; trả lời phỏng vấn các cơ quan truyền thông, mạng hải ngoại vu cáo thực tiễn vấn đề quyền con người. Từ đó tạo ra nhận thức sai lệch của các tổ chức, cộng đồng quốc tế, gây sức ép đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập, đàm phán, ký kết các hiệp định quốc tế mà Việt Nam tham gia.

Với một chân tướng như vậy, thật kệch cỡm cho một giải tự do báo chí “treo đầu dê, bán thịt chó” của RSF và cũng thật tiếc cho một niềm tin lạc lối, không biết “quay đầu là bờ”

Tin Mới Nhận : Phạm Đoan Trang đã bị Bộ Công an bắt lúc khoảng 23h30 đêm qua (ngày 6/10) tại Thành phố Hồ Chí Minh với tội danh “Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước" theo Điều 117 BLHS.

Ko biết sau vụ này, ả có tỉnh ngộ?