QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỚI NHIỆM VỤ XÂY DỰNG THẾ TRẬN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
Thấm nhuần truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc, trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập. Đó chính là tư tưởng, đường lối chỉ đạo xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Quân đội nhân dân đóng vai trò nòng cốt đối với nhiệm vụ quan trong này.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, ngay từ những ngày đầu
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mọi hoạt động của toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị đều nhằm thực hiện tốt công
tác quốc phòng, quân sự: “Mọi việc phải nhằm vào điểm làm cho kháng chiến thắng
lợi”1. Thực hiện nghiêm sự chỉ đạo đó, các hoạt động xây dựng, triển khai và bố
trí các đơn vị bộ đội chủ lực, lực lượng vũ trang tại chỗ (tự vệ chiến đấu, dân
quân du kích, công an vũ trang) và nhân dân trên từng địa bàn nhanh chóng được
hoàn thành - cơ sở khoa học, điều kiện tiên quyết để ngăn chặn, đánh bại các trận
càn, những cuộc hành binh của quân viễn chinh Pháp. Nổi bật như: cuộc chiến đấu
60 ngày đêm bảo vệ Thành Hà Nội (cuối năm 1946) của Trung đoàn Thủ Đô cùng lực
lượng vũ trang tại chỗ và nhân dân Hà Nội. Hoặc, việc tạo lập thế trận phản
công linh hoạt của Bộ Tổng Chỉ huy trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm
1947, góp phần quyết định làm nên thắng lợi vang dội, đánh bại cuộc tiến công
chiến lược của thực dân Pháp lên vùng Chiến khu Việt Bắc, giữ vững căn cứ địa
cách mạng, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não kháng chiến.
Thực tiễn đó cho thấy, tuy các hoạt động quốc phòng
trong thời kỳ này chủ yếu tập trung vào các hoạt động quân sự bảo vệ căn cứ địa
cách mạng, hậu phương kháng chiến, giành và giữ dân, mở rộng vùng giải
phóng,... nhưng đã khẳng định hiệu quả to lớn về tư tưởng chỉ đạo xây dựng thế
trận quốc phòng toàn dân bảo vệ đất nước; trong đó, các đơn vị Vệ quốc đoàn,
các Chi bộ Nam tiến, bộ đội chủ lực của Bộ và các khu,... giữ vai trò là lực lượng
chủ yếu, cùng với lực lượng vũ trang tại chỗ làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Bước sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện đường lối chiến
lược về xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng của Đảng, Tổng Quân ủy chỉ đạo
toàn quân hoàn thành chuyển quân tập kết theo Hiệp định Giơ-ne-vơ. Đồng thời,
khẩn trương chấn chỉnh tổ chức biên chế, cải tiến vũ khí, trang bị, đẩy mạnh thực
hiện kế hoạch xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, trọng tâm là
xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, tiến lên chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ “Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa,... sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là
đế quốc Mỹ và tay sai”2. Cùng với phát triển lực lượng lục quân chính quy và
các đơn vị binh chủng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không - Không quân
nhanh chóng được kiện toàn về tổ chức3, xây dựng, phát triển và triển khai bố
trí lực lượng theo kế hoạch phòng thủ thống nhất, hình thành thế trận bảo vệ miền
Bắc xã hội chủ nghĩa cả trên bộ, trên biển và trên không. Vì thế, mặc dù kẻ địch
sử dụng nhiều thủ đoạn xảo trá để tạo cớ, hay dựa vào sức mạnh vượt trội của vũ
khí, trang bị, phương tiện chiến tranh hiện đại, mở rộng chiến tranh đánh phá
miền Bắc bằng hải quân, không quân,... nhưng đều bị đánh bại, bởi thế trận quốc
phòng toàn dân vững chắc ở miền Bắc đã nhanh chóng chuyển thành thế trận chiến
tranh nhân dân phát triển.
Ở miền Nam, thực hiện cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân bằng bạo lực vũ trang, hệ thống chỉ huy quân sự được củng cố, ngày càng
phát triển ở các cấp. Đặc biệt, với sự ra đời của các đơn vị bộ đội chủ lực Miền
(B2), Khu 5 và sự chi viện sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc, quân,
dân miền Nam đã khôn khéo từng bước tạo lập thế trận vững chắc, hiểm hóc và rộng
khắp, đánh bại các cuộc càn quét, các chiến dịch,… của địch ra vùng giải phóng.
Giai đoạn cuối cuộc kháng chiến, Quân đội ta đã xây dựng được các sư đoàn chủ lực
cơ động mạnh, đứng vững trên các địa bàn chiến lược, sau đó phát triển thành
các quân đoàn, binh chủng, có thể tiến hành tác chiến hiệp đồng quân chủng,
binh chủng quy mô lớn, tạo thế, lực, thời cơ chín muồi, có một không hai để tiến
hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền
Nam, thống nhất đất nước.
Sau khi đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, Quân đội vừa tham
gia khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa chấn chỉnh tổ chức biên chế, bố trí lại
lực lượng trên các vùng, miền, xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, đồng thời bước vào hai cuộc chiến đấu ở biên giới Tây Nam và
phía Bắc. Trong thời kỳ đổi mới, Quân đội thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ
động tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài. Chủ trương nhất quán
của Đảng là đẩy mạnh xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”; chủ động điều chỉnh thế bố trí chiến lược; kết hợp thế trận tại
chỗ với thế trận cơ động, thế trận rộng khắp với thế trận trọng điểm, tập trung
cho hướng, khu vực, địa bàn chiến lược; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân,
gắn với thế trận an ninh nhân dân và thế trận biên phòng toàn dân vững chắc, sẵn
sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc./.
VH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét