Chính sách dân tộc của Nhà nước
Việt Nam là một bộ phận quan hệ hữu cơ với công tác dân tộc, được quy định bởi
quan điểm về vấn đề dân tộc, xử lý vấn đề dân tộc và cách thức
thực hiện công tác dân tộc
Dưới góc độ chính trị - xã hội, chính sách dân tộc là tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước được đề ra tác
động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc và mang bản chất giai cấp của Nhà
nước trong phạm vi đối nội và đối ngoại.
Dưới góc độ quản lý
nhà nước, chính
sách dân tộc là hệ thống những quyết
sách của Đảng. Nhà
nước được thực thi thông qua bộ máy hành pháp để quản lý và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đối
với các dân tộc và vùng đồng bào dân tộc nhằm thiết lập sự bình
đẳng và hòa nhập phát triển, củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Chính sách dân tộc cũng là chính
sách phát triển nhằm thiết lập nên những thành tựu phát triển về kinh tế -
xã hội cho đồng bào dân tộc và
vùng dân tộc, hướng tới mục tiêu
cao nhất là sự bình đẳng về mọi mặt,
đặc biệt về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa giữa các vùng và các dân tộc ờ Việt Nam.
Thực hiện chính sách dân tộc là
việc đưa pháp luật, chính sách vào cuộc sống, trên cơ sở cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng, Nhà nước, từ khâu hướng dẫn, thông tin, phân công trách nhiệm, chuẩn bị các
điều kiện nguồn lực tài chính, nhân lực cần thiết bảo đảm thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ yêu cầu quy định trong chính sách.
Do đặc điểm tự nhiên và dân cư, tổ chức thực hiện chính sách ở
vùng dân tộc, miền núi có nhiều
điểm khác biệt với khu vực nông thôn đồng bằng; những yếu tố về thời gian, môi trường sống và phong tục, tập quán cũng không giống nhau nên cách thức thông
tin chính sách, nguồn lực cần được chú
ý. Các khu vực dân cư khác nhau có những cách tiếp cận khác nhau, cần được cụ
thể hóa trong những kế hoạch
đầy đủ, phù hợp.
Trong thực hiện chính
sách, đánh giá chính sách là một
nội dung quan trọng nhằm xác định hiệu lực, kết quả, hiệu quả của chính sách, so sánh, đối chiếu với
những mục tiêu đặt ra, là cơ sở đề xem xét chính sách có phù hợp hay không, cần
điều chỉnh hay bài bỏ. Đánh giá chính sách đòi hỏi phải thực hiện ở tất cả các
khâu, giai đoạn, theo sát tiến trình vận động của chính sách. Đây là một quá
trình liên tục, tương thích với sự vận động của chu trinh chính sách. Đánh giá
giữa kỳ và cuối kỳ là hai hoạt động có tính băt buộc nhằm tăng hiệu quả giám
sát hoạt động chính sách cũng như dế chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo.
Thực hiện chính sách dân
tộc, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc là một bộ phận hữu cơ
trong hệ thống chính sách quốc gia, không thể tách rời với sự phát triển chung
của đất nước, bảo đảm lợi ích quốc gia cả về khía cạnh chính trị, kinh tế và
hội. Thực hiện chính sách dân tộc còn thể hiện mục tiêu công bằng xã hội, là
bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa; thể hiện tình cảm, trách nhiệm của cả
nước đối với những đóng góp của đồng bào dân tộc trong sự nghiệp cách mạng
giành và giữ nền độc lập dân tộc, xây đựng và bảo vệ Tồ quốc.
Xã hội chú nghĩa, đồng thời phải bảo đảm tính hiệu
lực, hiệu quả và tính phù hợp. Do vậy, việc xây dựng chính sách dân tộc phải
bảo đảm trên cơ sở các định hướng:
Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc, từ khi ra đời
đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định, vấn đề dân lộc có vị trí chiến lược. Trong từng giai đoạn cách mạng, vấn để dân tộc được nhận thức và giải
quyết theo các quan điểm cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra.
Trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện chính sách
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên
con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ,
tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp
hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc[1].
Qua các kỳ đại hội, Đảng
luôn nhất quán chủ trương, nguvên tắc trong đường lối, chính sách dân tộc, đó
là xây dựng khối đoàn kết, bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc, phát triển
toàn điện về kinh tế - chính trị - xã hội, đảm bảo các quyền và tiếp cận các
quyền của đồng bào dân tộc thiểu số trên mọi mặt của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở hệ thống pháp luật quốc gia và một số chính sách
đặc thù đối với vùng đồng bào dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đàng khẳng định: Đoàn kết các dân
tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chỉnh sách, bảo
đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan bệ giữa
các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ trong phát triển
kinh tế, văn hóa, xẫ hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các
vùng Tây Bắc, Tây Nguyên Tây Nam bộ, Tây duyên hải miền Trung1.
Với chủ trương, quan
điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước, hiện nay khối các dân tộc ở Việt Nam luôn
đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau xây dựng đất nước. Trong chống
dịch COVID- 19 vừa qua, đại đoàn kết các dân tộc đã được phát huy cao độ trong
nhận thức và hành động, trong tương trợ giúp đỡ lẫn nhau bằng các hoạt động như
hỗ trợ, quyên góp, ủng hộ, chia sẻ, đã tạo nên một sức mạnh vô song để Việt Nam
vững bước tiến lên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét