Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2020

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 


Vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lê nin về tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những quan điểm về tôn giáo như sau:

 Tôn giáo là một bộ bộ phận của văn hóa

Đây là cách tiếp cận mới từ góc độ hoạt động sinh tồn của con người trong quá trình tồn tại, phát triển. Theo Hồ Chí Minh: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa."[1]

Các giá trị nhân bản của các tôn giáo là những di sản vǎn hoá tinh thần quý báu của nhân loại.

Bằng tri thức cách mạng, vốn hiểu biết về vǎn hoá sâu sắc và cái nhìn duy vật biện chứng, Người đã phát hiện và tiếp nhận cái thiện, cái mỹ, cái cốt lõi nhân vǎn trong các tôn giáo. Người đã viết: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giê su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê su, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy ".

Vì vậy, không ngạc nhiên khi Hồ Chí Minh - Người cộng sản, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam không dưới một lần ca ngợi những người sáng lập ra các tôn giáo một cách thành kính: Chúa Giê su dạy đạo đức và bác ái. Phật thích ca dạy đạo đức và từ bi. Khổng Tử dạy đạo đức và nhân nghĩa.

 Điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có tính tiến bộ

Người đã nhấn mạnh điểm chung giữa lý tưởng của chủ nghĩa Mác với tôn giáo và các học thuyết có tính tiến bộ, đó là mưu cầu hạnh phúc cho loài người. Đây là một đặc điểm lớn được Hồ Chí Minh khai thác một cách triệt để và tài tình trong giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.

 Tư tưởng tự do tín ngưỡng, tôn giáo

 Hồ Chí Minh luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu dài trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.

Ngay từ khi mới giành được độc lập, tại phiên họp đầu tiên của chính phủ Người đã khẳng định: "Thực dân phong kiến tìm cách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương để dễ thống trị. Tôi đề nghị chính phủ ra tuyên bố "tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết".

Ngày 09-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; trong đó ghi nhận: “Nhân dân có quyền tự do tín ngưỡng”.(6) 

Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam (nǎm 1957), Người khẳng định lại: "Chúng tôi xin nói thêm hai điều, nói rõ để tránh sự hiểu lầm: Một là vấn đề tôn giáo thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi người".

- Tự do tôn giáo gắn liền với độc lập dân tộc

Hồ Chí Minh, nước có độc lập thì tôn giáo mới được tự do, phát triển, "Từ ngày nước ta trở nên dân chủ cộng hòa, Hiến pháp ta tôn trọng tự do tín ngưỡng thì Phật giáo cũng phát triển thuận lợi. Thế là: Nước có độc lập, thì Đạo Phật mới dễ mở mang"[2];

"Trong lịch sử Việt Nam, lần này là lần đầu (Nôen 1945) mà đồng bào công giáo ta làm lễ Nôen vui vẻ, sung sướng trong nước Việt Nam độc lập, tự do. Tôi tin chắc rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của các vị giám mục Việt Nam, đồng bào công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập đó"[3]

 Khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, Người luôn phê phán nghiêm khắc những thái độ, hành vi xâm phạm, hoặc làm phương hại đến quyền tự do chính đáng đó.

Sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương yêu bà con có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau ở Hồ Chí Minh làm cho những người không cùng quan điểm với Người cũng phải kính phục. Chính ông J.Sainteny đã viết trong cuốn sách "Đối diện với Hồ Chí Minh": "Về phần tôi phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ nơi các chương trình của cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào dù rất nhỏ của sự công kích, đa nghi hoặc chế diễu đối với bất kỳ một tôn giáo nào".

 Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra những quan điểm của mình mà còn giáo dục cán bộ, Đảng viên cũng như đồng bào lương giáo phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng đó.

 Tư tưởng đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc

 Tư tưởng đoàn kết lương giáo là một bộ phận có vị trí quan trọng trong tư tưởng của Người về chiến lược đại đoàn kết dân tộc; là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, bao trùm trong tư tưởng của Người đối với vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng XHCN ở Việt Nam.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Người nói riêng đã được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa phát huy những giá trị vǎn hoá truyền thống của dân tộc qua hàng ngàn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước, cũng như tiếp thu những tinh hoa vǎn hoá của nhân loại (trước hết là những nguyên lý của ch nghĩa Mác - Lênin), đồng thời vận dụng nó một cách sáng tạo vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nước ta. Vì vậy, tư tưởng đoàn kết lương giáo, hoà hợp dân tộc của Hồ Chí Minh đã đạt đến đỉnh cao truyền thống đoàn kết của nhân dân ta.

Hồ Chí Minh đã viết: "Đồng bào đều biết rằng: ngày bắt đầu kháng chiến, lực lượng quân sự của Pháp mạnh hơn ta, thế mà ta càng ngày càng thắng lợi. Đó là nhờ sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân và sự hǎng hái tham gia kháng chiến của mọi người giáo cũng như lương"; "Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống ấm no, xây dựng tổ quốc, chấp hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của tất cả các tôn giáo".

+ Đoàn kết giữa đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo với đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo.

+ Đoàn kết giữa đồng bào có các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau.

+ Đoàn kết giữa đồng bào trong mỗi tôn giáo trong khối đại đoàn kết.

 Đấu tranh bài trừ mê tin dị đoan và lợi dụng tôn giáo để chống phá công cuộc xây dựng và BVTQ

Đối với bọn lợi dụng, mượn danh tôn giáo để chống phá cách mạng, chống phá sự nghiệp của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách để đồng bào ta, nhất là đồng bào có đạo nhận rõ bộ mặt của chúng.

Sắc lệnh 234/SL ngày 14/6/1955 do Người ký đã chỉ rõ: "Pháp luật sẽ trừng trị kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngǎn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng của người khác hoặc những việc làm trái pháp luật " (Điều 7 - Chương 1).

Hồ Chí Minh chĩ rõ "Cái cần phải xóa? Mê tín hủ tục"; "Ra sức làm cho tốt, cho khéo để xóa bỏ những cái có hại như hủ tục, mê tín dị đoan"[4]

Biện pháp đấu tranh xóa mê tín dị đoan là "nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi, trước là để gây tình cảm và sau để dần dần giải thích cho dân bớt mê tín"[5]

Hồ Chí Minh cho rằng, bộ đội và cán bộ làm cho nhân dân nhiều việc tốt, nhưng vẫn còn nhiều mặt chưa tốt, "chưa phải là đã hết cúng bái mê tín. Ví đó là phong tục tập quán lâu đời. Muốn cải tạo phong tục tập quán được tốt, thì tuyên huấn phải làm, mà phải làm bền bỉ liên tục, làm dần dần, chứ không thể chủ quan, nóng vội, muốn làm hết ngay một lúc"[6]

 



[1] Hồ Chí Minh, tt, t.3, Nxb CTQG,  H.2002, tr.458

[2] Hồ Chí MInh, tt. t.5, Sđd, tr.197

[3] Hồ Chí MInh, tt. t.4, Sđd, tr.121-122

 

[4] Hồ Chí Minh, tt, t11, tr.133- 137

[5] Hồ Chí Minh, tt, t.5, tr.410

[6] Hồ Chí Minh, tt, t.11, tr.133

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét