Theo quan
điểm của Đảng ta (Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016): “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống
quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức."
Một là, Tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tôn
tại lâu dài cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH
Đây là quan điểm cơ bản của Đảng và
Nhà nước, thể hiện sự nhận thức đúng đắn về vấn đề dân tộc và tín ngưỡng tôn
giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trên cơ sở thừa nhận tôn giáo là
nhu cầu tình thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài trong quá trình
xây dựng CNXH ở nước ta. Do đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải tôn trọng
nhu cầu tinh thần, quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
- Công dân có quyền tự do theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Không ai được xâm phạm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân...
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo không có
nghĩa là hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật, đi ngược lại lợi ích
của Tổ quốc, của nhân dân; không có nghĩa là lợi dụng tôn giáo để phá hoại cách
mạng.
- Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo phải
tôn trọng lẫn nhau; Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không phân biệt đối
xử với một tôn giáo nào.
Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người
không tín ngưỡng, tôn giáo đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân bằng pháp
luật.
Vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của nhân dân là vi phạm pháp luật, phải bị xử lý bằng pháp luật. Lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để gây rối, làm
mất an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, chống đối Đảng, Nhà nước cũng là
vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phải bị pháp luật xử lý
Phải quan tâm đúng
mức đến đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các tôn giáo
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp vĩ đại nhằm giải
phóng quần chúng nhân dân khỏi mọi sự áp bức, nô dịch cả về vật chất và tinh
thần. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các tầng lớp nhân dân trong đó
có đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào theo tôn giáo là mục tiêu, nhiệm
vụ to lớn của Đảng và Nhà nước ta trong cách mạng XHCN. Điều đó, đòi hỏi phải
quan tâm đến cả “phần đạo và phần đời” của đồng bào tôn giáo. Có như vậy, đồng
bào các dân tộc.
Hai là, Đảng, Nhà nước ta thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc
- Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Đồng
bào các tôn giáo trước hết là người Việt
Trong
quá trình cách mạng, đồng bào các tôn giáo ngày càng nhận thức sâu sắc lợi ích
của bản thân và của dân tộc mình, tôn giáo mình gắn bó với lợi ích của toàn dân
tộc và của cách mạng; tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền và phụ thuộc vào
độc lập, tự do của Tổ quốc; Tổ quốc có độc lập, thống nhất thì tôn giáo mới có
tự do. Sự thống nhất lợi ích đó là “điểm tương đồng” căn bản, tạo động lực để
đồng bào các dân tộc, các tôn giáo một lòng, một dạ theo Đảng làm cách mạng
trong đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Thực hiện đoàn kết đồng bào
các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo
tôn giáo.
Cơ sở của đoàn kết là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá
khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích
chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận
xã hội”[1].
- Kiên quyết đấu tranh chống những hành động gây chia rẽ, làm suy yếu
khối đại đoàn kết, làm tổn hại đến lợi ích quốc gia dân tộc
Đây là lập trường có tính nguyên tắc trong quan điểm về
công tác tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Trong
mọi trường hợp, cần phân biệt rõ đâu là vấn đề tôn giáo, đâu là vấn đề các thế
lực thù địch lợi dụng chống phá để có biện pháp xử lý đúng đắn.
Ba là, Nội dung cốt
lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng
Đồng bào các tôn giáo là nhân dân lao động, là quần chúng
của Đảng, là lực lượng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt
Phải
làm cho đồng bào các tôn giáo nhận thức đúng, tin và làm đúng đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước. Điều này xuất phát từ sự khác nhau giữa niềm tin tôn
giáo và lý tưởng của CNXH mà sâu xa là thế giới quan tôn giáo và thế giới quan
cộng sản.
Làm
tốt công tác vận động quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để thực hiện thành
công sự nghiệp xây dựng và BVTQ
Bốn là, Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị
Đảng luôn có chủ trương, chính sách đúng đắn về tôn giáo
Nhà nước trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng ban
hành pháp luật, chính sách cụ thể và tổ chức thực hiện. Nhà nước phải có những
giải pháp thích hợp nhằm đáp ứng nhu cầu tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng
bào các dân tộc.Trong đó chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm
an sinh xã hội đối với đồng bào các dân tộc, tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa, các
vùng đặc biệt khó khăn. Đồng thời việc giải quyết các vấn đề về hoạt động hợp
pháp của các tổ chức tôn giáo, Nhà nước kiên quyết xử lý đối với mọi hành vi
truyền đạo trái phép, lợi dụng tôn giáo làm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, làm
mất trật tự, an toàn xã hội, gây tổn hại đến đạo đức, lối sống, văn hoá, thuần
phong mỹ tục của các dân tộc; xử lý nghiêm những hành vi ngăn cản tín đồ, chức
sắc các tôn giáo trong thực hiện nghĩa vụ công dân, những hành vi làm phương
hại đến độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đại đoàn kết toàn dân, chống Nhà
nước.
Mặt trận, Đoàn thanh niên,
Tổng LĐLĐ, Hội CCB, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ... là những tổ chức có vị trí, vai
trò quan trọng, trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện chính sách của Đảng và
nhà nước về dân tộc và tôn giáo.
LLVT là lực lượng nòng cốt, đi
đầu và là lực lượng chủ yếu thực hiện tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân
hiểu rõ và chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn
giáo; đồng thời là lực lượng chủ yếu nắm bắt tình hình dân tộc, tôn giáo để
tham mưu với Đảng và Nhà nước về Chính sách dân tộc, tôn giáo và trực tiếp chịu
trách nhiệm xử lý các vấn đề phức tạp của dân tộc và tôn giáo, xử lý các hành
động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng của các thế lực thù
địch với Việt Nam.
Năm là, Vấn đề theo đạo và
truyền đạo
Chính phủ
Việt Nam đã ban hành Nghị định số 26/1999/NĐ - CP, trong đó quy định
chính sách cụ thể về các hoạt động theo đạo và truyền đạo, như sau:
- Đối với tín đồ các tôn
giáo: mọi công dân có quyền tự do theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, từ bỏ hoặc thay đổi tôn giáo. Tín đồ có quyền
thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ trương, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, không được hoạt động mê tín dị đoan. Người nước
ngoài cư trú hợp pháp tại Việt
- Đối với chức sắc, nhà
tu hành tôn giáo có quyền: thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình
trong phạm vi trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Việc
mở trường đào tạo, phong chức cho chức sắc, bổ nhiệm, thuyên chuyển... phải được
sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
- Đối với các tổ chức tôn giáo được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt
động thì được pháp luật bảo hộ.
- Đối với hoạt động tôn
giáo: các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ
tự tôn giáo đã đăng ký hàng năm và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì
không phải xin phép. Những hoạt động khác: các hội nghị, đại hội tôn giáo, in
ấn xuất bản các loại kinh sách... phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và thực hiện tuân thủ theo chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Đối với nơi thờ tự và
tài sản của các tổ chức tôn giáo: Nhà nước
bảo hộ nơi thờ tự của các tổ chức tôn giáo. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm gìn
giữ tu bổ nơi thờ tự. Việc sửa chữa lớn các cơ sở thờ tự, xây dựng mới phải được
phép của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh...
- Đối với hoạt động đối
ngoại của tôn giáo: hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, của tín đồ,
chức sắc tôn giáo phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật, phù hợp với chính sách
đối ngoại của Nhà nước. Tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt nam để hoạt động
ở lĩnh vực không phải là tôn giáo, thì không được phép tổ chức điều hành các
hoạt động tôn giáo và truyền bá tôn giáo.
[1]
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H. 2011, tr. 239- 240.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét