Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2020

Công tác xây dựng Đảng

VOV.VN - Nội hàm của xây dựng hệ thống chính trị là việc chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phải kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên và công khai cho nhân dân giám sát. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII dự kiến trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thẳng thắn nêu: công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế. Đáng chú ý, thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số tổ chức đảng còn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao... Nhiều ý kiến tâm huyết của đảng viên, nhân dân đã góp ý vào nội dung này và cho rằng: nội hàm của xây dựng hệ thống chính trị là việc chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; phải kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên và công khai cho nhân dân giám sát, tránh bệnh hình thức. Ông Trần Hoàng Thám, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam cho rằng: Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, là cơ sở bảo đảm hàng đầu để giữ vững bản chất cách mạng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Việc xem nhẹ hay hạ thấp, cũng như nhận thức không thấu đáo, thực hiện không đến nơi đến chốn nguyên tắc này không chỉ làm tổn hại đến vị thế, sức mạnh của Đảng, mà còn là một trong những căn nguyên dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Nhìn nhận thực tế trong nhiệm kỳ vừa qua, gần 100 cán bộ cao cấp mắc sai lầm, khuyết điểm đều có một nguyên nhân chung là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. (Ảnh minh họa) (Ảnh minh họa) Ông Trần Hoàng Thám cho rằng: “Có một sự thật đảng viên bình thường cho tới đảng viên cấp cao mắc sai lầm khuyết điểm không do chi bộ phát hiện mà do báo chí do nhân dân, do những vụ án liên quan khác. Do đó, thực hiện dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ, phải nghiên cứu. Đa số cán bộ đảng viên vi phạm, kết luận của Ủy ban kiểm tra là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ như một nguyên nhân dẫn tới sai lầm và khuyết điểm." Hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện. Phần lớn những vị trí chủ chốt trong tổ chức hệ thống chính trị đều do đảng viên của Đảng nắm giữ. Giáo sư, Tiến sỹ Khoa học Phan Xuân Sơn, Giảng viên Cao cấp Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng: Nội hàm của xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh là việc chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. GS.TS Phan Xuân Sơn nhấn mạnh: “Phải thực hiện các Nghị quyết như: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa 11), Trung ương 4 (khóa 12), chống tự chuyển biến tự chuyển hóa; thực hiện đạo đức công vụ cần kiệm liêm chính chí công vô tư; thực hiện sự kiểm soát quyền lực; thực hiện sự giám sát của xã hội và nhân dân đối với các tổ chức Nhà nước, công chức, viên chức Nhà nước; phải thực hiện sự minh bạch hay trách nhiệm giải trình của cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước.” GS.TS Phan Xuân Sơn GS.TS Phan Xuân Sơn Ông Hồ Tế, nguyên Bộ Trưởng Bộ Tài chính đặt vấn đề: tham nhũng, quan liêu là tệ hại nhất cần phải được khắc phục. Tham nhũng làm suy giảm lòng tin của người dân, bệnh quan liêu khiến nhân dân bất bình... Phân tích sâu hơn, ông Hồ Tế nhận định: tham nhũng sinh ra có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực. Chính bởi vậy, thực hiện nghiêm quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; phải lấy lại gương mặt tự trọng, liêm chính, kỷ luật cho cán bộ, đảng viên. Mặt khác, phải kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của họ và công khai cho nhân dân giám sát, tránh bệnh hình thức. Đây cũng là giải pháp quan trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Góp ý vào dự thảo các Văn kiện, nhiều ý kiến đề nghị phải kiên quyết chống được tham nhũng vặt; bởi dù là tham nhũng vặt, nhưng ảnh hưởng nhức nhối đối với cuộc sống hằng ngày của người dân và lòng tin của họ. Điều đó là không hề nhỏ, nếu để tích tụ lâu ngày thì hậu quả sẽ rất lớn. Giải quyết điều này sẽ góp phần tích cực cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn Đối ngoại Kiều bào, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Phạm Xuân Sơn đề nghị: Báo cáo chính trị cần phải có một mục riêng đánh giá về kết quả, những giải pháp về phòng, chống tham nhũng. Ông Phạm Xuân Sơn cho biết: “Tôi thấy trong phần Dự thảo Báo cáo Chính trị đưa chống tham nhũng vào một mục trong công tác xây dựng Đảng nhưng rất mờ nhạt. Theo dư luận, điều người dân hân hoan nhất chính là chống tham nhũng. Đa số mọi người đều mong muốn công tác chống tham nhũng được tiếp tục triển khai triệt để hơn trong thời gian tới. Mong muốn những người có bản lĩnh trí tuệ, có đạo đức liêm khiết, kiên quyết kiên trì chống tham nhũng nên tiếp tục sự nghiệp này”. Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc chính là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Đây là mong muốn và niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình góp ý xây dựng Văn Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Nguồn VOV

Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu hiện nay của Đảng ta. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đặc biệt này thì công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng có tài, có tâm, có tầm nhìn và bản lĩnh, ý chí cách mạng được xem là nhân tố đặc biệt quan trọng, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn cán bộ là gốc của mọi công việc. Đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận, việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Chất lượng, hiệu quả của đội ngũ cán bộ sẽ là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm sự ổn định và phát triển của Đảng, của chế độ.

 Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” nhấn mạnh, xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh; đồng thời, phát huy cao nhất trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch... Phát huy tốt vai trò của các lực lượng tác chiến không gian mạng, an ninh mạng.

Như vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó lực lượng cán bộ tuyên giáo các cấp là nòng cốt; đây cũng là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Lịch sử từng chứng minh rằng trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, nhất là cuộc đấu tranh “không tiếng súng” trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, văn nghệ, yếu tố con người giữ vai trò quan trọng. Khi lực lượng này hùng hậu, tinh nhuệ, nhạy bén, có trình độ, nghiệp vụ, am hiểu lĩnh vực sẽ tạo sức mạnh như những “lá chắn”, “tấm phên dậu” vững mạnh để các thế lực thù địch không thể, không dám tuyên truyền hay có những hành vi kích động, chống phá Đảng, chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, lâu dài trong quá trình phát triển của Đảng, vì thế đội ngũ cán bộ làm công tác này luôn được quan tâm, bổ sung, tăng cường, làm việc theo chế độ chuyên trách với các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành.

Với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới, đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã và đang đổi mới, được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm chắc địa bàn, lĩnh vực phụ trách, có nhiều đóng góp lớn vào sự ổn định, phát triển của tình hình chính trị - xã hội của đất nước./.


Khi nào ông Joe Biden sẽ nhậm chức, chính thức thay Tổng thống Trump?

 Ngày 3.11: Đây là ngày bầu cử trong kỳ bầu cử tổng thống Mỹ năm nay. Theo luật định, ngày bầu cử là thứ Ba đầu tiên sau thứ Hai đầu tiên của tháng 11. Dù vậy, hơn 100 triệu người Mỹ đã bỏ phiếu sớm trong các tuần trước đó. Việc kiểm phiếu diễn ra trên khắp nước Mỹ vào ngày bầu cử chính thức.

THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ MỚI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ĐỐI VỚI VIỆT NAM

 

Nếu những năm trước đây, các thế lực thù địch chủ yếu sử dụng vũ trang với các biện pháp quân sự “cứng rắn” để chống phá cách mạng Việt Nam thì ngày nay, chúng đã thay đổi chiến lược, chuyển từ vũ trang sang phi vũ trang với các biện pháp “mềm dẻo”, “linh hoạt” vừa đẩy nhanh quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đa tầng nấc ở Việt Nam nhằm lôi kéo, thu phục, mua chuộc các đối tác; vừa dùng biện pháp răn đe quân sự, gây sức ép từ bên ngoài để tác động, “chuyển hóa” bên trong, làm cho đối tác Việt Nam phải phụ thuộc, tiến tới thay chế độ chính trị theo hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mục tiêu của chúng là thực hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, kết hợp với bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Nhân dân ta nhằm “chuyển hóa” và hướng lái Việt Nam đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Chúng khai thác và lợi dụng triệt để quá trình mở rộng hợp tác, đầu tư, hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh... nhằm tạo ra các cơ hội để xâm nhập sâu hơn vào Việt Nam, thúc đẩy nhanh hơn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ Đảng, Nhà nước. Đối với chúng, trong các mục tiêu “chuyển hóa” chế độ chính trị Việt Nam thì biện pháp gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta là vấn đề quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định “chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa”; nhờ đó mà “triệt tiêu các giá trị làm nên chế độ cộng sản, bản chất Đảng Cộng sản Việt Nam”; đồng thời, qua đó xây dựng “ý thức hệ mới” với một hệ thống lý luận chính trị tương xứng để “thay máu cho hệ tư tưởng cộng sản”, tiến tới “đánh gục và hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”; triệt tiêu mọi mầm mống của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam; thay vào đó là nền tảng tư tưởng của giai cấp tư sản mang đậm tính chất phản động, chống cộng.

Quá trình thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Việt Nam, chúng đẩy mạnh hơn nữa sự gây rối, tạo ra các xung lực mới từ các mâu thuẫn bên trong cùng với những “cái hích từ bên ngoài”, kết hợp chặt chẽ với “lộ trình dân chủ” bên trong ở Việt Nam một cách toàn diện, đồng bộ, thông qua nhiều khâu, các bước là: Thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đây được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng, giảm sút hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước; hủy hoại và tước bỏ niềm tin của Nhân dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa; Thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển các “tổ chức chính trị đối lập” xuất hiện và hoạt động công khai, làm cho Đảng Cộng sản bị phân hóa, rối loạn sự lãnh đạo, mâu thuẫn với Nhà nước, không thể kiểm soát được tình hình. Từ đó, buộc Đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận “dân chủ” hóa xã hội theo hình mẫu phương Tây hoặc phá vỡ chế độ chính trị - xã hội; “Dân chủ hóa chính quyền các cấp”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng và đảng viên ra khỏi quần chúng; gây áp lực đối với Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, tiến tới lật đổ Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, chúng triệt để khai thác internet và các trang mạng xã hội để tăng cường quảng bá hình ảnh “tốt đẹp” của phương Tây, gieo cấy niềm tin, tăng sức nặng thuyết phục về giá trị văn hóa, dân chủ tư sản trong mắt người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ. Mặt khác, tăng cường “cài cắm”, móc nối, xâm nhập, “chuyển hóa ngầm” bằng các thủ đoạn tình báo để kích thích “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp ở Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần cảnh giác trước các hoạt động chống phá, kết hợp với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.

Có đúng là chủ nghĩa Mác - Lê nin không phù hợp với Việt Nam?


Hiện nay, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(?).

Quan điểm trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lý luận khoa học nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều, máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó” - tức ở phương Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận như C.  Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.

Mặt khác, nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác  - Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam - một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,... đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.

Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2020

Bầu cử Tổng thống Mỹ: thêm những hoài nghi về nền dân chủ phương Tây



“Mô hình dân chủ Mỹ đang hụt hơi”, “Kẻ thua cuộc lần này trong bầu cử tổng thống Mỹ chính là nền dân chủ”, “Nền dân chủ Mỹ đang bị chế nhạo”, “Vở tuồng ngoạn mục đang diễn ra trên sân khấu chính trị tại một trong những nền dân chủ lâu đời nhất hành tinh”, “Ảo vọng về nền dân chủ phương Tây”… Đó là một số trong rất nhiều bình luận trên truyền thông quốc tế về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ 2020, một trong những cuộc bầu cử gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử và đến hôm nay vẫn chưa đi đến hồi kết.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay

 

Thực tiễn phát triển đất nước 90 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã cho thấy đường lối lãnh đạo đất nước nói chung, lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng là đúng đắn, cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.


Do vậy, để nâng cao hiệu quả công tác đặc biệt quan trọng này, cần chú ý và thực hiện tốt những giải pháp cơ bản sau:

Trước hết, thường xuyên quán triệt và thực hiện hiện nghiêm túc những chỉ đạo, hướng dẫn trong các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương về đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Gắn việc thực hiện chỉ đạo của Trung ương với việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương. Ngoài ra, việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cần phải được thực hiện đồng bộ từ trên xuống dưới, trong tất cả các cơ quan, ban ngành và địa phương để tạo nên một thế trận toàn diện, đấu tranh trên mọi mặt trận. Chú trọng thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên tất cả các phương diện như công tác lý luận, công tác đào tạo, bồi dưỡng, công tác tuyên truyền và các công tác khác. Hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới cần đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả chứ không phải là một hoạt động mang tính phong trào.

Hai là, chủ động nắm tình hình, dự báo, phát hiện sớm hoạt động chống phá của các thế lực thù địch thông qua các trang web, blog, “diễn đàn” thường xuyên đăng tải những nội dung xấu, độc hại; chủ động phòng ngừa, đấu tranh từ sớm, từ xa, phát huy vai trò của các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thông trong việc định hướng dư luận cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Tích cực tuyên truyền, lan tỏa, nhân rộng các mô hình tham gia đấu tranh có hiệu quả để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đồng thời, kịp thời điều chỉnh, rút kinh nghiệm với những mô hình hoạt động không hiệu quả, chưa tích cực. Thường xuyên chia sẻ thông tin, tổng kết kinh nghiệm công tác lãnh đạo, điều hành thực hiện nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Tránh những cách thức đấu tranh tự phát, mất kiểm soát hoặc lợi dụng đấu tranh để gây rối trật tự xã hội hoặc kích động gây rối, làm nhiễu loạn thông tin.

Ba là, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII về phát huy vai trò của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong việc tuyên truyền, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chú trọng đến việc xây dựng lực lượng tham gia đấu tranh theo hướng vừa tập hợp lực lượng rộng rãi, vừa có bộ phận nòng cốt, chuyên sâu. Quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ để các thế lực thù địch khó cơ cơ hội tiếp cận nhằm xuyên tạc, chống phá; chủ động nắm bắt, dự báo, xử lý kịp thời những vấn đề tư tưởng nảy sinh trong đời sống xã hội. Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tích cực thông tin và tăng cường đối thoại với nhân dân, giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo, bức xúc của nhân dân; chủ động, tích cực cung cấp thông tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bốn là, phát huy vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước đối với các trang mạng xã hội, đồng thời chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật - nghiệp vụ nhằm ngăn chặn có hiệu quả các trang mạng độc hại. Phát huy vai trò của khoa học - công nghệ hiện đại trong việc sàng lọc thông tin và ngăn chặn một cách triệt để các tin tức xấu, độc trên các trang mạng xã hội. Cùng với đó, tích cực tuyên truyền, lan toả những thông tin có nội dung tích cực để động viên, khích lệ nhân dân tham gia đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng; siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong Ðảng để gia tăng niềm tin của nhân dân. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Ðảng, Nhà nước; nghiêm cấm lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư nặc danh, mạo danh, thư có nội dung xuyên tạc, vu khống, kích động. Gắn việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của đảng viên.

Năm là, phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, lan tỏa các nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thực tiễn 90 năm xây dựng và phát triển của Đảng đã cho thấy, trước bất kỳ nhiệm vụ nào, Đảng cũng luôn phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm tạo nên một nguồn nội lực tổng hợp. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nhiệm vụ rất khó khăn nên để thực hiện có hiệu quả, cần phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, lan tỏa những chủ trương, đường lối của Đảng. Đây không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên, mà còn là cuộc đấu tranh của toàn thể nhân dân nhằm đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

Phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền, lan tỏa các nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch Trong 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi hoàn cảnh và tình huống. Điều đó đã cho thấy rất rõ quyết tâm và bản lĩnh của Đảng, để lại những bài học kinh nghiệm quý giá trong việc lãnh đạo đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành quả đó đã củng cố niềm tin, tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mãi tin vào con đường Đảng đã chọn, kiên trì, kiên định đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, xứng đáng là người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng. Đặc biệt là cần nêu cao cảnh giác, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước những đòn tấn công của các thế lực thù địch, phản động trong bối cảnh sắp diễn ra đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng./.

Lịch sử quá trình lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”(1). Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, quyết định sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Trong 90 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì, kiên định lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi hoàn cảnh.

Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Điều đó thể hiện quyết tâm rất lớn của Đảng trong việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong điều kiện mới. Tuy nhiên, không phải cho đến bây giờ vấn đề này mới được đặt ra, mà ngay từ khi thành lập Đảng (năm 1930), Đảng đã lãnh đạo đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, cơ hội, phản động để bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam” cho Đảng hoạch định cương lĩnh, đường lối đúng đắn và hiện thực hóa thành công những mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX, trên thế giới nổi lên cuộc đấu tranh của chủ nghĩa cơ hội, xét lại, chống chủ nghĩa Mác cũng như phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác. Tháng 12-1963, Đảng Lao động Việt Nam ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa III về “Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng”. Trong Nghị quyết, Đảng ta chỉ rõ: Có một số cán bộ, đảng viên đã nhận thức và hành động trái với quan điểm của Đảng, có người rời bỏ Đảng, được cử đi học và tìm cách ở lại nước ngoài. Số đó tuy rất ít nhưng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Đảng. Với lập trường kiên định và rõ ràng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên cường đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ. Tổng thống Nga Vla-đi-mia Pu-tin (Vladimir Putin) trong Thông điệp Liên bang năm 2005 gọi đó là “một chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX”. Sự đổ vỡ này xảy ra ngay tại Liên Xô - quê hương của Cách mạng Tháng Mười, nơi sản sinh ra Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, nơi được coi là thành trì của chủ nghĩa xã hội hiện thực, khiến cho các học giả tư sản được dịp lớn tiếng phê phán, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Kể từ sự kiện gây chấn động lịch sử toàn thế giới đến nay đã gần 30 năm, các thế lực thù địch vẫn tìm mọi phương cách, sử dụng mọi thủ đoạn nhằm xuyên tạc, công kích và phủ định chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ cho rằng, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ “sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin”; và bởi “chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, “không bao giờ thực hiện được”(2). Họ cũng cho rằng, chủ nghĩa xã hội khoa học mà C.  Mác và Ph. Ăng-ghen đã xây dựng chỉ là một học thuyết “viển vông”, “ảo tưởng” nên khi áp dụng vào thực tiễn chỉ có thể sinh ra những “quái thai của lịch sử”(3)... Những luận điệu đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với các hình thức, trên các diễn đàn khác nhau nhằm phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Xuất phát từ lập luận đó, họ cho rằng hiện nay “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Họ cho rằng không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(4); rằng, “con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang đi là trái với quá trình lịch sử - tự nhiên”(5). Do đó, theo họ, Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà một số nước đã đi qua để đi theo con đường tư bản chủ nghĩa(6). Đây thực sự là những vấn đề rất cần chúng ta luận giải, đấu tranh để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sớm nhận thấy những diễn biến tiêu cực của các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa nên đã chủ động phòng ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch. Sự chủ động và quyết tâm của Đảng được thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI khi đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới, bảo đảm cho đổi mới đi đúng hướng, đúng mục tiêu và có hiệu quả. Trong Nghị quyết, Đảng ta khẳng định tính chất của công cuộc đổi mới ở Việt Nam không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, với những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp; đồng thời, còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(7). Sự khẳng định này đã cho thấy bản lĩnh và quyết tâm rất lớn của Đảng trong việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bất chấp mọi sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch.

Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sớm nhận thấy những diễn biến tiêu cực của các đảng cộng sản và các nước xã hội chủ nghĩa nên đã chủ động phòng ngừa sự chống phá của các thế lực thù địch

(Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tháng 12-1986) 

Tiếp theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, tháng 8-1989, Hội nghị Trung ương 7 khóa VI của Đảng ban hành Nghị quyết về “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”. Trung ương đã nhận định 6 điểm về những sai lầm trong cải tổ, cải cách của một số đảng khi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội. Từ việc nhìn nhận những thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khi buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, khiến đảng viên và nhân dân mất niềm tin vào chính lý tưởng mà mình đã theo đuổi, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng”(8). Quan điểm này cho thấy sự kiên định của Đảng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong một giai đoạn rất khó khăn và cam go.

Một trong những điểm nhấn quan trọng trong công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội VII năm 1991). Lúc này, mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu mới sụp đổ, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đã hoàn toàn mất phương hướng, đã chuyển hóa tính chất, khủng hoảng nghiêm trọng, đứng trước bờ vực đổ vỡ, tạo ra một “chấn động chính trị toàn thế giới”, song Đảng ta vẫn khẳng định Việt Nam kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa và Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Toàn bộ mặt trận tư tưởng, lý luận của Đảng tập trung làm sáng tỏ và sâu sắc hơn bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định tính tất yếu của con đường xã hội chủ nghĩa; đồng thời, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những luận điệu sai trái, thù địch. Đây là một Cương lĩnh rất quan trọng của thời kỳ đổi mới, khẳng định mạnh mẽ sự kiên trì, quyết tâm của Đảng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi tình huống.

Từ sau Cương lĩnh năm 1991, căn cứ vào tình hình cụ thể ở mỗi giai đoạn, Đảng ta tiếp tục đưa ra những chỉ đạo cụ thể về việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, như Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28-3-1992, của Bộ Chính trị, về “Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”; Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 18-2-1995, của Bộ Chính trị, về “Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”; đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (năm 2012) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII (năm 2016) về Xây dựng Đảng. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta đã thẳng thắn vạch rõ những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch khi thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, nhận định “Diễn biến hòa bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, là “thủ đoạn hòa bình để giành thắng lợi”. Nhiều chuyên gia và chính khách phương Tây còn gọi đây là phương pháp “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”, “cách mạng hòa bình” và gần đây là “cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”... Trong chiến lược này, thẩm thấu văn hóa - tư tưởng  được coi là “mũi đột phá”, là “cây cầu dẫn vào trận địa”, là lĩnh vực hàng đầu làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra khoảng trống để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào, rồi cuối cùng xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa”(9). Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Đảng ta còn chỉ rõ tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên “nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(10) khiến cho các thế lực thù địch có cơ hội chống phá, xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tinh thần và bản lĩnh của Đảng trong việc lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng được thể hiện đậm nét nhất trong Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết nêu rõ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng là bảo vệ Ðảng, bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường lối lãnh đạo của Ðảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Ðó là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, trong đó các cơ quan báo chí tuyên truyền có vai trò quan trọng; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Nhìn lại lịch sử 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội mà còn đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong mọi tình huống. Ở nhiệm kỳ Đại hội nào, Đảng ta cũng có ban hành nghị quyết về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, 90 năm qua cũng chính là một hành trình phát triển của Đảng trong công tác lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên định lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xác định là “kim chỉ nam” cho mọi hành động của Đảng và của nhân dân.

Thực tiễn phát triển đất nước 90 năm qua, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã cho thấy đường lối lãnh đạo đất nước nói chung, lãnh đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng là đúng đắn, cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay./.

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 5 - 6

(2), (3), (4) Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 47 - 48

(5) Ban Tuyên giáo Trung ương: Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 12

(6) Xem: Nguyễn Văn Cần: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là cơ sở phản bác các quan điểm sai trái, thù địch”, trong sách Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,2019, tr. 80

(7), (8) Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t. 49, tr. 591, 742

(9) Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012, tr. 92 - 93

(10) Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 28

Phải hiểu đúng giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Không thể “nhầm lẫn” hoặc cố tình đánh tráo khái niệm “nghệ thuật chớp thời cơ” tài tình của Đảng ta với “sự ăn may của lịch sử”

 

  Nhằm hạ thấp ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cuộc cách mạng này, một số thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị thường rêu rao: “Cách mạng Tháng Tám là thứ quả ngọt trời cho”, hoặc “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự ăn may của lịch sử!”... Để biện hộ cho luận điệu đó, họ cho rằng: Cách mạng Tháng Tám diễn ra trong bối cảnh xuất hiện “khoảng trống quyền lực”; cuộc cách mạng này không có đối tượng cụ thể, trực tiếp và những người làm cách mạng chỉ tiến công vào một cánh cửa chính trị khép hờ. Sự thật lịch sử cho thấy, những luận điệu nói trên là hoàn toàn bịa đặt!

Ảnh tư liệu

Phải hiểu đúng giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Không thể “nhầm lẫn” hoặc cố tình đánh tráo khái niệm “nghệ thuật chớp thời cơ” tài tình của Đảng ta với “sự ăn may của lịch sử”

 Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào tình trạng thoái trào. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài, cùng những người bất mãn với chế độ, những kẻ cơ hội chính trị đã không ngừng xuyên tạc, công kích nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phê phán Cương lĩnh, đường lối của Đảng, thì một trong những thủ đoạn thâm độc của họ là bóp méo sự thật lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Khi thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm của Đảng, họ thường hạ thấp ý nghĩa của những thắng lợi to lớn của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Không thể phủ nhận là Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi trong điều kiện khách quan có những yếu tố thuận lợi. Cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tạo cho dân tộc ta một cơ hội hết sức thuận lợi: Kẻ thù của dân tộc ta lúc đó là thực dân Pháp và phát-xít Nhật đã tự loại nhau. Trên thực tế, từ sau đêm 9-3-1945, đối tượng chủ yếu của cách mạng Việt Nam là phát-xít Nhật. Khi đội quân Quan Đông mạnh nhất của phát-xít Nhật bị Hồng quân Liên Xô đánh bại ở Mãn Châu (Trung Quốc), giáng đòn quyết định buộc phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, thì ở Việt Nam lúc đó quân Nhật hoảng loạn, quân Pháp chưa đủ sức quay lại, chính quyền tay sai hoang mang cực độ, tạo điều kiện khách quan chín muồi cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi.

Tuy nhiên, dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu mà điều kiện chủ quan chưa chín muồi cho việc chớp thời cơ, phát động khởi nghĩa, thì cách mạng cũng không thể thành công. Thực tế đã cho thấy, cũng trong hoàn cảnh khách quan thuận lợi (thắng lợi của Đồng minh và thất bại của phát-xít Nhật), không phải nước nào cũng tiến hành được một cuộc khởi nghĩa để giành lại độc lập dân tộc. Tại thời điểm đó, chỉ ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tinh thần “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, toàn dân đã tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa lật đổ sự thống trị của phát-xít Nhật và bọn tay sai, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của một quá trình chuẩn bị đầy đủ lực lượng cách mạng của Đảng ta. Đồng thời, nó cũng là kết quả của việc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, tích cực theo dõi tình hình, dự đoán chính xác thời cơ và kiên quyết lãnh đạo nhân dân đứng lên chớp thời cơ để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Trong hai yếu tố chủ quan và khách quan thì yếu tố chủ quan là động lực chính quyết định đến sự thành, bại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả đấu tranh lâu dài, gian khổ với biết bao máu xương của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng từ cuối thế kỷ XIX. Đảng Cộng sản Đông Dương - người kế tục vai trò lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước trước đó  - đã đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc từ năm 1930 lên một tầm cao mới với một cương lĩnh chính trị đúng đắn cùng trình độ tổ chức đường lối cách mạng sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của nước ta lúc bấy giờ. Trong đó, việc xác định chính xác đối tượng cần phải đánh đổ là thực dân Pháp cùng lực lượng tay sai của chúng được khẳng định từ sớm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930).

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào giải phóng dân tộc trải qua nhiều chặng đường thăng trầm, quyết liệt, dẫn tới cao trào cách mạng mới sau khi Mặt trận Việt Minh được thành lập dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (năm 1939), Trung ương Đảng đã họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939. Hội nghị đã phân tích sâu sắc bản chất của cuộc chiến tranh, đặc điểm cơ bản của cách mạng Đông Dương và nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”(1). Hội nghị còn chỉ rõ: Chiến tranh đã thúc đẩy các mâu thuẫn vốn có của xã hội thuộc địa - phong kiến lên đến đỉnh tột cùng, đòi hỏi phải được giải quyết, gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; Hội nghị chủ trương đấu tranh chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát-xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bản xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hòa bình, cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn.

Ngày 22-9-1940, quân phát-xít Nhật tràn vào Việt Nam. Hội nghị Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, chỉ rõ kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là phát-xít Pháp - Nhật. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương mở rộng (tháng 5-1941) nhận định: Lúc này, ở Đông Dương, lực lượng phản cách mạng gồm có: “1. Thống trị Pháp ở Đông Dương và bọn tay sai của chúng. 2. Phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng nó”(2). Nguyện vọng và mục đích của nhân dân Đông Dương hiện nay là đánh Pháp, đuổi Nhật, làm cho xứ Đông Dương độc lập. Lực lượng cách mạng ở Đông Dương hiện nay là nhân dân Đông Dương, không phân biệt dân tộc, giai cấp. Đánh Pháp, đuổi Nhật là nhiệm vụ chung của nhân dân Đông Dương.

Sau ngày phát-xít Nhật đảo chính lật đổ quyền thống trị của thực dân Pháp (ngày 9-3-1945), tình hình chính trị ở Đông Dương có những thay đổi lớn. Chỉ thị ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương với nhan đề “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” chỉ rõ: “a, Đế quốc Pháp mất quyền thống trị ở Đông Dương, không phải là kẻ thù cụ thể trước mắt ta nữa - mặc dầu ta vẫn phải đề phòng cuộc vận động của bọn Đờ Gôn định khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. b, Sau cuộc đảo chính này, đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương. c, Bọn Pháp kháng chiến đang đánh Nhật là đồng minh khách quan của nhân dân Đông Dương lúc này”(3).

Ngày 24-3-1945, Chính phủ Pháp ra tuyên bố với những lập luận hết sức xảo trá hòng che đậy và lừa dối dư luận nhưng vẫn để lộ dã tâm sẽ chiếm lại Đông Dương sau khi Nhật thất bại. Từ đó, Pháp ráo riết hoạt động, từ Pa-ri, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đờ Gôn, qua Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông (SLFEO) đặt ở Can-cút-ta (Ấn Độ), đến Phái bộ 5 do Xanh-tơ-ny đứng đầu đặt bản doanh tại Côn Minh (Trung Quốc). Đồng thời, Chính phủ Pháp chỉ thị cho Đại sứ của mình ở Trung Quốc và các viên tướng cầm đầu số lính Pháp bị Nhật đánh bại sang Hoa Nam (Trung Quốc) phối hợp với Phái bộ 5 thực hiện các âm mưu chuẩn bị tái xâm lược Đông Dương.

Ngay sau khi Ủy ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra mệnh lệnh khởi nghĩa (ngày 12-8-1945), thực dân Pháp càng đẩy mạnh các hoạt động nhằm nhanh chóng tái xâm lược Đông Dương. Ngày 13-8-1945, Đờ Gôn tuyên bố với Đác-giăng-li-ơ rằng sẽ cử ông ta làm Cao ủy ở Đông Dương, nắm toàn bộ quyền lực tại đây. Cùng ngày 13-8-1945, Bộ phận liên lạc của Pháp ở Viễn Đông tại Can-cút-ta quyết định cho máy bay thả dù xuống Đông Dương một bộ sậu chính trị gồm các ủy viên của nước Cộng hòa Pháp (việc này mãi đến ngày 22-8-1945 mới thực hiện được). Ngày 19-3-1945, tướng A-léc-xan-đri quyết định cử một đội tiền trạm gồm các sĩ quan tình báo (trước đây chạy trốn sang Trung Quốc) vào Hà Nội để chuẩn bị đón một phái đoàn đầy đủ của Pháp sẽ có mặt ở đây. Ngày 14-8-1945, Đờ Gôn cử Lơ-cléc làm Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Pháp ở Đông Dương.

Thực dân Pháp tổ chức các toán biệt kích xâm nhập vào Việt Nam bằng hai đường: đường biển, do Phái bộ 5 chỉ huy, xuất phát từ một số đảo ở Hoa Nam (Trung Quốc); đường hàng không, xuất phát từ căn cứ quân sự ở Can-cút-ta, do máy bay của tình báo Anh đưa vào và nhảy dù xuống những địa điểm đã chọn.

Vào 18 giờ ngày 15-8-1945, hai ca-nô có vũ trang chở chừng 30 người cả Pháp và Việt đi qua Quảng Yên, hướng về cảng Hải Phòng. Cùng ngày 15-8-1945, một toán biệt kích đường biển gồm 5 tên do Blăng-sa cầm đầu đổ bộ vào Hải Phòng, định đi ngược sông Hồng lên Hà Nội. Đường sông bị cấm, cả 5 tên bị quân Nhật bắt giam, đến ngày 23-8-1945 mới đến được Hà Nội. Ngày 21-8-1945, một toán gồm 5 người Pháp và 1 người Việt nhảy dù xuống vùng tháp Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, bị du kích ta tóm gọn. Ngày 22-8-1945, một toán biệt kích người Pháp do thiếu tá tình báo Xanh-tơ-ny - người phụ trách Phái bộ 5  - cầm đầu bám theo máy bay chở đoàn OSS của Mỹ từ Côn Minh đến Hà Nội. Đêm 22-8-1945, có 3 toán biệt kích nhảy dù: một toán do Mét-xme cầm đầu nhảy dù xuống Phúc Yên, bị dân quân ta tóm gọn (đến tháng 10-1945 mới được phóng thích); một toán do Xê-đin cầm đầu nhảy dù xuống Tây Ninh, bị quân Nhật bắt được và đưa đi Sài Gòn; một toán nhảy dù xuống vùng Hiền Sĩ (Nam Giao, tỉnh Thừa Thiên), định bắt liên lạc với Bảo Đại nhưng bị dân quân ta bắt gọn. Ngày 23-8-1945, một nhóm 4 tên dùng xuồng lớn đột nhập vào cửa Thuận An, bị dân quân ta bắt. Ngày 27-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng Lai Bằng - cách Huế khoảng 20km, bị dân quân ta bắt. Tàu biển Cray-xắc đưa 16 tên đổ bộ lên đảo Cát Bà cũng bị quân ta tóm gọn. Ngày 28-8-1945, một toán biệt kích nhảy dù xuống vùng đường ven biển gần thị trấn La Gi và mấy ngày sau, một toán nữa nhảy dù xuống khu vực suối Kiết ở Tánh Linh (tỉnh Bình Thuận) đều bị dân quân ta bắt giữ...

Đấy là những kẻ thù từ nước ngoài thâm nhập vào nước ta để chống phá Cách mạng Tháng Tám. Dù chúng vào bằng đường hàng không hay đường thủy thì cũng cho thấy một điều là: Đây là những hành động không hề đơn độc, mà là có ý đồ móc nối với những tên tay sai cũ của thực dân Pháp hòng tổ chức lực lượng chống đối chính quyền cách mạng, chuẩn bị cơ sở cho quân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam sau khi phát-xít Nhật đầu hàng.

Quân Nhật tuy đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh nhưng vẫn còn nguyên lực lượng và trang bị vũ khí, khí tài chiến tranh trong tay! Đảng ta chủ trương vận động sĩ quan và binh lính Nhật “án binh bất động”, trao vũ khí cho Việt Minh và Quân giải phóng Việt Nam để được bảo toàn tính mạng. Tuy nhiên, không phải ở đâu và lúc nào họ cũng đều hưởng ứng chủ trương đó của ta. Không ít nơi, quân Nhật vẫn có hành động quân sự chống phá ta. Ở huyện Lý Nhân (tỉnh Hà Nam), quân Nhật không những không giao kho thóc cho ta mà còn gọi viện binh từ Phủ Lý về, nổ súng chống lại lực lượng khởi nghĩa vào ngày 20-8-1945. Ở Hà Nội, quân ta tấn công vào trại bảo an binh, quân Nhật đưa xe tăng đến bao vây trại, hỗ trợ cho những phần tử bảo an ngoan cố và đòi tước vũ khí của tự vệ ta. Ta thuyết phục, quân Nhật mới chịu rút. Ở Lộc Ninh, sĩ quan Nhật ra lệnh bắn vào dân quân và đồng bào ta. Giao tranh đã nổ ra và chúng chỉ chịu đầu hàng sau khi một lực lượng của chúng bị quân ta tiêu diệt. Ở Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi), quân Nhật vẫn tiến hành các hoạt động khủng bố Việt Minh, bị dân quân ta đánh trả mới chịu co cụm về thị xã. Đặc biệt, trong cuộc chiến đấu chống quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên từ ngày 19 đến ngày 24-8-1945, lực lượng cách mạng tiêu diệt một số tên, buộc quân Nhật ở thị xã và các đồn lẻ trong tỉnh Thái Nguyên phải hạ vũ khí, bức hàng toàn bộ hệ thống chính quyền và quân đội tay sai của Nhật trong tỉnh.

 

Với 82.260 quân phát-xít Nhật chờ ngày nộp vũ khí cho Đồng minh trong bối cảnh chính quyền cách mạng đang trong giai đoạn “trứng nước”, rõ ràng lực lượng này vẫn là một đối tượng mà ta phải tập trung đối phó.

Sau đêm Nhật đảo chính Pháp (ngày 9-3-1945), hệ thống chính quyền làm tay sai cho Nhật ở Việt Nam đã được dựng lên trên cơ sở hệ thống chính quyền của Pháp vừa sụp đổ. Trong cao trào kháng Nhật, cứu quốc, trước sự tiến công của Việt Minh, bộ máy chính quyền tay sai bị suy yếu, bất lực và đi đến tan rã từng bộ phận, trước hết là cấp xã, rồi đến cấp huyện. Đến Tổng khởi nghĩa, chính quyền ở nhiều huyện nhanh chóng thuộc về nhân dân, nhưng cũng ở nhiều nơi, chúng ta phải dùng áp lực của quần chúng kết hợp với trấn áp bằng bạo lực, trừng trị những tên ngoan cố để giành chính quyền. Ở cấp tỉnh và cấp kỳ, cuộc đấu tranh để xóa bỏ bộ máy chính quyền tay sai diễn ra gay go, phức tạp hơn. Dựa vào lực lượng bảo an, vào tổ chức phản động và hy vọng được quân Nhật bảo vệ, hầu hết thị trưởng, tỉnh trưởng và khâm sai đều có hành động phản kháng trước cao trào cách mạng của quần chúng. Đối với đối tượng này, ta đã phải kết hợp thuyết phục với dùng áp lực của quần chúng và lực lượng vũ trang. Ngày 23-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Huế đã nổ ra với sức mạnh của lực lượng chính trị quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế có ý nghĩa hết sức to lớn, vì Huế là dinh lũy của chế độ phong kiến, trung tâm đầu não của chính quyền bù nhìn cả nước, nơi đóng quân và bộ máy tối cao của cố vấn Nhật.

Cùng với việc đánh đổ bộ máy chính quyền tay sai, cuộc đấu tranh với các lực lượng vũ trang do Nhật tổ chức và các đảng phái chính trị phản động cũng diễn ra hết sức gay go, phức tạp.

Hàng chục vạn lính bảo an và cảnh sát do Nhật tổ chức, trang bị và huấn luyện đã được giao cho những tên tay sai người Việt chỉ huy. Bọn này vốn là thành viên của các tổ chức chính trị phản cách mạng hoặc sĩ quan của Pháp chuyển sang làm tay sai cho Nhật. Bằng công tác binh vận, Việt Minh đã xây dựng cơ sở bí mật trong lực lượng vũ trang của địch. Đến ngày Tổng khởi nghĩa, nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của Việt Minh, cùng với hoạt động của các cơ sở cách mạng ở bên trong cũng như sức ép của lực lượng chính trị quần chúng nổi dậy, nhiều đơn vị vũ trang của địch tự nộp vũ khí đầu hàng. Tuy vậy, ở rất nhiều nơi, để đập tan sự kháng cự của những tên cầm đầu ngoan cố, chúng ta phải sử dụng sức mạnh quân sự để trấn áp, giành chính quyền.

Ở miền Nam, hai triệu tín đồ đạo Cao Đài có vũ trang do Trần Quang Vinh cầm đầu theo Nhật chống lại cách mạng.

Cả nước lúc bấy giờ có đến mấy chục tổ chức chính trị phản động có hoặc không có vũ trang, do Pháp, Nhật hoặc Quốc dân Đảng Trung Hoa dựng nên. Trong đó, một số tổ chức từng theo Pháp, sau chuyển sang làm tay sai cho Nhật; một số tổ chức theo Nhật bị Pháp đàn áp và giam cầm, sau khi Nhật đảo chính Pháp thì được Nhật “hà hơi tiếp sức”, tiến hành chống phá cách mạng. Các cá nhân và tổ chức từng làm tay sai cho Pháp và phải nằm im sau ngày Nhật đảo chính Pháp, trước tình hình mới, bắt đầu ngóc đầu dậy với hy vọng Pháp quay trở lại. Các tổ chức phản động khác từng được bọn quân phiệt phản động Trung Hoa Dân quốc nuôi dưỡng thì trong bối cảnh quân đội Trung Hoa Dân quốc tràn vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng minh giải giáp quân Nhật, cho rằng đây là cơ hội thuận lợi để nhảy ra cướp thành quả cách mạng của nhân dân ta. Điều cực kỳ nguy hiểm là dù mỗi tổ chức phản động đó có những mưu đồ, tính toán riêng nhưng đều có chung mục tiêu là lật đổ chính quyền cách mạng!

Trong hoàn cảnh như vậy, để giành thắng lợi, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 phải làm tê liệt và tan rã tất cả các tổ chức chính trị phản động đó. Rõ ràng, đây là công việc không hề đơn giản trong điều kiện lực lượng vũ trang của ta còn chưa đủ mạnh. Để đập tan sự chống đối của các thế lực phản động, bóp chết ngay từ trong “trứng nước” những âm mưu, hành động xâm lược của thực dân Pháp sau khi bị Nhật đảo chính, đạp tung cánh cửa cản trở con đường tiến lên giành thắng lợi, Đảng ta phải sử dụng rất nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh. Không chỉ tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh, không chỉ biết phân hóa kẻ thù, mà Đảng ta còn kiên quyết lãnh đạo quần chúng nổi dậy trừng trị những tên ác ôn ngoan cố, sử dụng bạo lực cách mạng để trấn áp, đè bẹp sự phản kháng của các lực lượng quân đội phát-xít Nhật cũng như làm thất bại ngay từ đầu âm mưu trở lại thống trị Đông Dương của thực dân Pháp dù phải hy sinh xương máu.

Trong khi lực lượng chống cộng hay định kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình xuyên tạc lịch sử, thì không ít người vẫn tôn trọng sự thật khách quan khi nghiên cứu, đánh giá về Cách mạng Tháng Tám. William J. Duiker, một nhà sử học Mỹ có khá nhiều nghiên cứu về Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tách biệt rõ những “hoàn cảnh ngẫu nhiên” thuận lợi cho Cách mạng Tháng Tám với nhân tố chủ quan đóng vai trò quyết định thuộc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. William J. Duiker cho rằng: “Nhưng chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương. Ở các xứ thuộc địa khác, khoảng trống ấy (tức thời cơ - TG) có thể được lấp đầy bởi lực lượng dân tộc chủ nghĩa không Cộng sản. Nhưng ở Việt Nam, các phần tử dân tộc chủ nghĩa đã không thể đứng lên chấp nhận thách thức (...). Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc. Điểm cuối cùng này mới là quan trọng”(4).

Thực tế lịch sử nêu trên hoàn toàn bác bỏ luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị cho rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không có đối tượng, Đảng Cộng sản Đông Dương (tên gọi của Đảng ta lúc bấy giờ) chỉ biết lợi dụng thời cơ, và thắng lợi của cuộc cách mạng này “là sự ăn may của lịch sử!”./.

(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 535

(2) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 118

(3) Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 366

(4) William J. Duiker: The Communist  Road to Power in Vietnam, Boulder Co., Westview Press, 1981, tr.  100 - 101

Về một số quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin hiện nay

 

Để chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:

Một là, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị lỗi thời.

Đúng là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...

Đứng trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, bản chất khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó.

Hai là, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin”.

Quan điểm trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lý luận khoa học nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều, máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó”(1)  - tức ở phương Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận như C.  Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.

Mặt khác, nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác  - Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam - một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,... đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.

Ba là, có quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập C. Mác với V.I. Lê-nin để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung. Họ viện dẫn ra sự “đối lập” là C. Mác và Ph.  Ăng-ghen cho rằng, cách mạng vô sản phải nổ ra đồng thời trong các nước tư bản, ít ra là trong các nước tư bản phát triển, còn V.I. Lê-nin lại cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, còn lạc hậu, còn nhiều tàn tích của chế độ nông nô như nước Nga.

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm và phương pháp của V.I. Lê-nin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I.  Lê-nin mà họ dựng lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lê-nin là người mác-xít, ông đã tự nhận mình là học trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin thống nhất với nhau về bản chất. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. C.  Mác và V.I. Lê-nin sống ở hai thời đại khác nhau, C. Mác sống ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I. Lê-nin chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách mạng vô sản, phong trào giải phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những nhiệm vụ do thời đại của mình đặt ra. V.I. Lê-nin không thể máy móc, giáo điều ngồi chờ cho cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển được, mà phải chủ động nhận thức thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. V.I. Lê-nin trung thành với chủ nghĩa Mác trong bản chất cách mạng, khoa học, biện chứng, chứ không phải trung thành một cách máy móc bởi vì học thuyết của các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.

Bốn là, có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về mặt lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận định. Một số người nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt Nam, có nguồn gốc Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai”, “ngoại nhập”, không phù hợp với Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh (!). Quan điểm đó nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực tiếp và gián tiếp chính là nhằm phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng ta xác định nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.

Năm là, có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học thuyết” (!).

Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội  - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô./.

1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509


Đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay

 

 Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập vào khoảng giữa những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới đã được V.I. Lê-nin bổ sung, phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, mang bản chất khoa học và cách mạng, trở thành vũ khí tư tưởng - lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, phát triển toàn diện con người.

 Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã tồn tại trên 170 năm và trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ; mặc dù chủ nghĩa đế quốc cùng những thế lực phản động, thù địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin nhưng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn tồn tại, phát triển mà chưa có một học thuyết nào có thể thay thế được, nó có giá trị trường tồn, sức sống bền vững. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu người trên trái đất. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận định: “Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(1).

 Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động. Sự khẳng định đó nói lên ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Chủ nghĩa Mác  - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức thời đại, nhận thức tình hình thế giới và trong nước, là cơ sở khoa học để Đảng ta đề ra đường lối, chính sách đổi mới, phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, cho sự thống nhất và củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo đoàn kết, đồng thuận trong xã hội.

 Trong quá trình xây dựng, phát triển học thuyết khoa học của mình, C.  Mác, Ph.  Ăng-ghen và sau này là V.I. Lê-nin đã phải thường xuyên đấu tranh chống các quan điểm sai trái, như chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, giáo điều, xét lại. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen từng phê phán quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, của Pru-đông, của Đuy-rinh, của Lát-xan và nhiều quan điểm tư sản khác. Thông qua đấu tranh phê phán quan điểm phản diện, các ông đã trình bày quan điểm chính diện của mình, đã phát triển, hoàn thiện học thuyết của mình. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen đã từng khẳng định rằng, học thuyết của các ông có tính phê phán và cách mạng, nó không đội trời chung với quan điểm giáo điều, bảo thủ, với quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội và xét lại. Có thể khẳng định rằng, đấu tranh tư tưởng, lý luận để chống quan điểm sai trái nhằm bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác mang tính quy luật trong sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa Mác.

 Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh, kịch liệt phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của E. Ma-khơ, A-vê-na-ri-út,...; đấu tranh với những quan điểm cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo Quốc tế II, như Béc-xtanh, Cau-xky,...; đấu tranh với những quan điểm sai lầm của Plê-kha-nốp, Tờ-rốt-xki,  Bu-kha-rin,  Di-nô-vi-ép,... Thông qua đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, V.I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới - giai đoạn Lê-nin trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp với điều kiện lịch sử mới và phù hợp với những thành tựu mới nhất trong khoa học tự nhiên ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. V.I. Lê-nin đã từng gọi chủ nghĩa duy vật mác-xít là “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”, nghĩa là nó không ngừng đấu tranh chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội, xét lại, các quan điểm muốn bảo vệ trật tự tư sản. Vận dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nước Nga, V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong sự phát triển của xã hội loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối của Lê-nin, là sự bác bỏ mạnh mẽ nhất, quyết định nhất, có tính thuyết phục nhất đối với các quan điểm sai trái, thù địch lúc bấy giờ.

 Từ khi ra đời cho đến nay, trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nắm vững và vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng, từ đó đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

 Nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch nhằm ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện các kỳ đại hội Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh này. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng yêu cầu tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”...), Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết trong xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết nêu ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao./.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, t. 2, tr. 289

 


Tại sao lại tuyên bố ông Biden đắc cử tổng thống vào lúc này ?

 Dù phiếu bầu chưa kiểm hết và một số bang vẫn chưa có kết quả nhưng các hãng truyền thông Mỹ đã đồng loạt công bố ứng viên Dân chủ Joe Biden đắc cử, trở thành tổng thống thứ 46 của nước Mỹ.

Ông Joe Biden đắc cử tổng thống Mỹ sau chiến thắng tại Pennsylvania

 Ông Biden chính thức trở thành tổng thống đắc cử vào tối 7.11 (giờ Việt Nam). Cụ thể, hãng tin AP công bố ông Joe Biden thắng tại bang Pennsylvania, nâng tổng số phiếu đại cử tri lên thành 284 phiếu, thắng cử chung cuộc.

Việt Nam là nước có chủ quyền



Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành quy tắc ứng xử trên không gian mạng; yêu cầu định danh người dùng mạng xã hội, coi đây là giải pháp căn cơ để xử lý vấn nạn tin giả.

Có đúng là chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị lỗi thời?

 Hiện nay, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị lỗi thời (!).

Đúng là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...

Đứng trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, bản chất khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên

 

 Hiện nay, có một số người băn khoăn về nhiệm vụ đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa thuộc về những thành phần nào, hay nói cách khác là nhiệm vụ đó thuộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.