Để chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:
Một là,
có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quan
điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng
lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại
đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác - Lê-nin
đã bị lỗi thời.
Đúng là
thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác -
Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất
là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những
biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy
nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý
chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của
phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài
người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu
tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những
nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân...
Đứng trên
quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin
không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua,
song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bản chất khoa học và
cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn
luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài
người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận
thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được
vai trò đó.
Hai là,
có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt
Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam
là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ
nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ
chủ nghĩa Mác - Lê-nin”.
Quan điểm
trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái
quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lý luận khoa học
nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ
quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải
chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều,
máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương
Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ
nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở
lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời
mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học
phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng
cả ở đó”(1) - tức ở phương Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra
không chỉ đúng với các nước phát triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển.
Vì, về mặt phương pháp luận như C. Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển
cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.
Mặt khác,
nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách mạng
Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác - Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam - một nước
vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống
đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.
Trong thời
kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận
thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền
vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ
những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ
nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề,
như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn
đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,...
đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận
dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.
Ba là, có
quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập C.
Mác với V.I. Lê-nin để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa Lê-nin, phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung. Họ viện dẫn ra sự “đối lập” là C. Mác và
Ph. Ăng-ghen cho rằng, cách mạng vô sản phải nổ ra đồng thời trong các nước tư
bản, ít ra là trong các nước tư bản phát triển, còn V.I. Lê-nin lại cho rằng
cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở
một nước riêng lẻ, còn lạc hậu, còn nhiều tàn tích của chế độ nông nô như nước
Nga.
Thành
công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan
điểm và phương pháp của V.I. Lê-nin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I. Lê-nin mà
họ dựng lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lê-nin là người mác-xít, ông đã tự nhận
mình là học trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin thống nhất với nhau
về bản chất. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
và cách mạng vô sản. C. Mác và V.I. Lê-nin sống ở hai thời đại khác nhau, C.
Mác sống ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I.
Lê-nin chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách
mạng vô sản, phong trào giải phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những
nhiệm vụ do thời đại của mình đặt ra. V.I. Lê-nin không thể máy móc, giáo điều
ngồi chờ cho cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển được,
mà phải chủ động nhận thức thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. V.I. Lê-nin trung thành với chủ nghĩa Mác
trong bản chất cách mạng, khoa học, biện chứng, chứ không phải trung thành một
cách máy móc bởi vì học thuyết của các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ
nam cho hành động.
Bốn là,
có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ
nhận cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Quan điểm
trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí
Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa
Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất,
là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông
qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập
trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu thực
tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước
đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm
phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về mặt
lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin
chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có
cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa
Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận định. Một số người
nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt Nam, có nguồn gốc
Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai”, “ngoại nhập”, không phù hợp
với Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra khỏi nền tảng
tư tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh (!). Quan điểm đó nhân
danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực tiếp và gián tiếp chính
là nhằm phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có
chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng ta xác định nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối
quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ phận cấu thành nền tảng tư
tưởng của Đảng.
Năm là,
có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là
do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học
thuyết” (!).
Chúng ta
thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp
đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan
liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết
tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy
có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực
tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện
và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự
sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô
trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối
ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất
trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế
quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp.
Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính sự nhận
thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin của một số người
cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy,
quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác -
Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội
nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải
tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn,
trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành với
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm
mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu
xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân,
chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải
qua gần 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản
đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên
Xô./.
1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét