Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

Khơi dậy và phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững ở nước ta hiện nay

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã bồi đắp, kết tinh nên những trầm tích văn hóa - nguồn tài nguyên quý giá, nguồn lực nội sinh quan trọng của dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh mới, để ứng phó linh hoạt, hiệu quả với những thách thức phức tạp, khó dự báo hiện nay, việc khơi dậy và phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội là một yêu cầu cấp thiết được đặt ra, qua đó góp phần gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.

   Tiềm năng và cơ hội khơi dậy, phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam

Bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa

Việt Nam là quốc gia có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa. Trong lịch sử phát triển, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có ý thức tạo lập và phát huy sức mạnh văn hóa của đất nước. Việt Nam đã luôn đối mặt và chiến thắng những đội quân xâm lược có tiềm lực quân sự, kinh tế lớn hơn gấp nhiều lần. Có thể thấy, những nét đẹp của văn hóa Việt Nam là nguồn cội quan trọng tạo nên sức mạnh văn hóa Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đề cập tới nhiều nguồn (tài nguyên) có tiềm năng phát triển văn hóa Việt Nam nhằm phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, trong đó có bề dày lịch sử và sự đa dạng văn hóa.

Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Một mặt, tính đa dạng là một đặc điểm lâu đời của nền văn hóa Việt Nam gắn với nông nghiệp trồng lúa nước, tính cộng đồng cao, trải qua quá trình lịch sử lâu dài đối phó với thiên nhiên cũng như kiên cường chống các thế lực ngoại xâm. Mặt khác, nằm trong khu vực ảnh hưởng của nhiều nền văn minh lớn trên thế giới là Ấn Độ, Trung Quốc và phương Tây, Việt Nam không chỉ tiếp thu, mà còn biến đổi những tinh hoa văn hóa thế giới cho phù hợp với điều kiện của mình. Do vậy, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dạng từ nguồn cội ban đầu. Giao lưu với văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Hoa diễn ra trong thời gian rất dài thông qua nhiều cách thức đã tạo nên dấu ấn khá đậm nét trong văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, người Việt vẫn giữ được bản sắc văn hóa của riêng mình. Điều này được thể hiện qua nhiều bình diện khác nhau trong đời sống người Việt, từ tôn giáo, tâm linh  đến thế giới quan, chuẩn mực đạo đức xã hội, kiến trúc, ngôn ngữ, đời sống sinh hoạt hằng ngày... Có thể nói, chúng ta có một nền văn hóa đa dạng và phong phú, đồng thời có một nền văn hóa chủ lưu làm cơ sở cho các cộng đồng văn hóa thiểu số, đó là văn hóa Việt. Điều này thúc đẩy sự phát triển yếu tố nội sinh của dân tộc, tạo nên sức mạnh đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc anh em trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo ra sức hấp dẫn, sự lôi cuốn, khả năng thuyết phục của văn hóa Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội trong quá khứ cũng như hiện tại.

Tính đa dạng văn hóa thể hiện trong chính hoạt động của nền kinh tế, từ kinh tế truyền thống tới kinh tế nông nghiệp, kinh tế ngư nghiệp, kinh tế ẩm thực, kinh tế du lịch và các ngành kinh tế khác được công nghiệp văn hóa khai thác. Từ đây, nền tảng của sự đa dạng văn hóa từ xưa của Việt Nam không chỉ cung cấp những điều kiện để phát triển kinh tế, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế du lịch, công nghiệp văn hóa, tạo nên một hình ảnh Việt Nam mới phát triển mạnh về kinh tế, hấp dẫn về cơ hội đầu tư, thu hút sự khám phá đối với thế giới. Sự tồn tại đặc thù của các cộng đồng giúp giữ gìn nhiều ngành, nghề truyền thống. Khi kinh tế của các cộng đồng đó phát triển, năng lực sáng tạo độc đáo của các cộng đồng đó sẽ tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần có giá trị. Các làng nghề truyền thống được bảo tồn và phát triển không chỉ bởi sinh kế của người dân, mà còn giúp giữ gìn những mạch nguồn văn hóa kết tinh và phát triển từ truyền thống tạo nên những sản phẩm độc đáo, có giá trị kinh tế và hàm lượng văn hóa cao. Trên cơ sở đó, các ngành du lịch sẽ có chất liệu để khai thác, tạo nên sự hấp dẫn với du khách đến từ những nền văn hóa khác. Nông thôn Việt Nam, đặc biệt là các làng nghề, không chỉ là những cộng đồng kinh tế, mà còn là những cộng đồng văn hóa, xã hội. Mỗi làng nghề truyền thống luôn có các hoạt động lễ hội, phường hội, những nét văn hóa mang đậm chất dân gian và chứa đựng bề dày lịch sử riêng biệt. Nhiều làng nghề còn là những làng văn hóa cổ với kiến trúc độc đáo. Chính vì vậy, sự đa dạng của các làng nghề truyền thống sẽ tạo nên những điểm du lịch hấp dẫn đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Những người nước ngoài tới các làng nghề không chỉ đơn thuần tham quan các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, mà còn để tận mắt ngắm nhìn những sản phẩm độc đáo và cách thức tạo ra chúng từ những bàn tay khéo léo, khối óc sáng tạo của các nghệ nhân, qua đó có thể tìm hiểu và khám phá những giá trị văn hóa, lịch sử. Nếu chúng ta có chiến lược đầu tư, khai thác sự đa dạng, phong phú của các nghề thủ công, các làng nghề truyền thống trong phát triển du lịch văn hóa, thì cùng với các sản vật phong phú, các sản phẩm thủ công độc đáo, các lễ hội, trò chơi dân gian và văn hóa ẩm thực dân gian, du lịch làng nghề sẽ là một sản phẩm du lịch thu hút được sự quan tâm của rất nhiều du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài.

Sự tồn tại đa dạng của các cộng đồng văn hóa cung cấp nét độc đáo cho sự gắn kết giữa các cộng đồng dân tộc Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới. Từ xưa tới nay, đối thoại giữa các nền văn hóa là điều kiện tiên quyết để từng cộng đồng, từng dân tộc bộc lộ và phát huy hết những năng lực sáng tạo độc đáo của mình trong quá trình tạo ra các giá trị mới về vật chất cũng như tinh thần. Trong bối cảnh hiện nay, đối thoại giữa các nền văn hóa đang là yêu cầu quan trọng bậc nhất để hướng tới sự phát triển bền vững của thế giới. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tạo ra nguy cơ đánh mất bản sắc giữa các nền văn hóa trên thế giới, nguy cơ đồng dạng hóa các giá trị văn hóa theo một khuôn mẫu. Sự đa dạng của các nền văn hóa, các cộng đồng văn hóa ở Việt Nam tạo ra môi trường để tăng cường tình đoàn kết, sự gắn bó giữa các cộng đồng. Mỗi tộc người có nền văn hóa, nét văn hóa riêng biệt, nhưng do yêu cầu chống thiên tai, bảo vệ cuộc sống và nhu cầu chống giặc ngoại xâm, và do cả sự giao lưu, hội nhập văn hóa, dân tộc Việt Nam vẫn hình thành nên một mẫu số chung, một hệ giá trị chung bền vững. Đó là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, lối sống khoan hòa, lối ứng xử linh hoạt, cởi mở, dễ tiếp thu những giá trị mới, tinh thần hòa hiếu...

Sự đa dạng trong thống nhất, thống nhất mà vẫn đa dạng của nền văn hóa Việt Nam là một trong những yếu tố quan trọng tạo cơ hội để Việt Nam phát triển văn hóa theo hướng bền vững. Về mặt an ninh quốc phòng, đa dạng văn hóa tạo nên nguồn sức mạnh mềm hiệu quả để thúc đẩy và bảo đảm an ninh chính trị cũng như bảo vệ sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Các cộng đồng tộc người sống rải rác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, vùng biên giới đa số là các cộng đồng dân tộc thiểu số. Mỗi cộng đồng khi bảo tồn được những giá trị văn hóa của cộng đồng mình sẽ tạo nên sự gắn kết bền chặt, phát triển bền vững. Việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số ở cùng khu vực với nhau sẽ tạo nên phương thức hiệu quả để bảo đảm an ninh chính trị, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

Thế giới đang bước vào quá trình phát triển và hội nhập mạnh mẽ. Quá trình hội nhập tạo nên cơ hội cho việc giao lưu, quảng bá của các nền văn hóa trên thế giới. Điều này cũng khiến cho mỗi khu vực trên thế giới đều đang trở nên đa dạng về mặt văn hóa, đồng thời cũng tạo ra không ít xung đột do những va chạm và khác biệt giữa các nền văn hóa khác nhau. Các quốc gia đã nhận ra chìa khóa của sự phát triển hòa bình và ổn định trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng là sự thấu hiểu, tôn trọng và khoan dung với mọi khác biệt và đa dạng của các nền văn hóa khác. Do vậy, bảo tồn và phát huy tính đa dạng văn hóa vốn có của Việt Nam hiện nay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế.

Di sản phong phú, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, giàu tiềm năng

Với bề dày hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam lưu giữ hệ thống di sản văn hóa và tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Đây chính là tiềm năng sẵn có để Việt Nam đa dạng hóa các sản phẩm, loại hình du lịch văn hóa, qua đó phát huy sức hấp dẫn, thu hút về sức mạnh mềm văn hóa. Tính đến hết năm 2018, Việt Nam có khoảng 3.500 di tích được xếp hạng quốc gia, 107 di tích quốc gia đặc biệt. Các di sản thiên nhiên thế giới (Vịnh Hạ Long, Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng), di sản thiên nhiên và văn hóa (như Quần thể danh thắng Tràng An, Công viên địa chất toàn cầu là Cao nguyên đá Đồng Văn), di sản văn hóa vật thể và phi vật thể (Cố đô Huế, Đô thị cổ Hội An, Khu đền tháp Mỹ Sơn, Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Thành nhà Hồ, Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Hát xoan ở Phú Thọ, Tín ngưỡng thờ Hùng Vương, Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ, Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật ca bài chòi Trung Bộ Việt Nam, Nghi lễ và trò chơi kéo co, Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, nghệ thuật Xòe Thái…); di sản tư liệu của thế giới (Mộc bản triều Nguyễn, Bia đá các khoa thi tiến sĩ triều Lê và Mạc, Mộc bản Kinh Phật thiền phái Trúc Lâm chùa Vĩnh Nghiêm, Châu bản triều Nguyễn, Thơ văn kiến trúc cung đình Huế) chính là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, giàu tiềm năng của nước ta.

Bên cạnh đó, với bề dày và sự đa dạng về văn hóa của 54 dân tộc, Việt Nam có hàng chục nghìn di sản văn hóa vật thể, hơn 3 triệu di vật, cổ vật có giá trị (đang được bảo quản, trưng bày tại hệ thống 166 bảo tàng)(1) và một hệ thống phong phú các lễ hội (7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội quốc gia), phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, làng nghề thủ công, văn hóa ẩm thực, trang phục,... phân bố khá đồng đều trên khắp các vùng, miền(2). Những số liệu nói trên đã minh chứng cho việc tài nguyên văn hóa là một yếu tố cốt lõi của quá trình chuyển hóa nguồn lực mềm văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa thông qua xây dựng, phát triển sản phẩm du lịch và là mấu chốt quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch.

Nền văn hóa mở và các giá trị văn hóa có sức hấp dẫn, thuyết phục thế giới

Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa mở.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn là nền văn hóa không khép kín, hẹp hòi, kỳ thị, mà luôn cởi mở, khoan dung, sẵn sàng tiếp thu, chọn lọc cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại để nâng cao và làm giàu cho văn hóa dân tộc (tiếp biến tư tưởng, học thuật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, chữ viết từ văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, phương Tây,... một cách sáng tạo). Chúng ta cũng luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại để nâng tầm, hoàn thiện văn hóa Việt Nam, tiếp nhận những giá trị phổ quát của nhân loại mà không cực đoan, chia rẽ. Đây là những nhân tố tích cực tạo tiền đề để chúng ta dễ dàng hòa nhập vào dòng chảy chung của văn hóa thế giới và được quốc tế công nhận.

Một số giá trị văn hóa của người Việt Nam có sức thuyết phục thế giới.

Từ xưa đến nay, nhân dân các nước trên thế giới biết đến và nể trọng Việt Nam vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc với những giá trị cốt lõi, như lòng yêu nước, anh hùng, quả cảm, quật cường, đồng thời luôn hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, nhân ái, vị tha. Truyền thống nhân nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” của Nguyễn Trãi trước đây và tinh thần hòa hiếu, khoan dung của chúng ta là cơ sở, nền tảng để Việt Nam có quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Thái độ thân thiện, mến khách của người Việt Nam cũng luôn được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đó là những giá trị tốt đẹp và bền vững, nếu chúng ta biết quảng bá và phát huy đúng cách, sẽ có khả năng lan tỏa và sức thuyết phục, chiếm được thiện cảm, sự yêu mến của cộng đồng thế giới.

Con người Việt Nam có tài năng sáng tạo và năng lực thích ứng cao.

Tài năng sáng tạo của các thế hệ tiền nhân đã được thể hiện rất rõ qua những thành tựu văn hóa vật thể và phi vật thể. Ngày nay, Việt Nam là đất nước có dân số trẻ, tăng trưởng nhanh, các thế hệ mới có chỉ số thông minh cao, hiếu học, năng động, có năng lực sáng tạo tốt. Ngày càng xuất hiện nhiều tài năng trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Con người Việt Nam vốn được tôi luyện qua bao biến thiên của lịch sử, nên có khả năng thích ứng cao, giao lưu, tiếp biến văn hóa tốt và đặc biệt rất nhanh nhạy trong kết nối toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam đang có những cải thiện vượt bậc về kết cấu hạ tầng thông tin - truyền thông. Mức độ sử dụng internet, số hóa ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Đây là những tiền đề quan trọng về cơ sở khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu và truyền thông văn hóa.

Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đã, đang sở hữu không ít lợi thế, cơ hội và điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển văn hóa theo hướng hiện đại, bền vững, hội nhập quốc tế. 

Giải pháp phát huy tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội bền vững

Thực tế cho thấy, văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau sẽ có những cách thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu khác nhau trong chiến lược phát triển văn hóa. Nhưng có một mẫu số chung trên bản đồ văn hóa thế giới là những quốc gia chuyển hóa tốt nhất nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết với các trụ cột phát triển luôn là các quốc gia có những tiền đề vững chắc cho sự phát triển và hội nhập quốc tế, đồng thời có khả năng ứng phó hiệu quả trước những thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đặt ra trong quá trình phát triển.

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc rõ ràng đang gặp phải nhiều thách thức trong tiến trình hiện thực hóa. Nhưng thách thức cũng chính là động lực để chúng ta nỗ lực tìm ra sự kết nối logic giữa nguồn tài nguyên văn hóa dồi dào với quyết tâm chính trị đã được khẳng định tại Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tìm ra các giải pháp mang tính chiến lược nhằm biến văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực khơi dậy khát vọng cống hiến vì một Việt Nam phồn vinh, bền vững, tự cường, tự chủ. Với cách tiếp cận thể chế, có thể thấy, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ quan điểm phát huy nguồn tài nguyên văn hóa Việt Nam dựa trên việc khai thác các thành tố văn hóa nằm trong các trụ cột tài nguyên văn hóa để quảng bá hình ảnh quốc gia, bản sắc dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập quốc tế về văn hóa, từ đó góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia. Với cách tiếp cận này, Việt Nam đang nỗ lực vận dụng, phát huy nguồn tài nguyên văn hóa phong phú, các thành tố văn hóa giàu sức hấp dẫn, thu hút, thuyết phục để chuyển hóa thành sức mạnh mềm văn hóa. Hệ thống các quan điểm, chính sách, phân tích quá trình triển khai chính sách liên quan đến phát huy sức mạnh mềm văn hóa của Việt Nam đã chỉ ra điểm mạnh của Việt Nam chính là 8 trụ cột tài nguyên sức mạnh mềm văn hóa chính: 1- Di sản văn hóa phi vật thể (sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,... như nghệ thuật truyền thống, lễ hội truyền thống, bí quyết nghề thủ công truyền thống, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống...); 2- Di sản văn hóa vật thể; 3- Di sản thiên nhiên thế giới; 4- Lễ hội mới và sự kiện văn hóa; 5- Các sản phẩm và dịch vụ thuộc ngành công nghiệp văn hóa; 6- Các giá trị và danh nhân văn hóa; 7- Văn hóa cộng đồng cơ sở; 8- Các cơ sở vật chất và không gian văn hóa. Trong quá trình triển khai, các chiến lược quốc gia về ngoại giao văn hóa, thông tin, truyền thông, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đều đưa ra các mục tiêu, giải pháp có khả năng phối hợp đồng bộ các kênh truyền dẫn chính là ngoại giao văn hóa, truyền thông và các ngành công nghiệp văn hóa trong việc chuyển hóa các thành tố sức mạnh mềm văn hóa thành hiệu ứng tạo sức thu hút, lan tỏa, hấp dẫn của văn hóa Việt Nam ra thế giới và lôi cuốn, thuyết phục thế giới đến với Việt Nam. Trên thực tiễn, các kênh này đang tạo nên chuỗi liên kết theo hướng khai thác các thành tố văn hóa nằm trong hệ thống di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, các giá trị văn hóa, con người có sức hấp dẫn, thu hút và thuyết phục của Việt Nam cùng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, từ đó hướng tới việc thu hút thế giới đến với Việt Nam thông qua du lịch văn hóa và đưa sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam ra thế giới thông qua quảng bá hình ảnh quốc gia, tăng cường giao lưu văn hóa và hình thành mạng lưới các trung tâm văn hóa, các dự án giới thiệu văn hóa Việt Nam, các danh nhân Việt Nam ra thế giới, đặc biệt là đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa kiệt xuất, ở nước ngoài”. Đây là cách Việt Nam học tập kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới khi đưa hình ảnh của lãnh tụ thành biểu tượng thể hiện hoài bão, tâm thế, ý chí của cả một dân tộc ra thế giới.

Trong thời gian tới, để khơi dậy, phát huy hiệu quả hơn nữa tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 24-11-2021, trước hết là ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, để văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị; văn hóa vừa là trụ cột, vừa là nền tảng phát triển xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.

Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách, khung khổ pháp lý tạo cơ chế chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế. Giai đoạn 2021 - 2025 và đến năm 2030 tập trung tham mưu, đề xuất xây dựng các dự án luật, nghị định thuộc lĩnh vực văn hóa(3).

Ba là, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.

Tập trung xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, bảo đảm mọi thành viên của cộng đồng được phát triển các năng lực sáng tạo. Tập trung ưu tiên xây dựng văn hóa trong chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức thượng tôn pháp luật, xây dựng văn hóa trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, văn hóa doanh nghiệp và mỗi gia đình là những đơn vị văn hóa thực chất. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố bồi đắp giá trị chân - thiện - mỹ.

Khi nhiệm vụ xây dựng văn hóa trở thành thường trực, nền tảng văn hóa được hình thành tự nhiên, tự nguyện trong mỗi cộng đồng, trong mỗi người thì khả năng chọn lọc cái tinh tế, tốt đẹp, định vị bản thân, giá trị, bản sắc dân tộc gắn với khát vọng hội nhập, cống hiến sẽ trở thành “lá chắn mềm” loại trừ cái phản cảm, phi văn hóa.

Xây dựng thể chế theo hướng gắn văn hóa với phát triển kinh tế, chính trị, xã hội chính là giải pháp căn cốt để hình thành hệ sinh thái có khả năng thúc đẩy sự đa dạng của các biểu đạt văn hóa, tạo sự chủ động hợp tác và quảng bá các giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam ra thế giới nhằm gia tăng sức mạnh mềm văn hóa, định vị “thương hiệu quốc gia”, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế, tạo dựng môi trường hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.

Bốn là, hoàn thiện cơ chế thị trường trong lĩnh vực văn hóa, ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa, từng bước đưa công nghiệp văn hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần nâng cao đời sống xã hội.

Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030 với 3 trụ cột tăng cường đầu tư, đổi mới sáng tạo và đột phá thể chế nhằm phát huy vai trò của trụ cột văn hóa gắn liền với trụ cột kinh tế, chính trị, xã hội theo hướng phát triển bền vững. Chú trọng đổi mới sáng tạo nhằm khuyến khích, phát huy tối đa các nguồn tài nguyên văn hóa, năng lực sáng tạo của toàn dân, đặc biệt là sức sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để ngày càng có nhiều tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật có giá trị cao nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam. Tôn trọng quy luật riêng của nghệ thuật, có chính sách phù hợp nhằm khích lệ, động viên, hỗ trợ các văn nghệ sĩ trong sáng tác, sáng tạo nghệ thuật để tạo ra những tác phẩm được sống mãi với thời gian.

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm(4) để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, dựa trên sự sáng tạo, khoa học - công nghệ và bản quyền trí tuệ, phấn đấu đạt mục tiêu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP vào năm 2030; gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

Năm là, phát huy hiệu quả nguồn lực đầu tư phát triển trong lĩnh vực văn hóa, bao gồm nguồn ngân sách nhà nước chi cho văn hóa, đẩy mạnh hợp tác công - tư, xây dựng cơ chế ưu đãi, miễn, giảm thuế, phí phù hợp với thực tiễn và có khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa.

Sáu là, chủ động hội nhập, tăng cường các hoạt động hợp tác, giao lưu quốc tế, xúc tiến thương mại trong lĩnh vực văn hóa.

Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông văn hóa để quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Đa dạng hóa các sản phẩm văn hóa, các hình thức truyền thông văn hóa ra thế giới bằng tiếng nước ngoài để phù hợp với nhiều thị trường khách quốc tế khác nhau. Đổi mới và nâng cao chất lượng việc tổ chức các “Ngày Văn hóa”, “Tuần Văn hóa”, các lễ hội văn hóa - du lịch Việt Nam, các sự kiện, chương trình hoạt động văn hóa, nghệ thuật ở nước ngoài. Tăng cường sự hiện diện của Việt Nam tại các sự kiện văn hóa, nghệ thuật lớn của thế giới, như EXPO, các triển lãm mỹ thuật thế giới, liên hoan phim quốc tế, như liên hoan phim Cannes, Berlin, Busan, Oscar hay Tokyo... Phát triển hệ thống các trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài tại các địa bàn trọng điểm trên thế giới; qua đó, góp phần gia tăng “sức mạnh mềm” của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.

Văn hóa hiện diện ở các cấp độ vô cùng đa dạng, các nền văn hóa khác nhau tương tác theo những cách thức khác nhau, nếu chuyển hóa hiệu quả tài nguyên văn hóa thông qua giải pháp phù hợp sẽ tạo được sự hấp dẫn, thu hút, lôi cuốn, thuyết phục về văn hóa của một quốc gia đối với quốc gia khác trong quan hệ quốc tế. Đối với Việt Nam - một quốc gia có lợi thế về nguồn tài nguyên văn hóa sẵn có, việc sử dụng và phát huy hiệu quả nguồn lực tài nguyên văn hóa thông qua các giải pháp chính sách là một yêu cầu cần thiết trong việc khơi dậy, phát huy nguồn tài nguyên văn hóa gắn với phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù, ở cả thời điểm hiện tại lẫn tương lai, việc khơi dậy, phát huy tài nguyên văn hóa Việt Nam gắn với phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều thách thức, nhưng nếu sớm thực hiện các giải pháp chính sách gắn văn hóa với kinh tế - xã hội theo hướng vận dụng và chuyển hóa tốt nhất nguồn lực văn hóa, Việt Nam sẽ khơi dậy, phát huy hiệu quả sức mạnh nội sinh, sức mạnh mềm văn hóa trong mối liên kết sức mạnh tổng hợp quốc gia; qua đó, ứng phó hiệu quả với những thách thức phức tạp, khó dự báo hiện nay và góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước./.

-------------------

(1) Theo số liệu của Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, 2018
(2) Theo số liệu của Trung tâm thông tin du lịch, Tổng cục Du lịch, 2015
(3) Luật Điện ảnh (sửa đổi), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (sửa đổi), Luật Di sản văn hóa (sửa đổi),... nhất là những lĩnh vực chuyên môn đã có đủ cơ sở về lý luận và thực tiễn để xây dựng luật, như dự án Luật Nghệ thuật biểu diễn, Luật Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm
(4) Điện ảnh, thời trang, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa

Đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của thế lực thù địch trên không gian mạng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam

 Thời gian qua, hoạt động tấn công chính trị trên không gian mạng nhằm vào Việt Nam ngày càng nguy hiểm, khó lường với những phương thức, thủ đoạn hết sức tinh vi. Các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối trong nước cũng triệt để sử dụng không gian mạng, chủ yếu là mạng xã hội Facebook, Youtube để phá hoại tư tưởng, từng bước triển khai âm mưu “diễn biến hoà bình” và các cuộc cách mạng màu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Trong kỷ nguyên số, không gian mạng ngày càng trở thành mặt trận chính trong cuộc đấu tranh ý thức hệ. Với những ưu thế nổi trội so với các phương tiện truyền thông, nhất là tính siêu kết nối, tính mở, khó kiểm soát, tính nặc danh…, các phương tiện truyền thông mới bị các thế lực thù địch triệt để lợi dụng để phát tán các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch trên không gian mạng, biến thành công cụ đắc lực chống phá Đảng, Nhà nước ta. Với lượng người dùng internet cao, những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội. Hằng ngày, có hàng nghìn tin, bài chống phá được các thế lực thù địch tung lên không gian mạng, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Nếu chủ quan, lơ là, mất cảnh giác hoặc thiếu những giải pháp đấu tranh hữu hiệu, để những thông tin xấu độc tràn lan trên không gian mạng sẽ gây nên những hệ lụy khôn lường.

Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…, trong đó tập trung tấn công vào một số nội dung cốt lõi thuộc hệ tư tưởng, đường lối của Đảng ta:

Một là, các thế lực thù địch đòi Đảng ta từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Chúng bài bác chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tập trung tấn công vào những vấn đề nguyên tắc then chốt, luận điểm cơ bản nhất, như bác bỏ chủ nghĩa duy vật lịch sử; phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và bản chất giai cấp công nhân của Đảng ta; phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội và xuyên tạc mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Chúng công kích, xuyên tạc nhằm “hạ bệ” tư tưởng Hồ Chí Minh bằng phủ nhận nội dung, giá trị tư tưởng của Người; cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Nói xấu, bôi nhọ đời tư, hình ảnh lãnh tụ cộng sản, lãnh tụ Đảng ta. Điển hình như, ngày 27-9-2018, Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt (thành phố Cần Thơ) đã xét xử sơ thẩm bị cáo Bùi Mạnh Đồng (“tự” Beo, 40 tuổi, ngụ quận Thốt Nốt) về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Trước đó, từ năm 2017 đến tháng 7-2018, Bùi Mạnh Đồng đã lấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ trên mạng internet, sau đó chèn chữ vào hình ảnh, tạo nên nội dung xuyên tạc, vu khống, nhằm bôi nhọ lãnh tụ. Qua đó, đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước chống phá chế độ; gây khó khăn cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Hai là, chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị. Phủ nhận, bôi đen những thành tựu; cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những tiêu cực, khuyết tật, tạo cái nhìn đen tối, bi quan về tình hình đất nước. Một trong những thủ đoạn xảo quyệt mà chúng thường áp dụng là lợi dụng các trang mạng xã hội và các blog cá nhân để tung tin xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đặc biệt, trước những sự kiện lớn, các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước, cấp độ, mật độ và tần suất những thông tin xấu, độc trên các trang mạng xã hội và các blog cá nhân này ngày càng gia tăng…

Ba là, phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi xóa bỏ sở hữu toàn dân, thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân đồng nhất với tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Cổ xúy phi chính trị hóa lực lượng vũ trang; phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Tán dương nền tự do báo chí tư sản, vai trò “quyền lực thứ tư” của báo chí, nhân danh tự do sáng tạo để tách sự lãnh đạo của Đảng khỏi hoạt động báo chí, văn học, nghệ thuật. Thúc đẩy hình thành các tổ chức “xã hội dân sự” trá hình, từ đó cho ra đời các tổ chức đối lập chính trị ở Việt Nam. Tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá…

Thực tế, các đối tượng phản động đã thành lập rất nhiều các trang web có nội dung chống phá nhà nước ta như: Việt Tân, VOA Tiếng Việt, RFI, RFA… Với hình thức trình bày sinh động, hướng dẫn các Website đã thu hút được một lượng lớn người sử dụng Internet truy cập hằng ngày. Chúng còn lập những tài khoản giả mạo, các Website các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng trong xã hội…, qua đó tung tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm.

Không gian mạng đã và đang trở thành công cụ hành đầu để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chuyển hoá chính trị, khủng bố. Đây thật sự là một mặt trận quan trọng và không thể buông lỏng. Đấu tranh tư tưởng trên không gian mạng hiện nay là vấn đề khách quan, nhiệm vụ trọng yếu, đòi hỏi mọi người, mọi lực lượng thực thi nhiệm vụ này trên không gian mạng phải luôn nhận thức đầy đủ những thách thức và yêu cầu của nhiệm vụ, xây dựng bản lĩnh, trách nhiệm và quyết tâm cao, góp phần giữ vững nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng trước tình hình mới. Trước thực trạng này, để nâng cao hiệu quả, góp phần tăng cường công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động chống phá, luận điệu xuyên tạc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, nhất là trên không gian mạng, cần thực hiện tốt một vài giải pháp chủ yếu sau:

Một là, bổ sung, hoàn thiện nội dung, phương thức đấu tranh phòng, chống quan điểm sai trái trên không gian mạng trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Lợi dụng những thành tựu của thời đại 4.0, các thế lực thù địch có những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt. Do vậy, ta không chỉ cần kiểm soát chặt chẽ về mặt nội dung mà còn phải bổ sung, hoàn thiện về hình thức, không để xuất hiện sơ hở cho thế lực thù địch lợi dụng.

Hai là, thực hiện có hiệu quả các giải pháp công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm nước ngoài, xử lý nghiêm các vi phạm trên không gian mạng. Với chúng ta, song hành cùng các giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, thì cần đẩy mạnh thực hiện các giải pháp công nghệ, như: bảo vệ tốt thông tin cá nhân; kỹ thuật phát tán thông tin trên không gian mạng; kỹ thuật phân tích điều tra, ngăn chặn, bóc gỡ, khóa tài khoản của đối phương… có vị trí vô cùng quan trọng, góp phần quyết định đến thắng lợi trong đấu tranh phòng, chố ng quan điểm sai trái trên không gian mạng hiện nay.

Ba là, giáo dục các quy định của pháp luật về quản lý không gian mạng. Phổ biến các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 (Mục 2, Điều 285-294) liên quan đến lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ và Thông tư số 09/2014/BTTTT ngày 19/8/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội, những hành vi bị nghiêm cấm trong sử dụng mạng xã hội. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật An ninh mạng năm 2018. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 16/9/2013 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) về tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin mạng, Chỉ thị số 15/CT-TTg, ngày 17/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác đảm bảo an ninh và an toàn thông tin mạng trong tình hình mới và Thông báo số 17/TB-VPTW ngày 23/8/2016 của Thường trực Ban Bí thư về biện pháp cấp bách bảo đảm an ninh, an toàn thông tin mạng; nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai thật tốt Nghị quyết này, xem đây là sự định hướng chiến lược quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Các hình thức giáo dục cần được vận dụng đa dạng, phong phú và linh hoạt như: phối hợp giữa cơ quan chức năng với các cơ quan, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục tổ chức nói chuyện chuyên đề, phổ biến pháp luật; tuyên tuyền Luật An ninh mạng; các cuộc thi tìm hiểu về an toàn thông tin; góp ý xây dựng chương trình giáo dục an toàn thông tin mạng của các cơ sở giáo dục hoặc tham gia biên soạn các tài liệu liên quan đến an toàn thông tin mạng.

Đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái của thế lực thù địch trên không gian mạng hiện nay là cuộc đấu tranh hết sức quyết liệt, gay gắt, lâu dài và vô cùng phức tạp. Với vai trò là lực lượng xung kích, đi đầu, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh hiệu quả, thiết thực góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình’, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực thù địch.

"Bút nghiên dư ảnh", lớp học nuôi dưỡng tình yêu dân tộc

 

Nằm trong dự án “Không gian văn hóa Quốc Tử Giám”, lớp học “Bút nghiên dư ảnh” với nội dung chương trình tái hiện lại không khí học tập, thi cử thời kỳ phong kiến.

Thông qua hình ảnh, câu chuyện về bút lông, nghiên mực, tình thầy trò, đạo làm người của lớp người xưa mà các em học sinh ngày nay thêm hiểu, thêm yêu lịch sử, văn hóa dân tộc. 

Tái hiện lớp học xưa

Sáng cuối tuần một ngày cuối tháng 7, Nhà Tiền đường (Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu-Quốc Tử Giám) sôi nổi hơn mọi khi. 24 em học sinh trong trang phục áo dài truyền thống từ độ tuổi 11 đến 13 cùng nhau thảo luận về những bài học lịch sử tại lớp học “Bút nghiên dư ảnh”. Hôm nay, chủ đề của lớp học là “Truyền thống tu thân, học đạo”. Trong hai tiếng, các em được tìm hiểu những nội dung như: “Hiếu đễ là gì?”, “Tu thân "Gia huấn ca"-Nguyễn Trãi”, “Tiểu nhân là gì, quân tử là gì?”...

"Bút nghiên dư ảnh", lớp học nuôi dưỡng tình yêu dân tộc
 Lớp học “Bút nghiên dư ảnh” tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Chăm chú lắng nghe bài giảng và hào hứng tham gia phát biểu, em Hoàng Hà My, học sinh lớp 7A8, Trường THCS Lê Quý Đôn (Cầu Giấy, Hà Nội) cho biết: “Những năm trước, em thường về quê hoặc đi du lịch cùng gia đình vào mỗi dịp nghỉ hè. Năm nay, em rất vui khi được tham gia lớp học “Bút nghiên dư ảnh”. Mới học được 3 buổi nhưng em đã hiểu thêm về truyền thống đạo học của người Việt thời xưa; đạo làm người để sống và ứng xử cho đúng thuần phong mỹ tục. Ngay cả động tác cúi chào thầy trước khi vào lớp học cũng chứa đựng nhiều thông điệp, giá trị nhân văn”.

Được biết, "bút nghiên" nghĩa là bút lông, nghiên mực, "dư ảnh" là tái hiện lại hình ảnh của quá khứ. Lớp học "Bút nghiên dư ảnh" hoạt động theo hình thức phi lợi nhuận, nhằm lan tỏa giá trị truyền thống, từ đó góp phần hình thành nhân cách học sinh. Các em sẽ trải qua 5 buổi học vào sáng thứ bảy hằng tuần với 5 chủ đề xoay quanh nội dung về đạo học Việt Nam thời kỳ trung đại, về những sinh hoạt trong Trường Quốc Tử Giám xưa; sách vở, bậc học để chuẩn bị cho khoa cử. Chị Ngô Thị Diệp, phụ huynh em Lê Quang Gia Bảo (Trường Tiểu học Đông Thái, quận Tây Hồ) cho hay: “Đây là khóa học rất bổ ích, là cơ hội để các con khám phá, tìm hiểu những kiến thức về lịch sử, văn hóa dân tộc. Ngoài ra, các con được rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, tìm hiểu về chữ Nôm, chữ Quốc ngữ... qua đó thêm yêu văn hóa, lịch sử dân tộc mình”.

Hình thức giáo dục di sản độc đáo

Việc dạy học lịch sử tại di tích được Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu-Quốc Tử Giám thực hiện trong nhiều năm qua, góp phần lan tỏa tình yêu văn hóa dân tộc đến đông đảo học sinh. Sau gần hai năm tạm hoãn vì đại dịch Covid-19, chương trình trở lại với sự đổi mới về nội dung và hình thức. Theo đó, trước đây, các lớp học lịch sử tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám tập trung vào việc giúp học sinh trải nghiệm di sản, tìm hiểu lịch sử về các mảng kiến trúc, sự kiện. Trong khi đó, lớp học “Bút nghiên dư ảnh” chú trọng vào nội dung lịch sử xoay quanh câu chuyện khoa cử thời xưa, đạo thầy trò, đạo làm người, lịch sử phát triển của chữ viết...

Vì là năm đầu triển khai nên lớp học “Bút nghiên dư ảnh” chỉ tổ chức một khóa học. Từ đó, những nhà làm chuyên môn sẽ rút kinh nghiệm, hướng tới việc nâng cao chất lượng dạy học. Bà Hoàng Đoan Trang, giảng viên ngôn ngữ Anh, đồng Chủ nhiệm Dự án “Không gian văn hóa Quốc Tử Giám” đánh giá: “So với mong muốn ban đầu đề ra, bộ giáo trình của lớp học “Bút nghiên dư ảnh” đã tạo sự phấn khích cho học sinh. Chúng tôi thấy các em hào hứng, chủ động tham gia bài giảng, tương tác với bạn bè và thầy cô tốt hơn mong đợi, đồng thời mở rộng được nhiều kiến thức hơn. Tuy nhiên, độ tuổi từ 11 đến 13 mới đang trong giai đoạn hình thành tính cách nên các em cần sự hỗ trợ, hướng dẫn, động viên, đồng hành của bố mẹ và thầy cô. Dự kiến từ mùa hè năm sau, chúng tôi sẽ tổ chức 3 lớp học "Bút nghiên dư ảnh".

Chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, TS Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa khoa học Văn Miếu-Quốc Tử Giám cho biết: “Lớp học “Bút nghiên dư ảnh” là hình thức giáo dục di sản độc đáo, mới mẻ với mục đích nuôi dưỡng tình yêu của các em học sinh với lịch sử, văn hóa dân tộc. Chương trình được ban tổ chức xây dựng dựa trên các giá trị truyền thống, giá trị của di sản và phù hợp với nhu cầu học tập của học sinh. Việc tổ chức học diễn ra trực tiếp tại không gian di tích, trực quan, sinh động. Học sinh không chỉ được tiếp nhận tri thức mà còn được thực hành các hành vi văn hóa xưa. Chúng tôi mong muốn ngày càng có nhiều em học sinh đến với di tích để trải nghiệm, học hỏi, tìm về những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tình yêu với lịch sử, văn hóa dân tộc góp phần giúp các em có tinh thần sáng tạo, tự chủ mạnh mẽ, vững chãi trên con đường dài sắp tới để hội nhập với thế giới và giữ được hồn của dân tộc Việt Nam trong một thế giới đầy biến động như hiện nay”.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 03 THÁNG 8 NĂM 1949!

         “Tình báo là một khoa học. Người làm tình báo ắt phải có 4 đức tính: Bí mật - cẩn thận - khôn khéo - kiên nhẫn”.
     Sinh thời, Bác Hồ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến lực lượng tình báo quốc phòng, ngoài những lần gặp gỡ, trò chuyện thân ái với cán bộ, chiến sĩ, Bác còn gửi thư thăm hỏi, động viên; tại Hội nghị tình báo quốc phòng lần thứ 2, đầu tháng 8 năm 1949 Bác đã gửi thư và ân cần căn dặn những điều tâm đắc đối với ngành tình báo.
     Theo Bác, tình báo là một khoa học; do vậy, phải bí mật, tức là tuyệt đối tránh sơ suất; phải cẩn thận, tức là tuyệt đối tránh cẩu thả; phải khôn khéo, tức là tuyệt đối tránh luộm thuộm; phải kiên nhẫn, tức là tuyệt đối tránh hấp tấp. Đây là những nguyên tắc cơ bản của công tác tình báo và cũng là những đức tính cần phải có của mỗi cán bộ, chiến sĩ tình báo, chi phối toàn bộ quá trình tổ chức và hoạt động của tình báo quốc phòng. Hoạt động tình báo là hoạt động bí mật, quan hệ trong hoạt động tình báo là “cự ly, đơn tuyến”. Không giữ được bí mật thì không còn hoạt động tình báo. Có cẩn thận, khôn khéo, kiên nhẫn mới bảo đảm được bí mật để hoạt động lâu dài và ngược lại. Thực tế đã chứng minh, nhờ có giữ tốt bí mật mà nhiều cán bộ, chiến sĩ tình báo của ta đã thâm nhập được vào các cơ quan đầu não của địch, hoạt động trong thời gian dài. Nhờ có khôn khéo, cẩn thận, kiên nhẫn nên đã tác động, chuyển hóa được quần chúng tham gia phục vụ cho cách mạng, kể cả những người đứng trong hàng ngũ địch, cung cấp những tin tình báo có giá trị, góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
     Học tập và làm theo lời dạy của Bác, cán bộ, chiến sĩ tình báo quân đội phải luôn quán triệt, học tập, tu dưỡng rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm bí mật trong mọi công việc, trong mọi tình huống. Làm việc phải cẩn thận, tỉ mỉ, cụ thể, chu đáo, không chủ quan mất cảnh giác, trước mọi công việc, phải luôn thận trọng, hiểu thật rõ, phải xem xét mọi mặt, phải dự tính, lường trước mọi tình huống, đặc biệt là tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình, nguyên tắc…Phải thật khôn khéo, sáng suốt, linh hoạt, chủ động, sáng tạo, nhanh nhạy, tinh thông, nâng cao cảnh giác cách mạng, tuyệt đối không để địch mua chuộc, lôi kéo, khống chế. Phải kiên trì, nhẫn nại, bền gan, vững chí, tin tưởng vào chính mình, vào đồng đội và tin vào chiến thắng góp phần giữ vững, tô thắm truyền thống 16 chữ vàng: “Trung dũng kiên cường, độc lập sáng tạo, bí mật khôn khéo, đoàn kết quyết thắng”, xứng đáng là “tai, mắt” tin cậy của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng./.
Môi trường ST.

Như thế cũng là tự diễn biến

 

Ông bạn cùng cơ quan tôi nhận quyết định nghỉ hưu thì đề nghị ngay cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng về nơi cư trú.

Thủ tục hoàn thành, ông phấn khởi về sinh hoạt tại chi bộ khu phố. “Như vậy, tôi đã thực hiện đúng nguyên tắc, điều lệ sinh hoạt Đảng, những quy định của Ban Tổ chức Trung ương. Tôi không để gián đoạn sinh hoạt Đảng dù chỉ một tháng, có nghĩa là liền mạch được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người đảng viên...”.

Nghe ông bạn, người đảng viên đã nhận Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng bày tỏ điều ấy, tôi cảm mến và trân trọng biết bao nhiêu. Có thể nói, đại đa số đảng viên là cán bộ, viên chức, bộ đội, công an, công nhân viên sau khi được nghỉ hưu đều chuyển về sinh hoạt Đảng ở nơi cư trú như bạn tôi.

Tuy nhiên, vẫn có không ít đảng viên sau khi nghỉ hưu thì không mấy “mặn mà” với việc chuyển Đảng, sinh hoạt Đảng. Có đảng viên cứ khất lần việc chuyển sinh hoạt Đảng với lý do “chưa xác định chính thức nơi cư trú sau khi nghỉ hưu”.

Như thế cũng là tự diễn biến

Có người nghỉ hưu thì thôi luôn sinh hoạt Đảng, không đến cơ quan, đơn vị làm hồ sơ, thủ tục chuyển Đảng. Có người làm thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng, nhưng nhận hồ sơ Đảng về chỉ giữ làm “kỷ niệm”, không chịu đến cơ quan, tổ chức để chuyển tiếp sinh hoạt Đảng.

Khi nghỉ hưu, có người sống “nửa phố, nửa quê” thì không trung thực, cấp ủy nơi cư trú hỏi về việc chuyển Đảng thì nói dối là “tôi chuyển Đảng về quê”; khi về quê có người hỏi việc này thì lại ráo hoảnh “tôi sinh hoạt ở chi bộ tổ dân phố”...

Tất cả trường hợp trên đều là thiếu tính đảng, đều vi phạm điều lệ và nguyên tắc của Đảng, đều là phủ định chính mình. Khi phấn đấu vào Đảng, hẳn những lời tuyên thệ, đảng viên nào cũng nhớ. Rồi khi còn công tác, chắc hẳn những đảng viên này cũng luôn tỏ rõ vừa “hồng”, vừa “chuyên” để mà tiến thủ... 

Bây giờ nghỉ hưu, không còn chức vụ, không còn “quyền”, ắt chẳng có “lợi” nên không thiết tha với Đảng nữa. Tư tưởng này rất đáng phê phán, đó cũng là biểu hiện của “tự diễn biến”, biểu hiện của cơ hội, ích kỷ, chính là tư tưởng “lợi ích đương chức”. Đảng ta là một tổ chức cách mạng và chặt chẽ, chứ không phải là một câu lạc bộ mà tồn tại những suy nghĩ, tư tưởng không đẹp đó. 

Đổi mới phương thức bảo đảm, đưa công tác kỹ thuật đi vào chiều sâu vững chắc

 

Để hoàn thành các mục tiêu trong Nghị quyết số 382-NQ/ĐUQSTW, ngày 29-11-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về lãnh đạo công tác kỹ thuật trong tình hình mới, Cục Hậu cần, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (viết tắt là TCCT) đã tham mưu, đề xuất với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp quán triệt, triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với nhiều biện pháp sáng tạo, hiệu quả, bảo đảm trang bị kỹ thuật (TBKT) phục vụ công tác nghiệp vụ an ninh, tuyên truyền, cổ động, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) trong toàn quân.

Từng bước hiện đại hóa trang bị kỹ thuật

Những năm qua, TCCT tiếp nhận, cấp phát đưa vào sử dụng nhiều chủng loại TBKT thuộc các ngành xe-máy; CTĐ, CTCT; công nghệ thông tin từ các nguồn khác nhau, tổ chức điều chuyển trong nội bộ và đến các đơn vị trong toàn quân. Tổng cục cũng đã đầu tư mua sắm TBKT đặc thù thuộc các dự án của Báo Quân đội nhân dân, Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội, Điện ảnh Quân đội nhân dân, trang bị nghiệp vụ an ninh của Cục Bảo vệ an ninh Quân đội; mua sắm và cấp phát 190 xe ô tô, 21 máy xúc, 44 máy dò mìn phục vụ công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; mua sắm cải hoán và cấp phát 132 xe ô tô chuyên dùng, xe nghiệp vụ các loại...

Đặc biệt, các cơ quan, đơn vị trong TCCT tích cực đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật; ứng dụng các đề tài, công nghệ mới để nâng cao chất lượng bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, khai thác sử dụng và quản lý TBKT tại đơn vị, giải quyết kịp thời những khó khăn, yêu cầu bức thiết trong thực hiện nhiệm vụ. 

Theo đó, những năm qua, các đơn vị: Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội; Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam; Công ty TNHH Một thành viên In Quân đội 1; Phòng Vật tư CTĐ, CTCT đã ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật đưa vào thực tế quản lý, khai thác và sản xuất tại đơn vị mang lại hiệu quả thiết thực.

Đổi mới phương thức bảo đảm, đưa công tác kỹ thuật đi vào chiều sâu vững chắc
Cán bộ, kỹ sư Phòng Công nghệ thông tin, Báo Quân đội nhân dân (Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam) thực hiện chế độ bảo quản, bảo dưỡng trang thiết bị kỹ thuật.

Nổi bật là việc cải hoán, lắp đặt trang thiết bị trên các xe truyền hình lưu động chuyển từ chuẩn SD sang chuẩn HD, nâng cao chất lượng phát sóng truyền hình trực tiếp; sử dụng máy phát điện mini đặt trên xe ô tô bán tải phục vụ đưa tin về công tác phòng, chống lụt bão tại các địa phương; lắp đặt 10 đài tiếp sóng FM của Đài Tiếng nói Việt Nam phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ở quần đảo Trường Sa; cải hoán xe chiếu phim kết hợp tuyên truyền cơ động; nghiên cứu bảo đảm báo chí hằng ngày cho bộ đội đóng quân tại quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK1 qua đường truyền vệ tinh VISAT; lắp đặt bộ tự động tắt, mở nguồn tự động cho hệ thống truyền thanh nội bộ tích hợp bộ thu Đài Tiếng nói Việt Nam và bộ tự động báo hiệu lệnh, thông báo thời gian làm việc, nghỉ ngơi trong ngày, phát nhạc hành tiến trong huấn luyện...

Giữ tốt, dùng bền các loại trang bị

Để phát huy công năng của các loại TBKT, đồng thời giữ tốt, dùng bền phục vụ hiệu quả các hoạt động CTĐ, CTCT và các nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị, Cục Hậu cần tham mưu với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện quy hoạch sử dụng TBKT cho các nhiệm vụ; rà soát quy hoạch sử dụng TBKT hiện có đến năm 2025 và những năm tiếp theo; thực hiện quy định phân nhóm TBKT, sử dụng đúng mục đích, đúng nhiệm vụ.

Hằng năm, đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt công tác bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa, niêm cất, giám định TBKT theo chỉ tiêu, kế hoạch đề ra. Vì vậy, 100% TBKT được bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa theo định kỳ; hệ số kỹ thuật luôn đạt yêu cầu đề ra. Hiện nay, hệ thống kho, trạm, nhà xưởng đều được lắp đặt hệ thống giám sát an ninh, thiết bị, dụng cụ cứu hỏa nhà kho thông minh...

Cùng với đó, gắn việc quản lý TBKT, quản lý con người với quản lý công việc và nâng cao chất lượng quản lý, điều hành hoạt động công tác kỹ thuật cho các nhiệm vụ. Tổ chức tập huấn, thống nhất hệ thống văn kiện, sổ sách đăng ký, mẫu biểu quản lý của từng ngành để tránh chồng chéo, thiếu sót trong đăng ký, thống kê, báo cáo.

Thời gian tới, để nâng cao hơn nữa công tác kỹ thuật trong tình hình mới, Cục Hậu cần tiếp tục làm tốt công tác tham mưu với Đảng ủy, thủ trưởng TCCT tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy trong tổ chức thực hiện ở từng cấp, từng cơ quan, đơn vị, kịp thời chấn chỉnh, khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế, đưa công tác kỹ thuật đi vào chiều sâu vững chắc. Đẩy mạnh huấn luyện, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nâng cao trình độ quản lý, khai thác, sử dụng, làm chủ TBKT, đặc biệt là TBKT thế hệ mới, hiện đại, có hàm lượng công nghệ cao; ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào công tác bảo đảm kỹ thuật; thường xuyên rà soát, củng cố an toàn hệ thống kho, trạm, xưởng bảo đảm an toàn tuyệt đối về mọi mặt.

Tập trung nâng cao chất lượng công tác quản lý, chỉ đạo ngành, từng bước đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới...

Nhân lên tinh thần xung kích và khát vọng cống hiến của thanh niên

 

5 năm qua, công tác Đoàn và phong trào thanh niên (CTĐ&PTTN) Tổng cục Kỹ thuật thường xuyên nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp. Tổ chức đoàn được củng cố, kiện toàn, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Phong trào thanh niên được triển khai sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm, phát huy sức trẻ, tính xung kích, sáng tạo của tổ chức đoàn và đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) vào thực hiện nhiệm vụ.

Được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Thường vụ, Đảng ủy, chỉ huy tổng cục, cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp đã quán triệt nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của trên về công tác thanh niên. Nghị quyết và kế hoạch công tác Đảng, công tác chính trị các cấp đều xác định công tác thanh niên là nội dung quan trọng.

Các cấp ủy phân công rõ nhiệm vụ cho cấp ủy viên phụ trách công tác thanh niên; quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi về thời gian, cơ sở vật chất, kinh phí cho đoàn thanh niên hoạt động. Cơ quan chính trị các cấp làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả CTĐ&PTTN; hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra tổ chức đoàn thực hiện đúng chức năng, nội dung, hình thức hoạt động phù hợp với tình hình thực tế và nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.

Nhân lên tinh thần xung kích và khát vọng cống hiến của thanh niên

Tuổi trẻ Cục Quân khí làm chủ dây chuyền bảo dưỡng đạn. 

Một trong những kết quả nổi bật của tuổi trẻ tổng cục là công tác giáo dục chính trị tư tưởng có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, khắc phục được hành chính hóa trong công tác giáo dục, tạo không khí sôi nổi, có sức lôi cuốn thanh niên, đồng thời rèn luyện phương pháp, kỹ năng tổ chức hoạt động cho đội ngũ cán bộ đoàn. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục góp phần nâng cao nhận thức, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí phấn đấu vươn lên khắc phục khó khăn, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ cho ĐVTN.

Tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, góp phần giải quyết những vấn đề khó trong thực hiện nhiệm vụ, tuổi trẻ tổng cục thường xuyên là một trong những lực lượng dẫn đầu toàn quân về số lượng công trình tham gia Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội. 5 năm qua, có 1.226 đề tài, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật của ĐVTN được công nhận và áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn; 401 công trình tham gia Giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo trong quân đội, đoạt 4 giải nhất, 15 giải nhì, 49 giải ba, 82 giải khuyến khích (số lượng công trình đoạt giải tăng 55% so với giai đoạn 2012-2017). Các đề tài, sáng kiến của tuổi trẻ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ bảo đảm kỹ thuật trong quân đội.

Tuổi trẻ khối nhà trường, trung tâm huấn luyện thực hiện tốt Phong trào thi đua “Dạy tốt, học tốt, nghiên cứu khoa học và phục vụ tốt”, Cuộc vận động “Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”, kết quả học tập hằng năm 100% đạt yêu cầu, 77,6% khá, giỏi (vượt chỉ tiêu đề ra 2,6%). Tham gia các kỳ thi Olympic quốc gia đoạt 4 giải nhất, 12 giải nhì, 27 giải ba, 41 giải khuyến khích; năm 2018 đoạt giải ba Robocon toàn quốc.

ĐVTN khối kho, nhà máy, xí nghiệp, viện nghiên cứu thực hiện nhiều mô hình, như: “Nhà kho thanh niên”, “Tổ khoa học kỹ thuật trẻ”, “Ngày kỹ thuật thanh niên tự quản”...; góp phần xây dựng đơn vị an toàn tuyệt đối, làm chủ quy trình công nghệ, tiết kiệm thời gian, vật tư, nâng cao năng suất lao động. Tuổi trẻ khối cơ quan chủ động làm tốt công tác tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo, chỉ huy, thi đua học tập, nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn. Tất cả đoàn cơ sở hướng phong trào thanh niên vào thực hiện các mục tiêu của Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” bằng những việc làm cụ thể, hiệu quả cao, không để xảy ra các vụ mất an toàn nghiêm trọng.

Cùng với thi đua hướng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm, tuổi trẻ tổng cục tích cực tham gia các phong trào tình nguyện vì cộng đồng, 100% đoàn cơ sở kết nghĩa với tổ chức đoàn địa phương. 5 năm qua, tuổi trẻ tổng cục tổ chức 12 đội tiếp sức mùa thi với hơn 1.800 lượt cán bộ, ĐVTN tham gia, giúp đỡ hơn 6.000 lượt học sinh và người nhà; hiến 3.200 đơn vị máu; đóng góp 27.250 ngày công giúp đỡ nhân dân trên địa bàn đóng quân. Từ các hoạt động sôi nổi, thiết thực, tổ chức đoàn các cấp giới thiệu kết nạp được gần 1.900 đoàn viên ưu tú vào Đảng. 5 năm qua, Tổng cục Kỹ thuật có 1 gương mặt trẻ tiêu biểu và 1 gương mặt trẻ triển vọng toàn quân. Tổ chức đoàn, cán bộ, ĐVTN hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Trên cơ sở rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, Cục Chính trị tiếp tục tham mưu cho Thường vụ, Đảng ủy, chỉ huy tổng cục lãnh đạo, chỉ đạo, nâng cao hơn nữa chất lượng CTĐ&PTTN, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn tiếp theo.

Trong đó, tập trung vào quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương về công tác thanh niên được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết đại hội đảng các cấp; tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25-7-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và chương trình hành động thực hiện nghị quyết của cấp ủy các cấp, Chương trình phát triển thanh niên quân đội giai đoạn 2021-2030.

Tập trung xây dựng tổ chức đoàn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng ĐVTN tổng cục có “Tâm trong-trí sáng-hoài bão lớn”, thực sự là lực lượng xung kích trong thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng.