Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn, phương thức để tiến hành hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc chống phá nước ta. Trong đó, chúng tập trung vào một số phương thức, thủ đoạn sau:
Một là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào DTTS chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Hai là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, thông qua tôn giáo thâm nhập, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng lợi dụng các tôn giáo ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như: "Tin lành Đề ga" ở Tây Nguyên để hình thành “Nhà nước Đề ga độc lập”; lợi dụng "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; lợi dụng "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... Chúng tập trung móc nối, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào DTTS, học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS, đối tượng cầm đầu, cốt cán các “tà đạo, đạo lạ”, “hiện tượng tôn giáo mới” trong vùng DTTS...
Thế lực thù địch đặc biệt triệt để lợi dụng chiêu bài “đấu tranh đòi quyền lợi cho người DTTS, đòi ly khai, tự trị” để thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức phản động. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch xây dựng, phát triển lực lượng chống đối; nuôi dưỡng, hậu thuẫn, tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động và chỉ đạo số này móc nối, tác động, xâm nhập về nước hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo, kích động người DTTS, người dân ở vùng sâu, vùng xa chống phá Nhà nước ta. Đây là một thủ đoạn mới hết sức tinh vi mà các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để tác động, mua chuộc đồng bào DTTS; dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế người DTTS, chi phối các địa bàn; qua đó hòng kích động, lôi kéo người DTTS tham gia hoạt động đòi ly khai, tự trị, thành lập “nhà nước riêng”; gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Đặc biệt, thông qua hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện”, kẻ địch còn tìm cách thâm nhập vào các địa bàn chiến lược, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa để thu thập tình hình, cung cấp cho các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Bốn là, chúng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các DTTS, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.
Năm là, tìm mọi cách để tác động quốc hội các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở các vùng DTTS trong nước. Thông qua đó, họ tìm cách vận động các nước, các chính khách, người Việt ở nước ngoài tài trợ vật chất, tiền, phương tiện để tiến hành các hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc đối với nước ta. Họ còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước ta từ bên trong. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong như: "Hội người Mông thế giới", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề ga độc lập"... tăng cường tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.
Bảo tàng LLVT miền Đông Nam Bộ (Cục Chính trị, Quân khu 7) tại TP Hồ Chí Minh những ngày này có nhiều khách tham quan hơn thường lệ. Nơi đây đang diễn ra Triển lãm “Uống nước nhớ nguồn, tri ân những người có công với cách mạng”.
Tham luận tại Hội nghị sơ kết công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2022 và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức, nhiều đại biểu khẳng định: Bộ đội Cụ Hồ nói chung, LLVT Quân khu 7 nói riêng đã thực hiện tốt công tác dân vận, nhất là dân vận trong vùng đồng bào có đạo thông qua nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả, thể hiện rõ nét đặc trưng phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ gắn bó máu thịt, nghĩa tình với nhân dân.
Mới đây, chi bộ khu phố 6, phường An Lạc, quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh đã tranh luận rất căng thẳng về nguyên nhân ô nhiễm môi trường các khu đất trống trên địa bàn, dù đã gắn camera giám sát.
Trước khi đến các tuyến phố đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm của Thủ đô Hà Nội, tôi nghĩ đây là không gian thoáng đãng, đường phố sạch đẹp, con người ứng xử văn hóa.
Sứ mệnh lịch sử (SMLS) toàn thế giới của giai cấp công nhân (GCCN) hiện đại là phát kiến vĩ đại của C.Mác. Bằng cái nhìn duy vật lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã luận chứng về sứ mệnh của GCCN trong toàn bộ học thuyết của mình, song tập trung nhất là ở lý luận về chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học.
Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, có đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN. Góp phần phê phán các nhận thức này và bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác là nhiệm vụ chung của chúng ta hiện nay.
Giải phóng giai cấp, dân tộc, nhân loại thoát khỏi bóc lột, áp bức, bất công để mọi người và mỗi người được sống trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do. Những khát vọng cao đẹp ấy của nhân loại đã có từ bao đời. Nhưng chỉ đến thế kỷ 19, khi xuất hiện nền đại công nghiệp và cùng với đó là sự trưởng thành của GCCN và chính đảng của nó thì những cơ sở thực tiễn để hiện thực hóa khát vọng ấy mới xuất hiện đầy đủ.
CNXH khoa học đã làm rõ những tất yếu, quy luật cùng những điều kiện, lực lượng, động lực, lộ trình để thực hiện SMLS của GCCN. Xã hội hóa trong sản xuất kinh tế và dân chủ hóa trong đời sống chính trị-xã hội là những tiền đề của CNXH do chính quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB) tạo ra. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của CNXH là nền sản xuất phát triển cao được xây dựng trên cơ sở xác lập chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đây là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu xã hội hóa của sản xuất công nghiệp, được thực hiện thông qua tự giác thực hiện quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất. Lý luận về SMLS của GCCN là cốt lõi của lý luận về CNXH khoa học.
Tuy nhiên, thời gian qua, một số người nhận thức chưa đầy đủ hoặc sai lệch về SMLS của GCCN, thậm chí, nhiều đối tượng còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận SMLS của GCCN với ý đồ không lành mạnh.
Có ý kiến cho rằng, “GCCN trên thế giới hiện nay không khác mấy GCCN của những năm 70 của thế kỷ 20”; đó chỉ là những nhóm người “trực tiếp lao động sản xuất của cải vật chất trong công nghiệp”, “trong xã hội hiện đại, công nhân đang ít đi và không chiếm đa số trong lao động”. Một nhận thức phiến diện khác cho rằng, hiện nay, vị thế của công nhân ở nhiều nước không có gì khác so với thế kỷ 19-tức là công nhân “làm thuê, không có quyền định đoạt sản xuất và phân phối”... Hoặc cũng có nhận xét rằng “hiện nay trên thế giới không thấy phong trào công nhân, chỉ thấy các phong trào xã hội”. Bên cạnh đó, một số người cho rằng, hiện nay, “SMLS của GCCN chỉ còn được tiếp tục ở một vài nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa”...
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng hiện đại, vấn đề SMLS của GCCN là trọng điểm đấu tranh của cả GCCN và giai cấp tư sản, CNXH và CNTB cùng nhiều sắc thái chính trị-xã hội khác nhau. Họ biết rõ rằng, SMLS của GCCN là cốt lõi của CNXH khoa học và phủ nhận được sứ mệnh này là phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của GCCN và đảng cộng sản. Gần đây, trong xu thế phát triển của thế giới với trình độ kinh tế tri thức và hướng tới cách mạng công nghiệp 4.0, cũng có ý kiến cho rằng, “trong kinh tế tri thức thì SMLS là của trí thức chứ không phải của công nhân”. Đây là một nhận thức không đầy đủ.
Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng
Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”(1). Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”(2). Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.
Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”(3). Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(4); qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”(5).
Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội.Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”(6). Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.
Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(7). Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay
Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng(9). Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.
Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự(10); Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia(11). Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.
Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng(12). Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.
Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ(13). Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng(14).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên(15).
Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng
Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.
Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.
Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.
Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.
Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Cách mạng XHCN coi việc giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và để con người phát triển trong công bằng, bình đẳng, dân chủ và tự do là mục tiêu cao nhất. Sứ mệnh hàng đầu của Giai cấp công nhân (GCCN) là bằng phương thức lao động công nghiệp để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, tốt hơn cho quá trình phát triển của nhân loại. Từ đó, họ tạo ra các tiền đề, điều kiện vật chất cho xã hội mới.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác và từ thực tiễn hiện nay, GCCN ở tất cả quốc gia với trình độ phát triển khác nhau vẫn đang tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử (SMLS) của mình với nhiều trình độ, cách thức khác nhau. Thậm chí, dưới góc nhìn của chủ nghĩa duy vật lịch sử, hiện nay, chính GCCN ở các nước TBCN phát triển, bằng việc làm chủ khoa học và công nghệ hiện đại, bằng năng suất lao động cao lại đang đóng góp tích cực cho việc thực hiện nội dung kinh tế kỹ thuật của SMLS của GCCN.
Có thể khẳng định rằng, SMLS toàn thế giới của GCCN là một học thuyết về giải phóng và phát triển hiện đại do C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin luận giải một cách khoa học, hệ thống. Đây là vũ khí tư tưởng của các đảng cộng sản, của GCCN trong cuộc đấu tranh với ý thức hệ tư sản và các thế lực thù địch với CNXH. Chúng ta cần luôn cảnh giác phát hiện và đấu tranh với những tư tưởng sai lầm, xuyên tạc để bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng của lý luận về SMLS của GCCN và qua đó, bảo vệ chế độ XHCN cần được xem là nhiệm vụ thường trực.
Ở Việt Nam, chúng ta cần thấm nhuần sâu sắc rằng, thực hiện thành công sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước nhanh và bền vững” để tạo ra cơ sở vật chất cho CNXH và “xây dựng GCCN hiện đại, lớn mạnh” cần được xem là những cơ sở hiện thực, phương hướng chính để làm rõ và khẳng định SMLS của GCCN Việt Nam đối với dân tộc và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Việc kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay phải tiến hành toàn diện, đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm bảo đảm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch, tin cậy của đội ngũ cán bộ, đảng viên; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các phần tử chống đối và cơ hội chính trị, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống, phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
Sau 5 năm tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã “có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực”(1), góp phần “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”(2). Tuy nhiên, “việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vẫn còn hạn chế, khuyết điểm: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý lưởng, giảm sút ý chí; sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(3).
Một là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị và ý thức “tự bảo vệ” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Đây là vấn đề cơ bản, giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nói chung và công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng thâm độc, nham hiểm. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, một số cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện dao động, hoài nghi, gây phân rã tư tưởng, bất đồng thuận trong nội bộ Đảng, trong xã hội. Do đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng hiện nay. Phương châm tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng là “tích cực chủ động, phòng ngừa, lấy phòng ngừa là chính”.
Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc; bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố, tăng cường niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong toàn xã hội. Nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự bảo vệ” của cán bộ, đảng viên trước những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch...
Hai là, thường xuyên rà soát chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Những năm qua, công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp thường xuyên tiến hành rà soát tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý đối với những cán bộ, đảng viên có vấn đề về chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về kết nạp đảng viên, về cán bộ và công tác cán bộ... Người được xem xét, kết nạp vào Đảng; người làm việc trong hệ thống chính trị được cử đi đào tạo ở nước ngoài, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, giới thiệu để bầu vào cấp ủy, bầu đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tuyển dụng, bố trí làm việc ở cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu phải được cấp ủy có thẩm quyền kết luận chính trị. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện tốt việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong từng nội dung công tác cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp tục rà soát cán bộ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và cán bộ trong diện quy hoạch chuẩn bị kế cận, kế tiếp các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú ý những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm hình sự; liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề liên quan hồ sơ, lý lịch và liên quan đến yếu tố nước ngoài.
Thường xuyên rà soát, kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành các quy định về chế độ bảo mật, quản lý chặt chẽ thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia và ngăn chặn các hoạt động thu thập thông tin bí mật của các cơ quan đặc biệt nước ngoài…
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quyết định, quy định của Đảng. Tập trung kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và những điều đảng viên không được làm... “Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc, nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng” (6).
Kết hợp chặt chẽ công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, kiên quyết sàng lọc, đưa những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan bảo vệ pháp luật, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Kiên quyết xử lý kịp thời tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định của Đảng; nhất là đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật phát ngôn, làm lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, tung tin thất thiệt, lan truyền tài liệu trái phép hoặc tán phát đơn, thư nặc danh, mạo danh có nội dung sai sự thật, mang tính vu khống, nói xấu, xuyên tạc, kích động gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ...
Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử chống đối, cơ hội chính trị.
Các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kích động, lôi kéo, tập hợp lực lượng chống Đảng, Nhà nước ta. Chúng ra sức tán dương, cổ xúy về “giá trị vĩnh hằng” của chủ nghĩa tư bản; xuyên tạc, hạ bệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc đường lối đổi mới của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, bịa đặt, vu cáo, nói xấu, thổi phồng hạn chế, khuyết điểm, gieo rắc hoài nghi, bi quan, kích động, chia rẽ nội bộ… làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng dao động, giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến” về tư tưởng chính trị; thậm chí có người đã “tự chuyển hóa”, phụ họa, lan truyền, tán phát thông tin sai trái...
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (7). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị hiện nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm và hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 20-10-2018, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác, nắm vững âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xác định các chủ trương, giải pháp cụ thể, khả thi đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, ngành, tổ chức, các lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp đấu tranh làm thất bại hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Định kỳ tổ chức thông tin thời sự về tình hình trong nước và quốc tế cho cán bộ, đảng viên. Sử dụng hệ thống thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục lý luận chính trị, các thiết chế văn hóa và thông qua mạng internet... kịp thời phổ biến, tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giảng dạy lý luận chính trị. Tập trung tạo nguồn xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, đội ngũ cán bộ kế cận, phát hiện những cán bộ trẻ có năng khiếu, tư chất và có trình độ tư duy lý luận để đào tạo, bồi dưỡng. Chú trọng phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của các viện nghiên cứu, các học viện, nhà trường, đặc biệt là đội ngũ cán bộ khoa học trong đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng internet và các phương tiện truyền thông xã hội; hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, sử dụng các giải pháp kỹ thuật cần thiết để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý gỡ bỏ thông tin xấu độc trên không gian mạng. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”(8)
Hầu hết các quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và tư sản đều giải
thích không đúng vấn đề nguồn gốc, bản chất của nhà nước.
Quan điểm chủ nghĩa duy tâm: nhà nước là do sự tha hoá của "ý
niệm tuyệt đối"; có nguồn gốc từ lực lượng siêu nhiên là “ý niệm tuyệt đối”.
Quan điểm thần học: nhà nước do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự
xã hội. Nhà nước là hiện thân của chúa trời, thần thánh, của ý niệm tuyệt đối.
Vua = thiên tử = con trời, trời cử xuống để cai quản chăn dắt nhân dân.
Thuyết gia trưởng: nhà nước là kết quả của gia đình, là hình thức tổ chức
tự nhiên của cuộc sống con người. Quyền lực của nhà nước như là sự thống trị của
người cha trong mỗi gia đình. Đó là một tất yếu để giữ vững kỷ cương phép nước.
Quan điểm của học giả tư sản: nhà nước là cơ quan điều
hoà giai cấp, tồn tại vĩnh viễn trong mọi xã hội.
Theo họ, mọi người sinh ra đều có quyền
tự nhiên là tự do làm tất cả, dẫn đến xã hội vô chính phủ. Do vậy, xã hội nào cũng
cần phải có nhà nước để điều hoà giai cấp và giải quyết các vấn đề xã hội. Vì vậy
nhà nước tồn tại vĩnh viễn.
Bên cạnh đó, còn có thuyết tâm lý; thuyết bạo
lực,thuyết khế ước xã hội: nhà nước như là sản phẩm của khế ước xã hội, là một
sự thoả thuận và ý chí chung của nhân dân.
Thực chất các quan điểm trên là
phủ nhận nguồn gốc hiện thực của nhà nước, biện hộ cho sự tồn tại nhà nước của
giai cấp thống trị, nhằm ru ngủ quần chúng nhân dân và bảo vệ địa vị, lợi ích của
chúng.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI BÀI QUỐC
CA VIỆT NAM
Quốc ca Việt Nam ra đời đã được
76 năm – cùng với Quốc kỳ, Quốc huy và Thủ đô Hà Nội – Quốc ca Việt Nam đã hòa
vào máu thịt của mỗi người dân đất Việt.
Dù ở đâu trên trái đất này, nếu
ai đó hát Quốc ca Việt Nam thì hãy tin rằng đó là người bạn, người đồng chí của
chúng ta. Nhưng cũng ít ai biết rằng Quốc ca Việt Nam gắn liền với Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong những ngày sôi nổi của Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
Cách mạng Tháng Tám. Chính Người đã lựa chọn và sửa chữa để trở thành bài ca
bất diệt của nước Việt Nam. Bác Hồ đã xem xét và sửa chữa một cách cẩn thận bài
“Tiến quân ca”. Người đã sửa chữa một số câu từ, như câu mở đầu của “Tiến quân
ca”, nguyên bản là “Đoàn quân Việt Minh đi…”, Người đã sửa lại là “Đoàn quân
Việt Nam đi…”; hoặc câu “Thề phanh thây uống máu quân thù…”, Người đã sửa lại
“Đường vinh quang xây xác quân thù…”. Rõ ràng những câu chữa lại của Bác Hồ
chính xác hơn, đẹp hơn và đáp ứng yêu cầu của bài Quốc ca Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, trong không khí
tưng bừng của lễ Tuyên ngôn Độc lập, Quốc ca Việt Nam đã vang lên trong hàng
triệu trái tim của con dân Việt Nam, báo hiệu một kỷ nguyên mới của lịch sử dân
tộc. Nhắc lại sự kiện này, cố nhạc sĩ Văn Cao đã nói: "Đây là hạnh phúc
lớn lao nhất của đời tôi, là niềm tự hào không bao giờ quên khi được lãnh tụ
kính yêu sửa chữa một tác phẩm nghệ thuật của mình".
Quốc ca Việt Nam đã trở thành một
phần máu thịt của Tổ quốc và chắc chắn còn trường tồn rất lâu dài với lịch sử
dân tộc.
SỬ DỤNG MẠNG XÃ HỘI MỘT CÁCH ĐÚNG ĐẮN
Mạng xã hội có nhiều lợi ích không thể phủ nhận nhưng cũng gây ra nhiều tác
hại và hệ lụy, đòi hỏi chúng ta phải là những người sử dụng thông thái, biết
"gạn đục, khơi trong."
Trong thời đại hiện nay, mạng xã hội đang là xu thế và ngày càng được nhiều
người sử dụng, nhất là lớp trẻ. Nhiều mạng xã hội đang hoạt động song đặc tính
chung của chúng là người dùng tự cung cấp nội dung, ý tưởng và chia sẻ rộng rãi
trên internet.
Mạng xã hội có nhiều lợi ích, trong đó có việc giúp chúng ta nhanh chóng cập
nhật tin tức đời sống xã hội; kết nối một cách thuận tiện và không tốn kém các
mối quan hệ khi chúng ta không thể gặp gỡ trực tiếp người thân, bạn bè, đồng
nghiệp, đối tác…; nâng cao kỹ năng sống và sự hiểu biết về mọi lĩnh vực; cảnh
báo mọi người để tránh được nhiều hiểm họa trong cuộc sống, nâng cao tinh thần
cảnh giác.
Song mạng xã hội cũng gây ra nhiều tác hại và hệ lụy mà nguy hiểm nhất là
làm trì trệ các hoạt động sống của con người (ăn, ngủ, nghỉ, làm việc); gây tâm
trạng tiêu cực khi chúng ta tiếp nhận nhiều thông tin xấu; lấy mất quá nhiều
thời gian khi chúng ta lướt web, chơi game, "chém gió" thiếu kiểm
soát; tạo ra nguy cơ tiếp xúc với các nguồn tin lá cải không chính xác, không
được kiểm chứng, nhằm mục đích câu "view" câu "like."
Ngoài ra, mạng xã hội là nơi hoàn hảo để những người "ngáo" quyền
lực thể hiện bản thân. Việc thể hiện bản thân quá đà lại nhận được sự cổ vũ của
"cư dân mạng" trong thời gian dài sẽ dẫn đến con người ta lẫn lộn
giữa đời thực và thế giới ảo, hoang tưởng về quyền lực, vượt ra khỏi ranh giới
đạo đức, có thể phải đối mặt với bản án hình sự.
Có những vấn đề phức tạp, khiến người dùng mạng xã hội thiếu tỉnh táo không
biết đâu là được phép, đâu là điều cấm kỵ. Do đó, người sử dụng mạng xã hội
phải thực sự chú ý và được trang bị những kiến thức cần thiết để bảo đảm rằng
mình sử dụng không gian mạng có trách nhiệm, không vi phạm quy định của pháp
luật có liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật An ninh mạng và vi phạm Bộ Quy tắc
ứng xử trên mạng xã hội.
Theo Nghị định 15, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực viễn thông, tần
số vô tuyến điện, công nghệ thông tin đối với cá nhân là 100 triệu đồng. Hành
vi lưu trữ, truyền đưa thông tin giả mạo, sai sự thật, vu khống, xuyên tạc, xúc
phạm uy tín của tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị phạt 50-70 triệu
đồng.
Mức phạt 50-70 triệu đồng cũng được áp dụng đối với hành vi cung cấp thông
tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với
thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Luật pháp, các quy định, quy tắc ứng xử về mạng xã hội chỉ phát huy tác dụng
khi chúng ta là những người sử dụng thông thái, biết "gạn đục, khơi
trong"./.
Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Bởi lẽ: Một là, đồng bào cáctôn giáo trước hết là người Việt Nam, sau đó
mới là tín đồ tôn giáo. Nói cách khác, là người Việt Nam
theo tôn giáo chứ không phải là người theo tôn giáo nhập quốc tịch Việt Nam.
Vì vậy, ở đồng bào theo tôn giáo có tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào
và ý thức dân tộc sâu sắc. Họ đều mong muốn xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công xã
hội, khao khát có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Điều đó phù hợp với mục
tiêu, lý tưởng cách mạng. Mặt khác, sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây chính là cơ sở
để tập hợp lực lượng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp cách
mạng. Hai là, trong quá trình cách
mạng, đồng bào các tôn giáo ngày càng nhận thức sâu sắc lợi ích của bản thân và
của dân tộc mình, tôn giáo mình gắn bó với lợi ích của toàn dân tộc và của cách
mạng; tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn liền và phụ thuộc vào độc lập, tự do
của Tổ quốc; Tổ quốc có độc lập, thống nhất thì tôn giáo mới có tự do. Sự thống
nhất lợi ích đó là “điểm tương đồng” căn bản, tạo động lực để đồng bào các dân
tộc, các tôn giáo một lòng, một dạ theo Đảng làm cách mạng trong đấu tranh giải
phóng dân tộc trước đây, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện
nay.Thực hiện đoàn kết đồng bào các tôn giáo khác
nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Cơ
sở của đoàn kết là: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt nam hoà bình, độc lập,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh làm điểm tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai
cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn
kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội”[1]. Kiên quyết đấu
tranh chống những hành động gây chia rẽ, làm suy yếu khối đại đoàn kết, làm tổn
hại đến lợi ích quốc gia dân tộc. Đây là lập trường có tính nguyên tắc trong
quan điểm về công tác tôn giáo và quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta. Trong mọi trường hợp, cần phân biệt rõ đâu là vấn đề tôn giáo, đâu
là vấn đề các thế lực thù địch lợi dụng chống phá để có biện pháp xử lý đúng
đắn.
[1]Đảng cộng sản
Việt Nam:
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 239-
240.
NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, ĐẤU TRANH VỚI LUẬN ĐIỆU SAI
TRÁI
Trong khi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang quyết tâm thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế biển gắn với
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc thì các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội chính trị lại tìm cách đưa ra những luận điệu sai trái, ngụy tạo để xuyên
tạc, kích động chống phá.
Số tổ chức, đối tượng phản động, cơ hội chính trị đã tự gán cái mác “học
giả”, “nhà phản biện” hay nhân danh “những người Việt Nam yêu nước”, “bảo vệ
chủ quyền biển, đảo” để đả phá, cho rằng đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về biển, đảo hiện nay đã lỗi thời, không còn phù hợp, từ đó đả kích
rằng Việt Nam nếu tiếp tục giữ lập trường như hiện nay “sẽ không giữ được chủ
quyền biển, đảo”!
Các thủ đoạn lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để chống phá
Những năm qua, tại Biển Đông xảy ra một số vụ việc phức tạp, có lúc diễn
biến căng thẳng, trong đó có các hành động gây hấn, xâm phạm chủ quyền biển đảo
như: Vụ việc tàu Viking 02 và tàu Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp năm 2011
và 2012; vụ giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo
của Việt Nam trên Biển Đông năm 2014; sự kiện tàu Hải Dương 8 của Trung Quốc khảo
sát trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phía Nam Biển Đông
của Việt Nam (từ ngày 4/7/2019 đến ngày 24/10/2019); các hoạt động tập trận
trên Biển Đông tại một số thời điểm…
Những sự việc này được các tổ chức, đối tượng phản động triệt để khai thác,
nhào nặn, biến tấu thành những luận điệu xảo trá, vu cáo như “Việt Nam nhu
nhược, hèn nhát”, “chính quyền Việt Nam làm ngơ về Biển Đông”… Không những thế,
các thế lực xấu còn vẽ ra “thuyết âm mưu” khi cho rằng Việt Nam cần phải liên
minh quân sự với những nước lớn có thực lực kinh tế, quốc phòng - an ninh mạnh
thì mới đủ sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.
Đặc biệt, thông qua chiến lược xoay trục, đổi chiều sang châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ, việc Mỹ tăng cường hợp tác với các nước trong khối ASEAN, trong
đó có Việt Nam, nhằm nâng tầm ảnh hưởng đối với khu vực Biển Đông cũng như duy
trì thế cân bằng quyền lực của Mỹ tại vùng biển này… cũng trở thành chủ đề mà
các thế lực thù địch vin vào để đả phá, công kích.
Nhiều bài viết phê phán rằng, Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng “bốn
không” là “tự trói mình” vì tiềm lực kinh tế, quốc phòng - an ninh Việt Nam
hiện nay là quá yếu, không thể ba không, bốn không mà xoay xở được; từ đó họ vẽ
ra một viễn cảnh cần phải liên minh với Mỹ thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền
biển, đảo và bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc…
Các tổ chức, đối tượng phản động lợi dụng những diễn biến phức tạp tại Biển
Đông cũng như đường lối đối ngoại, hướng giải quyết các vụ việc của Việt Nam để
tìm cách chế nhạo, tái diễn nhiều chiêu trò, luận điệu xuyên tạc, suy diễn, xem
đó là “ngòi nổ” để phá hoại sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Đồng
thời đưa ra các bài viết lấy danh nghĩa “phân tích khoa học” để nhằm kích động
việc “chọn phe” trong các quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cổ súy tư tưởng bài
trừ nước này, theo nước kia; cho rằng lãnh đạo Đảng, Nhà nước cần phải vì phe
này, phe kia để chủ quyền biển, đảo không bị xâm lấn…
Một số bài viết lợi dụng vấn đề bảo vệ chủ quyền biển đảo để quy kết rằng,
khi đất nước chỉ có một đảng thì không đủ sức mạnh để bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ, từ đó hướng lái tư tưởng đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Mặt khác, qua thực hiện chính sách phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ
chủ quyền biển, đảo của Đảng, Nhà nước, trong đó có việc hỗ trợ ngư dân bám
biển, nâng cao chất lượng cuộc sống nhưng bằng lối tư duy thù địch, chống phá,
số đối tượng phản động lại đưa ra những lời lẽ hết sức vô lý, cho rằng “chỉ có
ngư dân bảo vệ biển, không thấy chính quyền đâu”; vu cáo chính quyền “chỉ quan
tâm đến phát triển kinh tế, không lo bảo vệ biển, đảo, không lo cho dân”.
Họ vin vào tình hình ngư dân Việt Nam đánh bắt hải sản ở vùng biển của quốc
gia khác, bị lực lượng bảo vệ pháp luật của các nước bắt giữ, xử lý để gieo rắc
luận điệu “ngư dân bị bỏ rơi”! Một số bài viết lợi dụng tình hình tội phạm, vi
phạm pháp luật trên biển diễn biến phức tạp; việc các tàu công vụ của nước
ngoài tiếp tục có hành vi xua đuổi, khống chế, thu giữ hải sản và ngư cụ của
các tàu cá Việt Nam đang hoạt động bình thường ở ngoài khơi Biển Đông để đưa ra
đánh giá phiến diện “lực lượng chuyên tránh thực thi pháp luật trên biển làm
ngơ, không hoàn thành nhiệm vụ”.
Các đối tượng còn tiến hành phỏng vấn số chống đối, bất mãn gắn với cái mác
là các “chuyên gia”, “nhà hoạch định” để đưa ra những so sánh khập khiễng, đánh
giá sai lệch về năng lực, khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam, kích động việc “sử dụng vũ lực” của lực lượng vũ trang
trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo; họ cho rằng trước những hành động gây hấn,
xâm chiếm biển, đảo Tổ quốc, nếu không nổ súng là “nhu nhược, hèn nhát”!
Nguy hiểm hơn, các thế lực bên ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động; các
đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp
cho bên ngoài tuyên truyền các luận điệu xuyên tạc về tình hình Biển Đông và
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo, các đối tượng chống phá thông qua các
tài khoản mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc chống phá từ bên
ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong theo kiểu “nội công, ngoại
kích” hòng gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với nước ta.
Nhận thức rõ về đường lối, chính sách bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt
Nam
Biển, đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, cấu thành chủ quyền
quốc gia, cửa ngõ giao lưu quốc tế, có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Bảo vệ biển, đảo chính là bảo
vệ một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc, giữ vững chủ quyền biển, đảo sẽ
góp phần giữ vững chủ quyền của đất nước. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo
của Việt Nam là điều kiện, nội dung giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng
trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.
Đây là quan điểm, chủ trương thể hiện định hướng chiến lược để toàn Ðảng,
toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quốc
phòng, bảo vệ vững chắc vùng biển, đảo của Tổ quốc. Chúng ta xác định, giải
quyết tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, do đó cần kiên trì hợp tác
tìm kiếm biện pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng
của Việt Nam, đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở
tuân thủ luật pháp quốc tế.
Thực tế cho thấy, mỗi khi chủ quyền và quyền chủ quyền quốc gia của Việt Nam
trên Biển Đông bị xâm phạm, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn thể hiện tinh
thần đấu tranh kiên quyết, kiên trì bằng các biện pháp hòa bình, đó là thông
qua các diễn đàn, các cuộc gặp gỡ trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao...
Điều này đã được nêu rõ trong các nghị quyết của Đảng và được chứng minh qua
việc giải quyết vấn đề Biển Đông của Việt Nam, với tinh thần thượng tôn pháp
luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công
ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông
(COC).
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động, tích cực giải quyết từng
bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền với các nước
liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hoà bình,
an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản
với các nước liên quan đến biển, đảo.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia
về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn
các nguồn tài nguyên biển phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
1982, phục vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với
nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử
dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp
hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn
sàng chống chiến tranh xâm lược.
Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động chịu
tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước lớn nào, nhất là tránh việc trở thành
con bài trong tay các nước lớn. Chúng ta thực hiện đối ngoại, hợp tác quốc tế
về biển, góp phần duy trì môi trường hoà bình, ổn định cho phát triển.
Do đó, cần nhận diện, đấu tranh với những chiêu trò suy diễn, phê phán đường
lối đối ngoại, đường lối bảo vệ độc lập, chủ quyền của Tổ quốc, đòi hỏi phải
“chọn phe” để bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tùy theo diễn biến của tình hình và
trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ
quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cũng như các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu
vực và cộng đồng quốc tế.
Chúng ta quán triệt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong giải quyết
vấn đề biển, đảo, trong đó chủ quyền biển, đảo là bất biến, sách lược bảo vệ
chủ quyền biển, đảo thì mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch, sự biến động phức tạp của tình hình…
Những quan điểm trên chính là căn cứ chính trị, pháp lý quan trọng để chúng
ta cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, xuyên
tạc vấn đề chủ quyền biển, đảo của Việt Nam. Mục đích của việc đấu tranh này là
làm cho nhân dân Việt Nam hiểu rõ về lập trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về vấn đề chủ quyền biển, đảo; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo
của Đảng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay; góp phần làm
cho cộng đồng quốc tế hiểu rõ về chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
Trên
lĩnh vực đối ngoại. Đây là
lĩnh vực hết sức phức tạp và nhạy cảm mà các thế lực thù địch lợi dụng để can
thiệp, chống phá nước ta. Chúng dựng lên cái gọi là “tự do tôn giáo ở Việt
nam”, “nhân quyền ở Việt Nam” để lừa bịp dư luận thế giới, trắng trợn, vu cáo
Nhà nước ta “đàn áp tôn giáo”… Do đó chúng ta cần quán triệt phương châm tích
cực, chủ động, mềm dẻo, linh hoạt bác bỏ mọi luận điệu vu cáo, xuyên tạc, bóp
méo sự thật về tình hình tôn giáo ở Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế.Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh: Một là, coi trọng tuyên truyền giáo dục
làm cho đồng bào tôn giáo thấu suốt quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn
giáo nhằm nâng cao nhận thức, lòng tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời đấu tranh vạch trần âm mưu, thủ
đoạn thâm độc của các thế lực thù địch bên ngoài cấu kết với lực lượng phản
động bên trong lợi dụng tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; kích động
đồng bào tôn giáo, đi ngược lại đạo pháp và chủ nghĩa xã hội. Hai là, phương pháp công tác tôn giáo
cần tuân theo bốn quy cách: có lý, đúng luật, được đông đảo quần chúng nhân dân
đồng tình ủng hộ; thống nhất đồng bộ giữa ba bộ phận (Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng là các tín đồ, chức sắc và
tổ chức giáo hội). Ba là, trong xử lý
vấn đề lợi dụng tôn giáo hoạt động trái pháp luật, phải bình tĩnh, nắm chắc
tình hình, không định kiến, nóng vội, cần tiến hành đồng bộ các biện pháp hành
chính, kinh tế, giáo dục; cần tránh hai khuynh hướng: hữu khuynh lừng chừng để
kẻ địch có cơ hội lôi kéo, lừa gạt quần chúng hoặc tả khuynh tuyên chiến với
tôn giáo, đánh nhầm vào quần chúng tín đồ tốt. Ở những nơi thường xảy ra diễn
biến phức tạp cần thành lập các tổ công tác hoặc ban chỉ đạo, những nơi chưa
xảy ra phức tạp, phải chủ động ngăn ngừa, ngăn chặn, giải quyết ngay từ cơ sở
không để lây lan, kéo dài. Bốn là,
chủ động sâu sát cơ sở địa bàn có tôn giáo để nắm chắc tình hình, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa; thực hiện tốt ba cùng: cùng ở, cùng làm, cùng sinh hoạt với
dân; phải thường xuyên nắm chắc âm mưu, hoạt động của kẻ xấu để kịp thời đấu
tranh, ngăn chặn. Khi xảy ra “điểm nóng” cần phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ủy,
chính quyền địa phương với Ban Chỉ đạo Trung ương ở ttừng khu vực để giải quyêt
dứt điểm, không để lan sang các vùng khác và phải tuyệt đối tránh tiếp xúc với
người nước ngoài. Năm là, giải quyết
vấn đề tôn giáo phải gắn liền với vấn đề dân tộc. Đó là, phải chăm lo giải
quyết vấn đề đời sống, xã hội ở vùng đồng bào dân tộc ít người. Công tác tôn
giáo phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược quốc phòng
an ninh, thực hiện chính sách định canh, định cư, chống di dịch cư tự do trong
đồng bào các dân tộc ít người, theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Vì vừa
qua, kẻ địch đã triệt để lợi dụng tập quán này để truyền đạo trái phép rất phức
tạp.