Thứ Tư, 10 tháng 8, 2022

ĐỪNG LÀM HOEN Ố MÁU CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐI TRƯỚC !!!


Trong khói lửa chiến tranh, dưới làn đạn của giặc Mỹ xâm lược, Liệt sỹ, anh hùng LLVTND Vũ Xuân (quê Thái Nguyên) đã viết trong nhật ký của mình: "Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai là trách nhiệm của chúng mình, của thế hệ thanh niên đang sống và chiến đấu chống Mỹ này...”.
Ôi Tổ quốc ơi, Tổ quốc đã có một thế hệ như thế! Đất nước tôi để có được hòa bình, độc lập, tự do như hôm nay là nhờ có một thế hệ như thế. Mỗi chúng ta đang có được cuộc sống bình yên, mỗi sớm mai thức dậy vươn vai hít thở bầu không khí trong lành của trời đất, tự tại sống, tự do nghĩ, an nhiên vui vẻ... là nhờ hồng phúc của chúng ta là con cháu của một thế hệ như thế!
Một thế hệ đã ra đi đầu không ngoảnh lại dẫu biết phía sau là sống, phía trước có thể là cái chết, là địa ngục, nhưng họ vẫn bước đi. Một thế hệ đã hòa mình vào Tổ quốc, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", nếu được sống cũng chỉ sống khi Tổ quốc được vẹn nguyên! Một thế hệ dám dấn thân, dám hy sinh, dám bước qua cửa tử để mở ra cánh cổng hồi sinh cho Tổ quốc, lấy tính mạng của mình để gieo nên mầm sống cho thế hệ mai sau! Một thế đã chiến đấu, hy sinh không chỉ vì cứu lấy giang sơn, Tổ quốc đang bị xâm lăng, mà còn trách nhiệm trọn vẹn: "Bàn giao nguyên vẹn giang sơn Việt Nam cho thế hệ tương lai". Vâng, là "bàn giao nguyên vẹn giang sơn" đấy! Giang sơn mà họ cứu lấy và bàn giao cho tương lai phải là không được sứt mẻ, không được nham nhở, không được chia cắt.
Vì cái trách nhiệm trọn vẹn đó mà thế hệ cha anh đã đi trọn vẹn con đường chông gai đầy máu và nước mắt. Họ đã lấy máu của mình để vẽ nên màu xanh của núi non, lấy thịt của mình để lấp đầy vết nứt của đất, san lấp những hố sâu trong cơ thể Tổ quốc do đạn bom của giặc cày xới. Lấy xương cốt của mình để nối liền hai miền Bắc - Nam của Tổ quốc. Lấy tinh thần, lý tưởng cao đẹp của mình để xua đuổi bóng ma tội ác, vẽ nên vẻ đẹp, sức sống cho Tổ quốc. Họ đã hiến dâng tất cả sức lực, trí lực, tinh lực, cơ thể mình cho Tổ quốc được nguyên vẹn để bàn giao cho thế hệ chúng ta. Khi trách nhiệm ấy được thực hiện, Tổ quốc, giang sơn thống nhất, độc lập, tự chủ, tự do được bàn giao, thì cha anh chúng ta nhiều người không trở về, họ nằm lại chiến trường, nằm lại trong rừng sâu cô quạnh, nằm dưới đáy sông lạnh buốt, họ mãi mãi sống trong đất Tổ quốc. Nhiều người may mắn sống sót trở về, bước ra từ cuộc chiến lại thân thể không còn nguyên vẹn hình hài, thay vào đó là nham nhở, cháy sạm, thiếu đi một phần, thậm chí một nửa cơ thể. Có nhiều người còn nguyên cơ thể nhưng tâm lý, ý chí, tinh thần lại để lại nơi chiến trường, bị bom đạn của kẻ thù nhấn chìm vào sâu trong đất, họ trở về như trẻ thơ, như hoang dại, quảng đời còn lại vẫn cầm súng chiến đấu trong các trại tâm thần, bệnh viện...
Thế nhưng, những người đã hy sinh vẫn lặng nhìn Tổ quốc, canh giữ giang sơn, soi tỏ, dẫn dắt thế hệ hôm nay xây dựng đất nước. Những người còn sống trở về họ đều vui vẻ sống tiếp, lại hòa vào cùng dân tộc giữ nước, xây dựng Tổ quốc. Tất cả họ, những người đã anh dũng hy sinh và những người sống sót trở về chỉ mong muốn một điều nhẹ nhàng, đơn giản như Liệt sĩ Vũ Xuân đã viết trong nhật ký khi còn chiến đấu: “Tôi muốn một câu nói được vang lên bên tai thế hệ sau là: Đừng làm hoen ố máu của những người đi trước”.
Một thế hệ như thế đấy. Bàn giao nguyên vẹn giang sơn cho chúng ta, chỉ mong chúng ta đừng làm hoen ố máu của những người đi trước. Còn chúng ta, nhận lấy giang sơn từ họ, chúng ta hân hoan, sung sướng, hạnh phúc. Chúng ta cũng cũng đã cố gắng đem hết sức bình sinh của mình cống hiến cho Tổ quốc, xây dựng đất nước, xây dựng xã hội ngày càng tươi đẹp. Nhưng chính trong thế hệ chúng ta, vẫn còn đó sự vô tâm, có người vô tâm đến tàn nhẫn, bất nghĩa, không chỉ làm hoen ố máu của người đi trước, mà đang tâm dẫm lên máu của anh hùng liệt sỹ để mưu cầu lợi ích riêng. Để thỏa mãn khát vọng và dục vọng cá nhân, không ít kẻ đã bẻ cong lịch sử, bẻ cong nòng súng của thế hệ cha anh, tạo cớ cho kẻ thù hoặc cấu kết với kẻ thù để đổi trắng thay đen lịch sử, hòng đổi màu của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cũng không ít kẻ bế kẻ thù lên bàn thờ cung phụng thay thế hương hồn của anh hùng liệt sỹ. Lại có người bằng nhiều thủ đoạn đê hèn, việc làm phi nghĩa, tìm đủ mọi cách để đặt tên cho bọn tay sai, bán nước mà chẳng mảy may nghĩ đến rất nhiều ngôi mộ của anh hùng liệt sỹ vẫn đang chưa biết tên!
Viết đến đây thì tim như thắt lại. Nhưng nhịp đập của trái tim lại như nhanh hơn, mạnh hơn. Chỉ mong rằng chúng ta sẽ sống xứng đáng với thế hệ cha anh đã ngã xuống, đem hết sức lực, trí tuệ, ý chí, tinh thần chung tay xây xựng đất nước giàu mạnh, cũng sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ đến cùng màu máu và thanh danh của thế hệ đi trước. Sẽ bàn giao nguyên vẹn giang sơn này cho thế hệ mai sau như cha anh đã bàn giao cho chúng ta.
Muốn làm được điều đó, xin đừng phản bội quá khứ, đừng phản bội lịch sử. Xin đừng xét lại tiếng súng năm xưa! Và phải có trách nhiệm với tương lai như cha anh đã làm tròn trách nhiệm với chúng ta./.
ST/TMA
Có thể là hình ảnh về văn bản

 LỢI ÍCH NHÓM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT S.Ú.N.G Đ.Ạ.N TẠI HOA KỲ

Lợi ích nhóm được cho là một trong những rào cản lớn trong việc thắt chặt các quy định về sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n tại Bông Kỳ. Trong đó, Hiệp hội S.ú.n.g trường Quốc gia Mỹ (NRA) là một trong các nhóm lợi ích có ảnh hưởng nhất trên chính trường Mỹ - không chỉ bởi số tiền mà họ sử dụng để hối lộ các chính khách mà còn bởi sự tham gia của 5 triệu thành viên.

NRA phản đối hầu hết các đề xuất tăng cường quy định kiểm soát s.ú.n.g và đứng sau các nỗ lực ở cấp độ Liên bang và Tiểu bang nhằm giảm bớt các hạn chế trong việc sở hữu s.ú.n.g đ.ạ.n.

Tổng ngân sách hàng năm của NRA là khoảng 250 triệu USD, được phân bổ cho các chương trình giáo dục, s.ú.n.g đạn, chương trình hội viên, học bổng, hối lộ các nhà lập pháp và các nỗ lực liên quan. Tuy nhiên, hơn cả các con số đơn thuần đó, NRA đã nổi danh tại Washington như là một thế lực chính trị có thể “tạo dựng" và cũng có thể "hạ bệ” các chính khách quyền lực nhất.

Đặc biệt, NRA luôn thể hiện sự quyền uy của mình bằng cách lên án "sự cuồng loạn, tin tức giả và hành động gây hoang mang" của những người ủng hộ kiểm soát s.ú.n.g đ.ạ.n đang "tuyệt vọng tìm cách cản trở" đạo luật SHARE-một đạo luật giúp những công dân đang sở hữu vũ khí dễ dàng mua ống giảm thanh hơn.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, chừng nào các nhóm ủng hộ việc sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n còn can thiệp vào bầu cử và ngành lập pháp, thì họ vẫn là “bá chủ” trong "thị trường" s.ú.n.g đạn của nước Mỹ./.

 

 TOẢ SÁNG VĂN HOÁ QUÂN DÂN,XỨNG DANH BỘ ĐỘI CỤ HỒ.

----

Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn có vị trí thật đặc biệt trong lòng nhân dân. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng dầm mình trong mưa lũ, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai; trắng đêm canh gác, ngăn chặn “giặc Covid-19” nơi biên cương giá lạnh hay kịp thời vượt biển, hỗ trợ ngư dân gặp nạn giữa cuồng phong, bão tố. Nét đẹp văn hóa và truyền thống riêng có ấy của Bộ đội Cụ Hồ không ngừng được gìn giữ và phát huy, trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác...

 

Khi cái lạnh miền sơn cước bắt đầu tràn về, ngấm vào da thịt, cũng là lúc căn nhà mới xây của vợ chồng anh Thào A Sang, dân tộc Mông, bản Hợp 2, xã Dào San (Phong Thổ, Lai Châu) được khánh thành và đưa vào sử dụng. Gia đình anh là một trong 33 hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn trên địa bàn, được Bộ CHQS tỉnh Lai Châu, Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 356 (Quân khu 2) phối hợp với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ xây tặng nhà. Cũng câu chuyện bộ đội hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo xây dựng nhà ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi có hoàn cảnh của chị Phạm Thị Ty, dân tộc Hrê, xã Ba Thành. Chồng chị mất sớm. Mấy chục năm nay, 4 mẹ con chị phải sống chen chúc trong căn nhà vài chục mét vuông đã dột nát. Hai năm nay, sau khi được Bộ tư lệnh Quân khu 5 hỗ trợ kinh phí xây ngôi nhà mới, mẹ con chị Ty không còn nơm nớp lo sợ mỗi khi mưa to, gió lớn.

 

Đúng là “ở đâu dân gặp khó, ở đó có bộ đội”, “quân với dân như cá với nước”, “đi dân nhớ, ở dân thương”. Đi đến bất kỳ nơi đâu, Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa... chúng ta đều thấm thía tình cảm, sự gắn bó máu thịt quân-dân. Và câu chuyện hỗ trợ, giúp đỡ hộ nghèo xây nhà nêu trên chỉ là một trong số hàng nghìn, hàng vạn việc làm thiết thực mà bộ đội đã làm cho nhân dân những năm qua. Bởi còn đó những cán bộ, chiến sĩ trèo đèo, lội suối, luồn rừng, vượt sông để đến những nơi xa xôi, hẻo lánh vùng biên giới, hải đảo, cùng đồng bào các dân tộc thiểu số xây dựng cuộc sống mới. Còn đó những chiến sĩ biên phòng đến từng bản, làng vùng sâu, vùng xa, dạy các em thơ học chữ; những thầy thuốc quân y ân cần khám, chữa bệnh cho dân nghèo ở vùng sâu, vùng xa. Họ còn là những người lính hóa học, công binh quả cảm, đến những nơi sập hầm lò, cháy nổ, nhiều khí độc, bom mìn để khắc phục hậu quả, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

 

Quá trình về với đồng bào, đã xuất hiện hàng nghìn điển hình tiên tiến, những tấm gương hy sinh dũng cảm vì cuộc sống bình yên của nhân dân... Đó là tấm gương hy sinh quên mình cứu dân trong lũ dữ của Thượng úy, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Hữu Huyên, Bộ CHQS tỉnh Quảng Bình; sự hy sinh của 13 cán bộ, chiến sĩ tại Thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên Huế); sự hy sinh của 22 cán bộ, chiến sĩ Đoàn Kinh tế-Quốc phòng 337 (Quân khu 4)... Ngoài ra, còn hàng chục cán bộ, chiến sĩ biên phòng đã anh dũng ngã xuống khi đương đầu với các loại tội phạm nguy hiểm khu vực biên giới.

 

Bộ đội Cụ Hồ-tên gọi bình dị, gần gũi mà cao quý. Phẩm chất đặc biệt đó được xây đắp nên trước hết từ tinh thần chiến đấu dũng cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh của lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ và sự giáo dục, rèn luyện của Đảng, của Bác Hồ kính yêu, cùng sự thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân. Nói đến phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là nói đến những chuẩn mực giá trị về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách của quân nhân cách mạng. Đó là lý tưởng chiến đấu cao đẹp, yêu nước, yêu chế độ, trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.

 

Trong bối cảnh hiện nay, trước họa "xâm lăng" của văn hóa ngoại lai, đặc biệt là sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch, nhằm "phi chính trị hóa" quân đội, việc giữ vững, phát huy phẩm chất cao quý, nét đẹp văn hóa Bộ đội Cụ Hồ, làm cho tấm gương ấy tiếp tục tỏa sáng trong lòng nhân dân, trở thành niềm tin yêu, kiêu hãnh, niềm vinh dự, tự hào, sự ngưỡng mộ của nhân dân và bạn bè quốc tế là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, chiến sĩ chúng ta.

 

 THEO GƯƠNG BÁC: PHÊ BÌNH VÀ TỰ PHÊ BÌNH CHỚ CÓ “TRƯỚC MẶT KHÔNG NÓI, SOI MÓI SAU LƯNG”

Trong công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ thì tự phê bình và phê bình có ý nghĩa hết sức quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm coi trọng: “Phê bình và tự phê bình là vũ khí cần thiết và sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm”. Người xác định đây là biện pháp quan trọng để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng: “Ta có hai cách để thực hiện thống nhất tư tưởng, đoàn kết nội bộ là phê bình và tự phê bình”. Đặc biệt, cần chú ý đến công tác phê bình vì tác dụng của phê bình rất lớn, nhưng làm sao để phê bình đúng, có hiệu quả thật sự là vấn đề rất đáng quan tâm. Yêu cầu đặt ra là việc phê bình phải thật sự chân thành, có phương pháp đúng, hợp lý, hợp tình.

Các thế lực thù địch, phản động, chống phá, cơ hội chính trị cho rằng, phê bình của Đảng Cộng sản là đấu đá nội bộ… Ngay một số cán bộ, đảng viên của Đảng vốn đã từng có thời gian tham gia vào hoạt động tự phê bình và phê bình của Đảng, khi đang công tác, có chức, có quyền thì không có ý kiến phê phán gì, nhưng đến khi về nghỉ hưu, hoặc bản thân có sai lầm khuyết điểm, bị xử lý kỷ luật (dù việc xử lý của tổ chức là rất chính xác, rõ ràng, công khai, có lý, có tình), nhưng họ vẫn quay sang phê phán, đổ lỗi cho khách quan, cho đồng chí, cho tập thể, nói xấu tổ chức, nói xấu công tác tự phê bình và phê bình của Đảng.

Cùng với việc xác định rõ tác dụng, yêu cầu của phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú trọng đưa ra phương pháp phê bình đúng đắn, chính xác. Người dạy: “Phê bình là cốt giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, cho nên thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang… Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù. Không nên phê bình lấy lệ. Càng không nên “trước mắt không nói, soi mói sau lưng”.

Trên thực tế, những hạn chế, khuyết điểm, những căn bệnh xấu xuất hiện trong phê bình mà Bác Hồ đã chỉ ra trên đây cũng đã xuất hiện nhiều lần ở nơi này, nơi kia, lúc này, lúc khác. Tình trạng trong sinh hoạt thì im hơi, lặng tiếng, nhưng sau khi họp, trong câu chuyện bàn trà, thậm thụt sau lưng thì nói xấu, tố cáo nhau đủ thứ chuyện. Hay họp hành công khai thì nâng nhau lên đủ thứ tử tế, nhưng khi đằng sau thì lại tìm mọi cách để dìm nhau xuống. Nổi lên là hiện tượng dĩ hòa vi quý, trong sinh hoạt tập thể, công khai, trước mặt nhau thì cái gì cũng tốt, nhưng đến khi vỡ chuyện, bị xử lý kỷ luật thì giậu đổ bìm leo, tố cáo nhau, đổ lỗi cho nhau đủ thứ.

Muốn công tác phê bình có hiệu quả tốt thì cần phải có những biện pháp tổng hợp, đồng bộ. Trước hết, cần có nhận thức, quan điểm đúng đắn về phê bình. Chỉ có nhận thức, quan điểm đúng về phê bình thì mới có được hành động chuẩn mực, hợp lý, hợp tình trong triển khai phê bình. Ví dụ như phải nhận thức đúng đắn rằng, mục đích của phê bình là để giúp nhau tiến bộ, tăng cường đoàn kết thống nhất, thì từ đó mới có thể có những chủ trương, cách làm đúng và có chất lượng. Nếu nhận thức sai về phê bình sẽ rất dễ dẫn đến phê bình sai mục đích, cách làm không phù hợp, nội bộ mất đoàn kết, phản tác dụng.

Để làm tốt công tác phê bình, đòi hỏi phải có các quy định cụ thể, chặt chẽ nhằm phát huy cao nhất tác dụng của công tác phê bình. Lưu ý sự cần thiết của những hướng dẫn chi tiết, cách làm cụ thể, thống nhất để mọi tổ chức và cá nhân cùng thực hiện tốt công tác phê bình, không vi phạm sai sót trong phê bình. Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vạch khuyết điểm để sửa chữa, cũng phải nêu ưu điểm để phát huy. Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cấp cao phải noi gương tốt”.

Trong công tác phê bình cần xác định rõ vai trò quan trọng của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng thật sự vững mạnh, trở thành môi trường trong sáng, lành mạnh, tạo thuận lợi cho từng cán bộ, đảng viên thực hiện tốt công tác phê bình. Môi trường không phù hợp, không lành mạnh sẽ dẫn đến việc phê bình thiếu dân chủ, không thực chất, hoặc áp đặt, cứng nhắc, làm cho cán bộ, đảng viên không dám phê bình hoặc phê bình hời hợt, hình thức, kém hiệu quả.

Cũng cần quan tâm tạo thuận lợi để quần chúng nhân dân tham gia phê bình cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi quần chúng, sửa chữa khuyết điểm… chứ không phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”. Chính Người cũng đã đưa ra mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân với bộ đội trong công tác phê bình, chỉ rõ nhân dân có quyền góp ý, phê bình với bộ đội: “Tôi là người dân, tôi cũng có quyền phê bình, góp ý với bộ đội chứ. Bộ đội cách mạng là bộ đội của dân cơ mà”.

Yêu cầu rất quan trọng đặt ra của công tác phê bình và tự phê bình là cần thiết phải nêu cao trách nhiệm và tính tự giác của từng cán bộ, đảng viên. Chỉ có trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và tình cảm của mỗi cá nhân thì mới có thể có tinh thần tự nguyện, kiên quyết và cách làm phù hợp để từ đó đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động phê bình và tự phê bình.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam chúng ta không ngừng rèn luyện phấn đấu, tăng cường phê bình và tự phê bình để thực hiện đúng chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Bí thư Quân ủy Trung ương: “Đảng bộ Quân đội phải làm gương, làm mẫu về mọi mặt. Trong toàn quân không có cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân”./.                                                                                 

  NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TỰ DO TÔN GIÁO 

 

Một số người Việt chống cộng ở hải ngoại có quan điểm chống đối chính quyền Việt Nam, đã dựa vào chính sách chung của chính quyền Mỹ, rất coi trọng các quyền tự do, mà trong đó, quyền tự do tôn giáo gần như được xem là hàng đầu, để từ đó tạo những ảnh hưởng, tác động vào các sinh hoạt chính trị trong cộng đồng người Việt Nam. Năm 1988, khi đặt chân lên đất Thái Lan, ngay trong trại tị nạn dành cho người vượt biên, tôi đã rất ngạc nhiên vì trong môi trường đầy khó khăn, thiếu thốn và hoang mang vì tương lai bấp bênh, vô định, thế nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi mang đầy màu sắc chính trị.

 

Các Ban trị sự, Hội đồng liên tôn các tôn giáo đã tập hợp các tín hữu, con chiên, đạo hữu của mình thành những đoàn thể để hoạt động không thuần túy về tôn giáo, mà còn nhằm xuyên tạc, chỉ trích chính quyền Việt Nam. Nhiều tài liệu, sách báo, thông tin từ hải ngoại được ấn hành, đưa vào trại tị nạn phát tặng miễn phí, kích động chống Việt Nam như báo Đường Sống (Mỹ), báo Quê Mẹ (Pháp) hay các tổ chức như BPSOS (Boat people SOS - Ủy ban cứu trợ người vượt biển).

 

Khi định cư ở Mỹ từ tháng 2/1991, tôi nhận thấy nhiều cơ sở tôn giáo được mở mang, phát triển và hoạt động rất năng động. Nhiều nhà thờ, nhà chùa mới được thành lập từ những vận động, đóng góp chủ yếu từ các cá nhân. Gắn liền với những kỷ niệm từ quê nhà, không ít nhà thờ, ngôi chùa lấy tên trùng với những nơi thờ tự quen thuộc như Giáo xứ Tân Sa Châu, Giáo xứ Tân Bùi Chu, Phát Diệm, Chùa Dược Sư, Chùa Vĩnh Nghiêm… Chính những cơ sở tôn giáo này cũng tự biến thành nơi hội họp, sinh hoạt chính trị vì các nhân sự, thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại ít nhiều cũng nhuốm mùi chính trị cực đoan.

 

Ý niệm về “đấu tranh tôn giáo” với “đấu tranh cho dân chủ, tự do” đã trở thành phương tiện, là công cụ cho các cá nhân, tổ chức chống cộng cực đoan khai thác triệt để nhằm lợi dụng lòng tin của người dân còn mơ hồ, hay có định kiến với chính quyền Việt Nam. Các lãnh đạo cộng đồng, tổ chức chống cộng thường xuyên theo dõi các biến động xã hội trong nước không ngừng biến các hiện tượng được chú ý thành các “vấn đề tôn giáo” nghiêm trọng. Thí dụ, vụ án của linh mục Nguyễn Văn Lý, ngày 30/3/2007, tại Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý và đồng bọn về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 1, điều 88 - Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại phiên tòa cho thấy thái độ bất hợp tác của ông Lý khi luôn tỏ ra chống đối, thậm chí đạp vào vành móng ngựa, hô hào, gây ồn ào. Ông Lý đã bị một nhân viên an ninh bịt miệng để giữ trật tự, và một bức ảnh ghi lại khoảnh khắc này đã được báo chí phương Tây, giới truyền thông chống cộng khai thác thành sự kiện “đàn áp, bịt miệng tự do tôn giáo”.

Khi sự kiện xảy ra, tôi và các đồng nghiệp của tuần báo Việt Weekly đã về Việt Nam, xin phép chính quyền về tận xã Thủy Biều, TP. Huế để tìm hiểu sự việc. Tại họ đạo Nguyệt Biều, đoàn báo chí từ hải ngoại của chúng tôi được tự do phỏng vấn các giáo dân tại địa phương về sinh hoạt tôn giáo tại đây. Các giáo dân kể chuyện cha Lý đã có công sửa đường, làm nhà vệ sinh công cộng, cấp con giống, cây trồng, mở lớp dạy máy tính, dạy ngoại ngữ miễn phí để đánh lừa, dụ dỗ niềm tin của một bộ phận giáo dân. Vụ án điển hình này cho thấy sự cấu kết của các tổ chức chính trị ở hải ngoại với các nhân vật chống đối đội lốt tôn giáo. Thông qua việc móc nối, vận động để xin tiền từ các tổ chức, cá nhân ở hải ngoại, ông Lý đã tham gia làm cố vấn vào “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” năm 2000, kích động giáo dân ký đơn đòi đất vốn của Giáo hội Thiên Chúa giáo đã giao cho hợp tác xã quản lý từ năm 1975, gây mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền.

 

Đoàn phóng viên báo Việt Weekly cũng có mặt tại Hà Nội để tham dự buổi họp báo của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là ông Michael Marine, khi được hỏi về bức hình “bịt miệng cha Lý” ở phiên tòa, ngài đại sứ cũng nêu rõ là hành động gây rối trật tự ở tòa án, nếu ở Mỹ cũng sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo góc nhìn của nhà ngoại giao Mỹ, thì chính quyền Việt Nam cũng cần phải có động thái trao cho các công dân của mình “không gian rộng rãi hơn để biểu đạt ý kiến của mình”.

 

Những vụ án mang màu sắc tôn giáo liên quan đến vấn đề tranh chấp đất hay bất động sản, qua quan sát của tôi, hầu hết đều có sự tác động của các thế lực chính trị hải ngoại kích động, xúi giục. Cái gọi là “Yểm trợ đấu tranh tôn giáo” ở hải ngoại được tiến hành rất bài bản. Họ tập hợp nhau tại các địa điểm công cộng như công viên, khu chợ, bãi đậu xe, trung tâm thương mại, nơi có đông đảo người dân gốc Việt sinh sống để tổ chức các buổi “thắp nến cầu nguyện” hay “tuyệt thực cho tự do, nhân quyền”. Các tổ chức chống cộng này cho rằng các vụ tranh chấp đất đai ở những địa phương có cộng đồng người Công giáo sinh sống nhằm mục tiêu “thu hẹp tài sản của Giáo hội Công giáo, chia cắt nơi cư trú của đồng bào giáo dân, hòng làm suy yếu sự phát triển của Công giáo nói riêng”. Đây là những luận điệu xuyên tạc vô cùng ngớ ngẩn. Vì quyền làm chủ đất đai nào là của người Công giáo? Chính quyền địa phương mỗi nơi đều có quy định theo pháp luật để tiến hành thay đổi môi trường sống, sự phát triển của đô thị theo nhu cầu thực tế. Thế nhưng việc chuyển đổi quỹ đất này đã bị thổi phồng thành những vụ án “đàn áp tôn giáo” gây nên nhiều ngộ nhận cho người ở hải ngoại thiếu thông tin về sự việc.

Mặt khác các đối tượng chống cộng luôn phao tin rằng, người Cộng sản là “vô thần,” người Cộng sản coi “tôn giáo là thuốc phiện”, một khi tôn giáo ở Việt Nam lớn mạnh, sẽ trở thành những lực lượng đối kháng có thể đè bẹp chế độ! Vì vậy chính quyền Cộng sản Việt Nam phải áp dụng các cách đàn áp tinh vi, làm suy yếu tôn giáo. Từ đây họ đã đánh vào tâm lý chung của những gia đình di cư năm 1954, các quan chức chế độ Việt Nam cộng hòa luôn có ánh nhìn hoài nghi về chính sách tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Chính những cơ quan “truyền thông đen”, mang danh nghĩa là “truyền thông quốc tế” như BBC, RFA, VOA,.. mà nhân sự của các “đài Việt ngữ” phần lớn đều là những người làm truyền thông thiếu khách quan, thiếu thiện chí trong việc đưa tin, thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều phóng sự, hội luận của các kênh này luôn khai thác các nhân vật đối lập, hay “bất đồng chính kiến” để gây hoang mang cho người dân ở hải ngoại, bằng những thủ thuật kích động nhưng lại tỏ ra khách quan, đa chiều.

 

Đồng thời nhu cầu về tâm linh, thể hiện tình yêu nước đã nhuốm màu sắc chính trị với chiều hướng cực đoan. Ở vùng nam California, tôi đã từng ghi nhận, phỏng vấn nhiều tu sĩ, các cha, các nhà sư từ trong nước đi sang Mỹ theo diện thăm thân hay du lịch, nhưng khi tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề, mới rõ là họ được một số cá nhân, hoặc tổ chức chính trị ở hải ngoại mời đi Mỹ để “gây quỹ từ thiện” hay “xin quyên góp xây dựng nhà thờ, xây chùa” ở Việt Nam. Mỗi buổi họp mặt này, những bài than khổ về sự khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều được các vị nêu lên theo ánh nhìn thiếu thiện chí, gợi niềm thương cảm trong cộng đồng. Nếu không trực tiếp về Việt Nam để tìm hiểu rõ sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhiều bà con ta cứ ngỡ ở Việt Nam không được đi lễ, không được đi chùa vì các cơ sở tôn giáo này do “Nhà nước quản lý”!

 

Điều đáng quan ngại hơn nữa, đó chính là sự hà hơi, tiếp tay của các vị “dân cử người Mỹ gốc Việt” trong các dịp tranh cử các vị trí như nghị viên thành phố, thị trưởng thành phố, nghị sĩ tiểu bang hay liên bang. Câu chuyện “đấu tranh cho tự do tôn giáo, quyền con người” tiếp tục được họ đưa ra để vận động tranh cử. Điển hình như các thành phố có đông người Việt cư trú như Westminster, Garden Grove, Fountain Valley, Santa Ana… (miền nam California), hay San Jose (miền bắc California), các chính trị gia đã tận dụng chiêu bài tranh cử không gì khác hơn là “chống cộng và đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là những khẩu hiệu, chiêu bài dễ hô hào, dễ tạo sự quan tâm của cử tri.

 

Ngân sách tranh cử như chiếc bánh được chia chác nhau theo từng phần: Giới lãnh đạo cộng đồng chống cộng tổ chức biểu tình, kêu gọi cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi quyền con người cho các nhà đối lập trong nước. Còn các cơ quan “truyền thông đen” thì được nhận phần quảng cáo cho những thông điệp chính trị sặc mùi mị dân như “đòi quyền tự do con người cho người dân Việt Nam”. Từ đây đã tạo thành một bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc, một “kỹ nghệ chống cộng” mang tính vòng tròn khép kín để thỏa mãn lòng hận thù tồn tại từ trước, nhằm bào mòn tình cảm gắn bó của người dân trong và ngoài nước. Và trên hết, để vừa có danh, vừa có lợi, họ đã bất chấp sự công bằng, lẽ phải và quyền lợi tối thượng của dân tộc là sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế, đưa đất nước từ nghèo khó sau chiến tranh, tiến lên một nước có nền hòa bình bền vững, ổn định lâu dài để phát triển.

 

Là người sống trong cộng đồng lâu năm, theo dõi những diễn biến chính trị và sinh hoạt cộng đồng một cách toàn diện, nên tôi đã nhận diện được rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoang mang chia rẽ tôn giáo của các tổ chức chống cộng lưu vong. Theo tôi, hành động của họ không vì bất cứ lòng trắc ẩn, tình đồng bào nào hết, ngoài việc tạo nên những cái “bánh vẽ” to tướng khiến một bộ phận người trong nước có tinh thần vọng ngoại hiểu sai lệch vấn đề về tự do tôn giáo, hay quyền con người. Cần phải hiểu rằng tự do của mỗi cá thể trong xã hội phải đặt dưới quy định của luật pháp, không thể tùy tiện nhân danh sự tự do để sinh hoạt tôn giáo mang tính chính trị, chống phá chế độ.

Nguồn Tuyên giáo TW

  VAI TRÒ CỦA VIỆC HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Giá trị của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vai trò cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mỗi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) và nhân dân Việt Nam đã được chứng minh trong thực tiễn.

Trước thực trạng một bộ phận CB, ĐV lười học LLCT, cùng với việc tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của LLCT, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để khắc phục tình trạng này. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Nghị quyết cũng chỉ rõ hạn chế: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, ĐV về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra”.

Trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phải tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của CB, ĐV về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập LLCT, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân. Trước đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghị quyết đã khẳng định: Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Ðảng.

Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt, học tập LLCT là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của CB, ĐV, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ. Bởi thế, đào tạo LLCT phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ gắn với quy định của Đảng về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, phân cấp quản lý cán bộ... Tránh hiện tượng giao chỉ tiêu, cử cán bộ đi học LLCT theo kiểu “điền vào chỗ trống” khiến người học không có động lực, không thấy đó là nhu cầu thiết thân mà còn gây tốn kém, lãng phí ngân sách, thời gian, công sức. Trên thực tế, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng LLCT cho đảng viên, có hiện tượng khoán trắng cho cơ quan tham mưu mà thiếu kiểm tra, giám sát. Việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên. Tình trạng bớt thời gian, cắt xén nội dung trong quán triệt, truyền tải nghị quyết của Đảng không hiếm. Điều này đã được Đảng ta chỉ ra. Tuy vậy, những giải pháp để khắc phục ở cơ sở hiện nay là chưa triệt để.

Nhiều cán bộ qua đào tạo LLCT ở các bậc học đã nêu lên một thực trạng, đó là sự trùng lặp nội dung các bậc học, thiếu sự liên thông, tính kế thừa, tính thống nhất giữa các cấp học dẫn đến việc cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề, học phần. Chương trình đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, kinh viện mà chưa có bổ sung thấu đáo về tính thực tiễn. Đúng như tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế”. Như vậy, phải có nghiên cứu thấu đáo việc đưa chương trình, nội dung vào giảng dạy ở các bậc học. Đây cũng là vấn đề lớn mà Đảng, Nhà nước, hệ thống các cơ sở đào tạo cần quan tâm, tìm ra phương thức hợp lý.

 

 

 

 

NHỮNG LÃNH TỤ VĨ ĐẠI CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ CỘNG SẢN QUỐC TẾ

 

1. V. I. Lênin (1870 - 1924)

Vladimir Ilyich Lenin là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Các Mác và Phriđơrich Ăngghen. Ông là người sáng lập ra Quốc tế Cộng sản; đồng thời lãnh đạo nhân dân Nga tiến hành Cách mạng tháng Mười Nga, thành lập ra Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới do Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo (7/11/1917). Ông là trong 100 người có ảnh hưởng nhất đến toàn thế giới. 

 

2. Hồ Chí Minh (1890 - 1969)

Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.

 Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành Cách mạng tháng Tám (1945), thành lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Người được UNESCO vinh danh là "Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam", góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít - Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Người sáng lập ra chế độ Dân chủ Nhân Dân Việt Nam (nay là chế độ Dân Chủ XHCN Việt Nam), góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.

3. Fidel Castro (1926 - 2016)

Fidel Castro – vị lãnh tụ huyền thoại của Cách mạng Cuba,Fidel Castro là biểu tượng của tinh thần chiến đấu ngoan cường, là lá cờ đầu của phong trào cách mạng Mỹ La-tinh.

 

Ông là người giải phóng nhân dân Cuba thoát khỏi ách thống trị độc tài của Đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai Baxtia. Ông là người sáng lập nên Đảng CS Cuba, Người sáng lập nên chế độ Dân chủ XHCN và Nhà nước Công nông đầu tiên ở Châu Mỹ. Ông là người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam, Người đã luôn ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, cũng như cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc chống Trung Quốc và chiến tranh biên giới Tây Nam chống Khmer đỏ Campuchia xâm lược.

Fidel không cho phép dựng tượng ông ở bất cứ đâu và đặt tên đường phố theo tên ông. Ông nói rằng không muốn có một sự tôn sùng cá nhân nào. Tuy nhiên, không ai bảo ai, hình ảnh và lời nói của ông ở khắp mọi nơi, trên đường phố, tên ông được hô vang ở bất cứ sự kiện lớn nào của đất nước. Hầu hết người dân Cuba, dù yêu mến ông hay không, gọi ông với cái tên thân thiết: “Fidel”.

 Tạp chí Time năm 2012 gọi Castro là 1 trong 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất mọi thời đại. Lãnh tụ Cuba Fidel Castro luôn là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn, một biểu tượng về một con người kiên cường đấu tranh cho tinh thần độc lập dân tộc và vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. 

Ông thuộc lớp các nhà cách mạng kiệt xuất của thế giới thứ ba từng cống hiến đời mình cho lý tưởng tự do và giải phóng dân tộc như Hồ Chí Minh, Nelson Mandela, Che Guevara… Fidel đã trở thành một người anh hùng, một nguồn cổ vũ tinh thần của những dân tộc nghèo đói và bị áp bức trên thế giới.

St

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI TỰ HÀO THEO ĐẢNG!

         Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Kể từ khi ra đời cho đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Qua hơn 36 năm đổi mới, Đảng đã lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
     Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.
     Đó là kết quả của sự nỗ lực và phấn đấu không ngừng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân./.


Yêu nước ST.

“ĐỒNG BÀO LƯƠNG VÀ GIÁO HÃY ĐOÀN KẾT CHẶT CHẼ, GIÚP ĐỠ LẪN NHAU”

Ngày 10-8-1968, Bác viết “Điện gửi đồng bào xã Đoài” Nghệ An thăm hỏi địa phương vừa bị máy bay Mỹ ném bom tàn sát nhiều người dân, làm chết hai vị giám mục và ba vị linh mục, phá hủy nhà thờ và nhà cửa của dân. Bức điện viết: “Tôi rất động lòng khi được tin ngày 21 tháng 7 vừa qua, máy bay giặc Mỹ lại ném bom, bắn phá xã Đoài... Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau và chính quyền địa phương tìm cách giúp đỡ đồng bào giải quyết những khó khăn trước mắt để khôi phục lại đời sống bình thường và cùng nhau ra sức chống Mỹ, cứu nước”. Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương - giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dung NCS30A

Chiến tranh qua đi, nỗi đau vẫn ở lại

Có một cựu chiến binh già, gần đất xa trời nhưng vẫn phải lui cui thổi bếp lửa, chạy vạy làm việc nhà, lo những bữa ăn và cả những cái áo mặc cho hai đứa con đã vào độ tuổi trưởng thành. Anh con lớn đã vào độ tuổi 30 nhưng tâm hồn lại như con nít và mãi như vậy, anh hay phá làng phá xóm, thẫn thờ như mơ và đi đâu là quên lối về nhà. Người cựu chiến binh phải xích anh vào gốc cây và chỉ tháo ra mỗi khi có người dắt đi bên cạnh… Chị con gái cũng đã ở độ tuổi trưởng thành nhưng chỉ nói những câu vô nghĩa, không thể tự mặc quần áo hay làm những việc vệ sinh đơn giản...

NÂNG CAO CẢNH GIÁC PHÒNG, CHỐNG “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH!

         Trong giai đoạn hiện nay, âm mưu “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch tuy chưa thể làm cho quân đội ta “biến chất”, mất phương hướng và mục tiêu chính trị; chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quân đội, nhưng sự tồn tại của nó là hết sức nguy hiểm. Bởi vì, âm mưu “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch đang có được một số điều kiện để tồn tại, đó là: tình hình chính trị, quân sự phức tạp trên thế giới; những tác động tiêu cực từ điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, nhất là mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường đã và đang tác động ảnh hưởng tiêu cực đến tiềm lực chính trị, tinh thần của quân đội ta, cũng như tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, chiến sĩ.
     Thực trạng tình hình chính trị tư tưởng, nhận thức về “Phi chính trị hóa” quân đội của bộ đội ta bên cạnh những ưu điểm, những mặt tích cực, cần phải khắc phục có hiệu quả những hạn chế, yếu kém. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ ở mức độ khác nhau giảm sút niềm tin vào lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thiếu yên tâm gắn bó với quân đội, chưa nêu cao tinh thần cảnh giác trước những âm mưu thủ đoạn của địch, làm việc cầm chừng, thiếu chí tiến thủ.
Để tiếp tục đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn “Phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, CB,CS trong Quân đội ta cần thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu:
+ Thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, củng cố và giữ vững trận địa chính trị tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.
+ Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, xây dựng và luyện tập thành thạo các phương án chiến đấu, không để bị bất ngờ trước mọi tình huống.
+ Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý chặt chẽ nội bộ, ngăn chặn và đập tan các hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp, tình báo của địch.
+ Phối hợp với địa phương và các đơn vị xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh, kịp thời ngăn chặn và giải quyết có hiệu quả những biến động (nếu xảy ra).
     Phòng, chống “phi chính trị hóa” quân đội của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách hàng đầu, là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của dân tộc ta. Kiên định sự lãnh đạo của Đảng, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng, thường xuyên cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao, nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội, kịp thời xử lý có hiệu quả và đúng đắn các tình huống có thể xảy ra là trực tiếp góp phần đánh bại “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta./.




Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 10 THÁNG 8 NĂM 1968!

     “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”!
     Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Điện gửi đồng bào xã Đoài”, Báo Nhân dân đăng số 5233, ngày 10 tháng 8 năm 1968.
     Đây là giai đoạn đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc để cắt đường tiếp tế của hậu phương cho chiến trường miền Nam, chúng đã tàn phá nhiều thành phố, làng quê; ngày 21 tháng 7 năm 1968 máy bay Mỹ bắn phá xã Đoài, tỉnh Nghệ An làm 02 giám mục, 03 linh mục bị thương; một số tu sĩ, đồng bào giáo và lương bị thương và tử vong, nhà thờ bị hư hỏng, hàng trăm nhà dân bị tàn phá. Biết tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Điện thăm hỏi, động viên nhân dân xã Đoài, tỉnh Nghệ An; trong Điện Bác kêu gọi: “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”.
     Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
     Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. 
     Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương - giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Môi trường ST.

NÂNG CAO CẢNH GIÁC PHÒNG, CHỐNG “DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”!

     Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn phát huy truyền thống, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
     Hiện nay, lợi dụng các ưu thế của các trang mạng xã hội, các cá nhân, tổ chức phản động trong và ngoài nước ráo riết, quyết liệt trong việc chống phá chế độ ta, chống phá Quân đội với mức độ ngày càng nghiêm trọng, phạm vi ngày càng mở rộng, tính chất ngày càng phức tạp hơn. 
     Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi quân nhân chúng ta cần tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện chức trách của mình với đất nước; phải trở thành nhân tố nòng cốt trong xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; phải trí tuệ, bản lĩnh, khôn khéo, linh hoạt, tự tin, bền chí, kiên cường trong đấu tranh trên mạng xã hội.
     Mỗi sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan - binh sĩ cần nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của mình khi tham gia mạng xã hội, nhằm tạo ra một hợp lực đủ mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch, xấu độc của các thế lực thù địch, góp phần bảo về Đảng, Nhà nước và Quân đội ta./.




Môi trường ST.

Những thông tin xuyên tạc liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam

 Lợi dụng việc Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam mới đây có thông báo về việc tạm thời ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các đối tượng xấu đã đăng tải, chia sẻ trên Internet, mạng xã hội những thông tin, luận điệu suy diễn, xuyên tạc, sai trái nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín của Đảng, Nhà nước ta

Những thông tin suy diễn, xuyên tạc, bôi nhọ với dụng ý xấu

Ngày 27/7, website của Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo với nội dung, do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Thông báo của Đại sứ quán CHLB Đức cho biết, những người mang hộ chiếu phổ thông Việt Nam theo mẫu mới màu xanh tím than, có số serial bắt đầu bằng chữ “P” sẽ không thể nộp hồ sơ xin visa, đồng thời khuyến cáo, trong trường hợp đã được cấp thị thực cũng không nên đến Đức, bởi có nguy cơ sẽ bị từ chối cho nhập cảnh tại biên giới.

Ngay sau khi thông báo trên được đăng tải trên website của Đại sứ quán Đức và được các phương tiện truyền thông dẫn lại, chưa biết thực tình câu chuyện thế nào, trên một số diễn đàn Internet, mạng xã hội, các đối tượng xấu, thiếu thiện chí đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, luận điệu mang tính suy diễn, xuyên tạc, sai trái theo kiểu công kích, miệt thị nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam.

    Luận điệu mà những người này đưa ra là: “Hộ chiếu Việt Nam thuộc hàng “tủi thân” trên thế giới”; “thứ hạng của hộ chiếu Việt Nam bị coi là thấp, thể hiện qua “năng lực di chuyển, nhập cảnh” (mobility score) thuộc hạng thấp, so với các nước khác”; “quyền lực của hộ chiếu thể hiện quyền lực của dân tộc”; “trong khi các nước khác đang ngày càng tăng khả năng ký kết các thỏa thuận miễn thị thực cho công dân của họ, chính phủ Việt Nam đã không có năng lực tạo tiến bộ trong lĩnh vực này”… Một số đối tượng thì đặt ra những câu hỏi theo kiểu “lập lờ đánh lận con đen” như: “Làm cách nào để “nâng quyền lực” của hộ chiếu Việt Nam?”; “để cải thiện “hình ảnh hộ chiếu Việt Nam” liệu chính phủ có làm được gì?”… Trong khi đó, một số người thì quay sang công kích Bộ Công an, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an với giọng điệu chê bai, miệt thị. Đây rõ ràng là những luận điệu suy diễn, xuyên tạc vô căn cứ nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam với thế giới.

Hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam “đúng luật, đúng quy định”

Ngay sau khi Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo về việc ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhanh chóng tiến hành các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đại diện Cục Quản lý Xuất nhập cảnh (Bộ Công an) cho biết sẽ tiến hành cùng với Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) làm việc với Đại sứ quán, lãnh sự Đức thông qua đường ngoại giao. Cục Quản lý Xuất nhập cảnh cũng cho biết, hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam được cấp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tiêu chuẩn của ICAO (Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế). Cũng theo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, hộ chiếu mới được thiết kế công phu, trên mỗi trang là hình ảnh tiêu biểu về phong cảnh, hình tượng về chủ quyền quốc gia, di sản văn hóa nổi tiếng nhằm khẳng định và quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Ngoài ra, mẫu hộ chiếu phổ thông mới bảo đảm các kỹ thuật bảo an, khó làm giả.

Liên quan vấn đề này, Đại sứ Việt Nam tại CHLB Đức Vũ Quang Minh thông tin: “Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam vừa có thông báo do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích, nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Theo thông tin của chúng tôi, các cơ quan chức năng của Việt Nam đang xử lý vấn đề kỹ thuật này và sẽ sớm có thông báo”.

Trong khi đó, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) đã giao thiệp với Đại sứ quán CHLB Đức tại Hà Nội, đề nghị hai bên phối hợp tìm giải pháp tháo gỡ các khó khăn về mặt kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam nhập cảnh Đức và phù hợp với tinh thần Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại Đức cũng đã liên hệ để thu xếp trao đổi trực tiếp với các cơ quan chức năng Đức về việc này.

Đừng lấy “thứ hạng hộ chiếu” để phán xét về “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”

Thực tế, trong vấn đề hộ chiếu, cần phải có cách nhìn nhận đầy đủ, khách quan. Không thể chỉ vì một vài chi tiết về kỹ thuật chưa tương thích mà đã có thể đánh giá “quyền lực hộ chiếu”, “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”. Ngay cả bảng xếp hạng quyền lực hộ chiếu của Henley & Partners cũng mới chủ yếu dựa trên cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA), với tiêu chuẩn về số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ mà công dân mỗi nước có thể dùng hộ chiếu đi vào mà không cần xin visa trước. Với căn cứ đó, mỗi nước tùy vào điều kiện cụ thể để đưa ra quy định có thể tăng hay giới hạn độ mở của hộ chiếu, cho phép công dân đi đến bao nhiêu quốc gia mà không cần visa. Đây thực ra chỉ là một thủ tục chứ không có gì ghê gớm để nói “quyền lực hộ chiếu” hay “sức mạnh dân tộc”.

Không thể nói rằng, hộ chiếu đi được nhiều quốc gia thì nước đó văn minh, quyền lực hơn nước có hộ chiếu đến được ít quốc gia hơn. Không thể nói rằng thứ hạng hộ chiếu thấp thì giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc đó thấp hơn giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc có thứ hạng hộ chiếu cao hơn. Đây chỉ là một căn cứ của thủ tục hành chính, không phải cơ sở để đánh giá về thang giá trị, trình độ phát triển, sự văn minh, quyền lực của quốc gia, dân tộc.

Việt Nam là một đất nước đã có hàng ngàn năm văn hiến, dựng nước và giữ nước. Một dân tộc bất khuất, kiên cường, oanh liệt trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được cộng đồng thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới thuộc tất cả các châu lục, thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) (2010, 2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), trong đó nhiệm kỳ 2020 – 2021 đạt số phiếu gần như tuyệt đối 192/193 phiếu, 2 lần là nước chủ nhà APEC (2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ 2 (2019)[1].

Về quan hệ kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế-phát triển hàng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) [2].

Có thể khẳng định rằng, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa đến những thay đổi về chất trong thế và lực của đất nước. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”[3].

Mới đây, nhân chuyến công tác dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN – Mỹ, thăm, làm việc tại Mỹ và Liên hợp quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, trong cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Minh Chính tại thành phố New York ngày 16/5, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc Amina Mohammed đã khẳng định Việt Nam là đối tác quan trọng và là người bạn của Liên hợp quốc, mong muốn hai bên tiếp tục phát triển quan hệ toàn diện, hiệu quả hơn. Bà Amina Mohammed nhấn mạnh: “Tiếng nói của Việt Nam rất quan trọng cho đoàn kết quốc tế. Trong bối cảnh thế giới trải qua nhiều khủng hoảng và khác biệt, Việt Nam luôn có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ chủ nghĩa đa phương, hòa bình và cải cách Liên hợp quốc”.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, những kết quả đã đạt được toàn diện sau hơn 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đã không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế hơn lúc nào hết đang đánh giá rất cao vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam. Chưa khi nào trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chúng ta có được vị thế và uy tín quốc tế cao như hiện tại.

Bởi vậy, đừng chỉ dựa vào một vài tiêu chí kỹ thuật chưa tương thích liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam mà cố tình miệt thị, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam. Những luận điệu trên chỉ là thiểu số và lạc lõng của một số người thiếu thiện chí, định kiến, hằn học trước sự phát triển của đất nước./.

Xây dựng Quân đội hùng mạnh - đất nước mới hùng cường, nhằm làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa quân đội” hiện nay

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, QĐND Việt Nam luôn là lực lượng nòng cốt BVTQ, trong thế trận chiến tranh nhân dân. Nghệ thuật quân sự Việt Nam ngay từ xa xưa đã thực hiện phép dụng binh “ngụ binh ư nông”- quân gửi trong dân. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, quân đội là lực lượng không thể thay thế, không thể phủ nhận, là công cụ sắc bén, hữu hiệu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Trong khi đó, tính chất, yêu cầu nhiệm vụ BVTQ trong điều kiện mới ngày càng cao; tình hình thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, mau lẹ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ tác động đến nhiệm vụ BVTQ. Các vấn đề xung đột, tranh chấp chủ quyền biển, đảo, biên giới diễn ra phức tạp. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam, kích hoạt sự “chuyển màu” về chế độ, cố tình hạ bệ vai trò của Đảng và QĐND Việt Nam... Trước tình hình đó, nếu Việt Nam không có một đội quân thực sự “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” thì liệu nhiệm vụ BVTQ có thể bảo đảm trong mọi tình huống, nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, làm nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước? Thực tế cho thấy, kể từ sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Bắc Nam sum họp một nhà, thì vẫn chưa có bất kỳ phút giây những người lính Cụ Hồ được ngơi nghỉ trong cuộc chiến giữ hòa bình, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong mọi giai đoạn lịch sử, thời kỳ phát triển, quân đội luôn là lực lượng đi đầu và khẳng định những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp cách mạng, nhất là trong suốt hành trình 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Vậy nên, với chức năng, nhiệm vụ được giao, QĐND Việt Nam-lực lượng nòng cốt BVTQ rất cần những đầu tư tương xứng để có đủ tiềm lực, thực lực và sức mạnh bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó. Ở đây, cần hiểu đúng và đủ về chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân và đặt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong mối quan hệ tổng thể xây dựng 3 thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong đó, với tầm nhìn chiến lược, các lực lượng phải từng bước được đầu tư để hiện đại hóa, chính quy hóa, nhưng trên hết và trước hết phải ưu tiên xây dựng QĐND Việt Nam trong mối quan hệ với các bộ phận, lực lượng khác của LLVT. Bởi thế, trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương luôn nhất quán quyết tâm xây dựng quân đội cách mạng, nhưng đồng thời phải tiến lên chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Nghị quyết Trung ương các khóa XI, XII, XIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X, XI đều xác định phải đẩy nhanh tiến độ, chất lượng từng bước tiến lên hiện đại, ưu tiên xây dựng một số lực lượng trong quân đội tiến thẳng lên hiện đại. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ mục tiêu phấn đấu: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại... Đó là mục tiêu khách quan, đòi hỏi tất yếu của sự nghiệp BVTQ. Do đó, việc tập trung quan tâm, đầu tư nguồn lực cho xây dựng quân đội là nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng, toàn dân và sự nghiệp cách mạng.

Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch hiện nay

Đoàn kết là một trong những truyền thống quý báu và là cội nguồn mang lại sức mạnh vô địch cho dân tộcViệt Nam. Truyền thống ấy, sức mạnh ấy không ngừng được hun đắp và minh chứng trong suốt suối dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng được củng cố và mở rộng,quy tụ mọi người dân Việt Nam từ tất cả các thành phần dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã hội; không chỉ nhằm “phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” mà còn để chống lại âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch. Thực tế cho thấy,các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ âm mưu hòng làm yếu đi sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta. Các hoạt động chống phá được chúng tiến hành ngày càng tinh vi, đa dạng và hậu quả khó lường, đòi hỏicông tác tranh chống lại mưu đồ đen tối ấy phải được tiến hành thường xuyên, liên tục và nhất là cần quán triệt chặt chẽ quan điểm“chủ động phòng ngừa là chính”, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những nguy cơ, mầm mống có thể tạo cớ cho hoạt động của các thế lực thù địch. “Chủ động phòng ngừa” phải được thể hiện từ trong tư tưởng đến tổ chức, với sự vào cuộc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống chính trị. Về mặt tư tưởng, luôn thấm nhuầnlời dạycủa Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như quan điểm, chính sách của Đảng và nhà nước về đại đoàn kết; phát huy truyền thống yêu nước, tương thân tương ái; xác định mỗi người dân Việt Nam vừa là những thành tố quan trọng trong khối đại đoàn kết, vừa là lá chắn vững chắc để bảo vệ kho báu ấy. Về mặt tổ chức, Mặt trận Tổ quốc là nơi quy tụ đông đảo, rộng rải nhất mọi giai tầng trong xã hội, có nhiệm vụ xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên của Mặt trận nhưng cũng là tổ chức lãnh đạo thông qua chủ trương, đường lối đúng đắnđể huy động mọi nguồn lực, bảo vệ thành quả cách mạng của cả dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại. “Chủ động phòng ngừa” còn thể hiện ở việc chúng ta tự tạo ra “sức đề kháng”trước những thủ đoạn của các thế lực thù địch bằng cách chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; khắc phục dần, tiến tới khắc phục dứt điểm những bất cập trong hệ thống chính trị, những thiếu sót trong triển khai thực hiện các chính sách cụ thể ở một số địa phương, để “khe hở” tạo cớ cho các hoạt động chống phá của chúng không còn. Không những thế, đó còn là “chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, tuyệt đối không được để bị động, bất ngờ” trước mọi tình huống. Trong bối cảnh hiện nay, việc nhận diện, làm rõ chiêu bài, thủ đoạn ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch và tuyên truyền cho mọi người cùng biết là điều hết sức cần thiết. Công tác tuyên truyền có thể tiến hành thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề, các bài viết, bài nói hay các hình thức khác thông qua phương tiện thông tin đại chúng…Cần xem đây là nhiệm vụ của tất cả mọi người. Mỗi người dân Việt Nam đều có thể là những tuyên truyền viên, nhắc nhau cùng cảnh giác. Tất nhiên, nòng cốt vẫn làchính lực lượng làm công tác chính trị tư tưởng. Nhấn mạnh rằng, tất cả người Việt Nam luôn đoàn kết một lòng hướng đến mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, mọi âm mưu, hoạt động chống phá, chia rẽ đều đi ngược với mong muốn của người dân Việt Nam. Cùng với đó là tăng cường các bài viết, tư liệu, hình ảnh… làm rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến tất cả các thành phần dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp trong xã hội thể hiện qua các chủ trương, chính sách đúng đắn và hiệu quả. Thường xuyên cập nhật những chuyển biến tích cực trong đời sống của người dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, giúp không chỉ mỗi người dân trong nước mà dư luận quốc tế có thể hiểu rõ, hiểu đúng về sự bình đẳng cũng truyền thống tương thân tương ái, giúp nhau cùng phát triển của người dân Việt Nam, chứng minh những luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch là sai trái, vô căn cứ. Cần đặc biệt quan tâm đến vùng có đông tín đồ các tôn giáo. Hiện nay, khoảng 27% dân số Việt Nam theo tôn giáo, trong đó có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng đức tin của bà con tuyên truyền những nội dung sai sự thật, xuyên tạc quan điểm của Đảng và Nhà nước khiến một bộ phận đồng bào tôn giáo giảm lòng tin, rồi từ đó âm mưu tách bà con khỏi khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một số trường hợp, chúng lợi dụng sự khác biệt về niềm tin tôn giáo đểkhông chỉ chia rẽ giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau mà còn tiến hành ly khai trong nội bộ mỗi dân tộc và giữa các dân tộc, kích động âm mưu tự trị ở một số vùng trọng điểm dân tộc như Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ. Chính vì thế, cần tăng cường hơn nữa công tác tuyền truyền, làm rõ âm mưu, thủ đoạn cho bà con biết và nâng cao cảnh giác.

Đấu tranh đẩy lùi âm mưu kích động, xuyên tạc, chia rẽ tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Cam-pu-chia trong giai đoạn hiện nay

Tình đoàn kết, hữu nghị là giá trị tốt đẹp, bền vững được hun đúc từ lịch sử hàng nghìn năm của hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia, từ mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung. Vậy nhưng thời gian gần đây đã xuất hiện những âm mưu, thủ đoạn kích động, phá hoại mối quan hệ tốt đẹp, trong sáng ấy. Trên một số tờ báo đưa ra tư tưởng, bài viết, kích động, lôi kéo các cử tri trẻ tuổi, thiếu kiến thức và thông tin về quan hệ hai nước, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, chống phá quan hệ hữu nghị Việt Nam - Cam-pu-chia do một số thế lực chính trị đối lập kích động có thể gây bất ổn xã hội tại đất nước Chùa tháp. Nhất là trong thời điểm diễn ra các cuộc bầu cử ở Cam-pu-chia, việc sử dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi làm “mồi nhử” lôi kéo phiếu bầu có thể mang lại những hiệu quả nhất thời, nhưng về lâu dài có thể sẽ là mồi lửa châm ngòi xung đột, gây chia rẽ dân tộc, chia rẽ quan hệ hữu nghị. Trong những âm mưu phá hoại đó, dư luận nhân dân hai nước hẳn chưa quên sự kiện diễn ra cách đây ít lâu, có lực lượng đối lập ở Cam-pu-chia đã đến các địa bàn giáp biên để tuyên truyền, lôi kéo người dân ủng hộ bầu cử hội đồng xã, phường vào năm 2017 và bầu cử Quốc hội Cam-pu-chia năm 2018. Các tổ chức phản động lưu vong cũng tăng cường về các vùng giáp biên giới Việt Nam lôi kéo nhân dân hai nước thực hiện mưu đồ của chúng. Ngược về thời gian trước không lâu, tại Cam-pu-chia từng diễn ra một số cuộc biểu tình tự phát, xuyên tạc và ngang ngược đòi “cắt quan hệ với Việt Nam”. Chúng đã bị dư luận ở chính Cam-pu-chia và quốc tế lên án. Trước và sau chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Cam-pu-chia Hun Xen mới đây, những luận điệu xuyên tạc đó lại “rộ lên”. Những luận điệu đó không mới, nhưng chúng không dừng ở phá hoại quan hệ hai nước mà còn ẩn chứa nhiều âm mưu phá hoại đen tối khác. Năm 2013, tại cuộc bầu cử Quốc hội lần thứ 5, đảng Nhân dân Cam-pu-chia (CPP) giành được chiến thắng với 68 ghế, ông Xam Rên-xi đã có những phát ngôn lạc lõng, vô căn cứ, gây tổn hại quan hệ hữu nghị hai nước khi trả lời phỏng vấn đài BBC, vu cáo: “Hà Nội từng lấn chiếm đất đai Cam-pu-chia và… chiếm các đảo của Trung Quốc. Bộ Nội vụ Cam-pu-chia đã từng lên tiếng tuyên bố những hành vi đó là không chấp nhận được và đi ngược đạo lý. Trong một phát ngôn chính thức với các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước, người phát ngôn Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia đã nêu rõ, đất nước Việt Nam anh em không phải là nhân tố đe dọa an ninh của Cam-pu-chia: “Chính phủ và nhân dân Cam-pu-chia luôn chủ trương bảo vệ và phát triển mối quan hệ với Việt Nam, thành quả to lớn của quá trình lâu dài cùng sát cánh chiến đấu bên nhau qua nhiều giai đoạn lịch sử, kiên quyết không để bất kỳ thế lực nào phá hoại mối quan hệ đoàn kết đặc biệt này”. Nhìn lại những trang sử rực lửa và cũng thấm đẫm máu, nước mắt của nhân dân hai nước, chúng ta có thể thấy rõ không phải ngẫu nhiên mà Chính phủ Hoàng gia Cam-pu-chia đưa ra quan điểm trên. Với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, nhân dân ba nước Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia đã kề vai, sát cánh, cùng chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân xâm lược, để lại những kinh nghiệm quý cho hôm nay và mai sau. Trong "Lời kêu gọi Liên hợp quốc" (tháng 12-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền". Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đế quốc Mỹ nhiều lần kêu gọi Lào và Cam-pu-chia gia nhập cái gọi là "Khối phòng thủ Đông Nam Á" và "Khối phòng ngự sông Cửu Long" nhằm cô lập và xâm lược Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết ba dân tộc. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của cả ba dân tộc anh em”. “Trước sau như một, Việt Nam trung thành với nghĩa vụ quốc tế của mình đối với cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia”. Mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước tiếp tục được phát huy, phát triển trong giai đoạn hiện nay. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam cuối tháng 12-2016 vừa qua, tại buổi gặp mặt, nói chuyện với hơn 200 đại biểu tướng lĩnh, sĩ quan, cựu chiến binh Quân tình nguyện Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế tại Cam-pu-chia qua các thời kỳ, Thủ tướng Hun Xen đã nhấn mạnh chuyến thăm của ông lần này đến Việt Nam mang theo thông điệp cảm ơn của nhân dân Cam-pu-chia đối với Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam đã giúp đỡ đánh đổ và ngăn chặn không cho chế độ Pôn Pốt quay trở lại, tạo tiền đề cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước Cam-pu-chia phồn vinh như ngày nay. Ông khẳng định luôn trân trọng những kỷ niệm tốt đẹp với quân và dân Việt Nam. Dù tình hình thế giới có diễn biến phức tạp thế nào cũng không thể tác động đến quan hệ láng giềng anh em tốt đẹp giữa hai nước. Hai nước cần giáo dục thế hệ trẻ gìn giữ mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp vốn có, tài sản vô giá đã được vun đắp trong suốt quá trình đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây và xây dựng phát triển đất nước ngày nay.