Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG VỀ CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN THA HÓA LÀ LỖI CỦA MỘT ĐẢNG LÃNH ĐẠO

 Trên các trang mạng xã hội các thế lực thù địch thường rêu rao cho rằng: “bỏ độc quyền lãnh đạo mới có thể chấm dứt nạn đảng viên tha hóa”, với những luận điệu rất nguy hiểm này, nếu chúng ta không tỉnh táo dễ bị mắc mưu những thế lực phản động, xuyên tạc; để từ đó, tìm mọi cách xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính trị của đất nước. Vì vậy, cần nhận thức đúng đắn vấn đề này để đấu tranh với những luận điệu sai trái, phản động đó.

Trên thế giới, bất kỳ chế độ xã hội nào cũng có người trong bộ máy công quyền tha hóa quyền lực, vì nó là hiện tượng gắn liền với quyền lực chính trị. Thực trạng ở các nước có chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập cũng có không ít người trong bộ máy công quyền bị tha hóa. Trong bài viết chỉ nêu một vài vụ điển hình như: Vụ bê bối quyền lực chính trị để trục lợi (Watergate) của Tổng thống Mỹ Richard Nixon năm 1972 - 1974, buộc Ông này phải từ chức khi đang là Tổng thống nhiệm kỳ hai; vụ ông Bernard Kerit, nguyên Chỉ huy trưởng Cảnh sát New York, năm 2004 đã được Tổng thống Mỹ Geore W.Bush đề cử làm Bộ trưởng Bộ An ninh nội địa Mỹ, nhưng do phạm tội tham nhũng trốn thuế và nhận tiền hối lộ nên đã không được bổ nhiệm. Hoặc là ở Hàn Quốc, vào tháng 12/2016, Tổng thống Hàn Quốc Park Geun - Hye bị Quốc hội phế truất chức Tổng thống do bị buộc tội tham nhũng dính líu đến vụ dùng quan hệ cá nhân để tăng ảnh hưởng và trục lợi tài chính. Trên thế giới còn rất nhiều chính khách của các nước có chế độ đa đảng bị tha hóa mà các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước đã đưa tin. Họ đều là những người đại diện cho một đảng chính trị nhất định của các nước đó. Vậy mà mấy ông “dân chủ cuội” chẳng thấy ho he một tiếng nào.

Đối với Việt Nam chúng ta, ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ mới ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm”. Người cho rằng, lãnh đạo đúng là cùng với việc “quyết định mọi vấn đề cho đúng”, “phải tổ chức thi hành cho đúng”, còn “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Người yêu cầu: “Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”.

Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đảng nhấn mạnh: Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương. Đặc biệt, xác định được kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là gốc của kiểm soát quyền lực trong Đảng. Vì vậy, ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị (khóa XII) đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Trong đó nhấn mạnh: Sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ.

Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, những năm qua, nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng trong kiểm soát quyền lực chính trị. Trong đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt; chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được nâng lên. Việc sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị được thực hiện theo hướng tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đất nước.

Đến năm 2019, cả nước đã giảm được 6 đơn vị hành chính cấp huyện; 545 đơn vị hành chính cấp xã; 15.354 thôn, tổ dân phố; giảm 4 đầu mối trực thuộc Trung ương, 6 tổng cục và 2 bộ tư lệnh; 83 cục, vụ và tương đương…; Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng được tăng cường, có trọng tâm, trọng điểm theo đúng tinh thần của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Từ năm 2016 đến nay, thông qua công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật trên một ngàn tổ chức đảng, gần hai mươi ngàn cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 8 tổ chức đảng, 45 đảng viên, Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên (có trên một trăm cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý). Công tác phòng, chống tham nhũng được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, kiên trì, có hiệu quả…; Vai trò của pháp luật ngày càng được đề cao; cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành mạch. Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành đổi mới theo hướng kiến tạo, tập trung điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, hỗ trợ phát triển cho các doanh nghiệp, để phát triển kinh tế đất nước.

Như vậy, kiểm soát quyền lực, phòng chống sự tha hóa của cán bộ, đảng viên là việc làm thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp từ Trung ương đến các địa phương. Vậy mà, các thế lực thù địch luôn rêu rao nói rằng; độc Đảng là buông lỏng quản lý; là phe cánh, là lợi ích nhóm dẫn đến cán bộ đảng viên tha hóa biến chất, tham ô lẵng phí. Đây cũng chỉ là những chiêu trò nhằm xuyên tạc, bôi nhọ làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân mà thôi; chúng ta cần tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tác này./.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG TA HIỆN NAY

 Từ các nghiên cứu về lịch sử nhân loại cho thấy; ở mỗi thời đại, tham nhũng được hiểu, đề cập và định danh với những tên gọi khác nhau, phạm vi rộng hẹp cũng khác nhau,... nhưng điểm chung của vấn nạn này là gây ra những hậu quả nghiêm trọng, cản trở hoặc đối lập với tiến bộ xã hội. Với cách tiếp cận đó, có thể hiểu tham nhũng là “một hiện tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất hiện tư hữu và quá trình hình thành, phát triển của giai cấp, nhà nước; nó được biểu hiện qua hành vi của con người, tác động tiêu cực đến xã hội và sẽ mất đi khi xã hội không còn sở hữu tư nhân”. Bản chất của hiện tượng này nằm ngay trong lòng xã hội, do cá nhân hay bộ phận nắm giữ những trọng trách trong xã hội thực hiện với mục đích vụ lợi riêng, làm cản trở, kìm hãm quá trình vận động, phát triển của xã hội. Vì vậy, đây là cuộc đấu tranh rất lâu dài, đầy gian nan, phức tạp đối với tất cả các quốc gia dân tộc, trong đó có Việt Nam chúng ta.

Nghiên cứu lý luận và những bằng chứng khoa học cho thấy; thủa “bình minh”, loài người muốn tồn tại phải đoàn kết, sống theo “bầy đàn”, cùng nhau sáng tạo ra công cụ lao động, chinh phục, cải tạo tự nhiên và cùng nhau sản xuất, sử dụng tư liệu sinh hoạt,… nên mọi của cải vật chất đều là của chung, chưa có hành vi chiếm hữu và lúc đó chưa có tham nhũng. Khi sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định, năng suất lao động được nâng lên, tư liệu sinh hoạt chung được sản xuất ra vượt quá nhu cầu duy trì sự sống của cộng đồng, dẫn đến hiện tượng dư thừa; khi đó, bắt đầu xuất hiện những cá nhân, bộ phận người bị “tha hóa”, tìm mọi cách độc chiếm lượng tư liệu sinh hoạt dư thừa đó làm của riêng - hành vi tham nhũng xuất hiện. Sự “tha hóa” ngày càng tăng, nhu cầu chiếm hữu ngày càng lớn, dẫn đến chiếm đoạt về lao động và tư liệu sản xuất, rồi tổ chức lực lượng chuyên trách để bảo vệ, mở rộng nội dung, phạm vi, lãnh thổ chiếm hữu,... Như vậy, tham nhũng xuất hiện từ cuối xã hội nguyên thủy; khởi đầu là hành vi chiếm đoạt tư liệu sinh hoạt dư thừa trong cộng đồng; sau đó, nội dung, phạm vi chiếm hữu ngày càng mở rộng. Ban đầu là một, hay một bộ phận người trong cộng đồng, rồi đến giai cấp bóc lột (trong xã hội có đối kháng giai cấp). Hiện nay, nhân loại đang trong giai đoạn phát triển có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới, vẫn còn cơ sở tồn tại, nên vẫn còn tình trạng tham nhũng, Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Quá trình nghiên cứu xây dựng học thuyết về con người; các nhà kinh điển Mác - Lênin khẳng định: “con người khác với con cừu chỉ là ở chỗ trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con người là bản năng đã được ý thức”. Thực tế là, sự tồn tại của con người luôn gắn liền với bản năng, nhu cầu tự nhiên: ăn, uống, mặc, ở, đi lại,... và nó được “ý thức hóa”, đó là sự khác biệt căn bản nhất giữa con người so với con vật. Quá trình hoạt động thực tiễn làm cho sự thống nhất biện chứng giữa bản năng sinh vật và mặt xã hội trong con người ngày càng hoàn thiện, nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, tức nhu cầu về lợi ích ngày càng cao, không có giới hạn, vì nó được “ý thức hóa”; ngược lại, những nhu cầu đó cũng tác động mạnh mẽ trở lại, thúc đẩy hoạt động thực tiễn, làm cho ý thức con người phát triển ngày càng hoàn thiện…

Tuy nhiên, số lượng cá nhân, bộ phận người bị “tha hóa” nhỏ hơn nhiều so với thành phần lao động và các tầng lớp khác trong cộng đồng, xã hội, nhưng hành vi tham nhũng luôn kìm hãm, gây hậu quả nghiêm trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì, bản năng, sinh vật, nhu cầu tự nhiên của họ được “ý thức hóa” theo hướng tiêu cực, luôn tìm mọi thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, biến tài sản chung của xã hội, tập thể hay của công dân thành tài sản riêng, làm thất thoát, lãng phí kìm hãm sự phát triển; đảo lộn những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức,… và len lỏi vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Bước vào công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên phạm vi cả nước, nhất là từ khi đổi mới đến nay, tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra với tính chất, mức độ khác nhau, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Để đấu tranh ngăn chặn, phòng, chống hiện tượng này, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách phù hợp với từng giai đoạn. Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta đều ban hành những nghị quyết chuyên đề, hoặc lồng ghép nội dung phòng, chống tham nhũng vào nhiều nghị quyết Trung ương. Hệ thống luật, nghị định, hướng dẫn thực hiện do Nhà nước ban hành liên quan đến lĩnh vực này ngày càng hoàn thiện. Hệ thống cơ quan chỉ đạo, cơ quan chuyên trách được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, chuyên sâu. Những năm gần đây, cuộc chiến này được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh với quyết tâm chính trị cao và đã thu được nhiều kết quả quan trọng được nhân dân đồng tình ủng hộ.

Như vậy, tham nhũng xuất hiện từ cuối xã hội nguyên thủy; Tham nhũng luôn là một “căn bệnh” nguy hiểm của xã hội, có ở tất cả các chế độ chính trị khác nhau, để có thể phòng ngừa, đẩy lùi, chữa khỏi được nó phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp xóa bỏ chế độ tư hữu, cùng đối kháng giai cấp; đồng thời, ngày càng hoàn thiện bản chất “người” để lao động, cống hiến trở thành nhu cầu, mục đích cao nhất trong hoạt động của mỗi người, đặc biệt là những cá nhân, bộ phận được giao cho nắm giữ những trọng trách xã hội nhất định. Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: tham nhũng không phải lỗi của độc Đảng hay đa Đảng như các tổ chức phản động thường rêu rao, ám chỉ Đảng cộng sản Việt Nam; mà đằng sau đó là âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta mà thôi./.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, BÔI NHỌ CỦA CÁC THẾ LỰC PHẢN ĐỘNG, THÙ ĐỊCH VỀ THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945

 Hằng năm cứ gần đến dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh mùng 02 tháng 9, các thế lực thù địch, phản động lại tăng cường các hoạt động chống phá cách mạng nước ta. Chúng lợi dụng các trang mạng xã hội, xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật về giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của sự kiện lịch sử này. Một trong những luận điệu mà chúng đưa ra đó là, thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945 không phải là do sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không phải là kết tinh sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, mà thành công đó là một sự “may mắn” do điều kiện lịch sử tạo ra. Thực chất, đây chính những luận điệu phản khoa học, phi thực tế, sai sự thật. Ẩn náu đằng sau những luận điệu đó chính là mưu đồ nhằm hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh; hạ thấp, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam; xem nhẹ giá trị lịch sử và ý nghĩa to lớn thời đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945 của các thế lực thù địch, phản động.

Nhìn lại lịch sử của dân tộc ta từ những năm 1930 của thế kỷ IXX, chắc chắn một điều rằng, tất cả những người có lương tri, có tư duy đều dễ dàng nhận thấy thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhãn quang Cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thành quả của sự đoàn kết, đồng lòng, nỗ lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ, hy sinh của toàn dân tộc. Điều đó được thể hiện ở việc chuẩn bị công phu về mọi mặt, từ việc chuẩn bị về chủ trương, đường lối, về xây dựng lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, về xây dựng căn cứ địa cách mạng… trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Đặc biệt, thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là nhờ có tư duy sắc sảo, nhạy bén, sáng tạo, quyết đoán của Đảng ta trong xác định, lựa chọn thời cơ tiến hành tổng khởi nghĩa.

Ngay từ ngày đầu mới thành lập, trong chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng ngày 03 tháng 02 năm 1930, Đảng ta đã chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Từ chủ trương, đường lối đó, Đảng ta đã cụ thể hóa vào thực tiễn, đề ra các giải pháp cụ thể, phù hợp trong mỗi thời điểm và đã tổ chức lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh rộng khắp, điển hình là các phong trào cách mạng: cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 - 1931; phong trào dân chủ 1936 - 1939; phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng 8 năm 1945.

Đảng ta xác định lực lượng chính trị quần chúng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng lực lượng chính trị quần chúng là vấn đề có tính nguyên tắc, là yêu cầu khách quan của cách mạng. Từ nhận thức đó, ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chủ trương phải xây dựng được lực lượng chính trị quần chúng đông đảo, mạnh mẽ. Để thực hiện được điều đó, Đảng xác định phải có một đội ngũ cán bộ nắm giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy lãnh đạo để liên kết các phong trào đấu tranh. Chính vì vậy, Đảng đã cử nhiều thanh niên ưu tú đi học tập, đào tạo tại các trường của Quốc tế Cộng sản, nhằm chuẩn bị lực lượng ưu tú, sau này về nước nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong Đảng, trong các tổ chức cách mạng, làm lực lượng nòng cốt trong truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước nâng cao nhận thức chính trị, trang bị lý luận cách mạng cho các tầng lớp nhân dân. Đồng thời, Đảng cũng đã thành lập một số tổ chức để tập hợp quần chúng, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân tiến hành sự nghiệp cách mạng.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định,cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi nhất thiết phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của giai cấp thống trị. Chính vì lẽ đó, phải xây dựng lực lượng vũ trang và coi đây là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tham gia chiến đấu, có vị trí vô cùng quan trọng và quyết định sự thành công của phong trào cách mạng. Vì vậy, Đảng ta đã từng bước thành lập các tự vệ, đội du kích, rồi tiến tới thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng nòng cốt cho các tổ chức vũ trang cùng nhân dân đánh giặc. Đảng đã lãnh đạo các lực lượng vũ trang cùng toàn dân tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đảng ta đã chủ trương tổ chức xây dựng các căn cứ địa cách mạng để tập hợp, xây dựng các tổ chức, các lực lượng cách mạng và huấn luyện lực lượng này để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Thực tế chiến tranh đã cho thấy, chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, các căn cứ địa cách mạng của ta đã được xây dựng vững chắc và phát huy tốt vai trò là nơi đóng quân của lực lượng cách mạng, là nơi có thế tiến công địch, đồng thời cũng là phòng thủ vững chắc để bảo vệ lực lượng và có thể dễ dàng liên lạc và nhận sự ủng hộ của cách mạng thế giới, đồng thời cũng là nơi cung cấp sức người, sức của cho cách mạng.

Bằng nhãn quang Cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm đúng thời cơ chẳng những khoa học mà còn là nghệ thuật giành chính quyền, tránh sai lầm, tránh gây tổn thất cho cách mạng. Điều này đã được kiểm nghiệm từ thực tế các cuộc chiến tranh trên thế giới cũng như từ các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của ông cha ta trong lịch sử, đặc biệt là từ kinh nghiệm về chọn thời cơ của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Khi nhận thấy tình hình thế giới có sự biến đổi nhanh chóng và mau lẹ, Nhật đã đầu hàng đồng minh, Đảng ta nhận định, thời cơ đã chín muồi để tiến hành tổng khởi nghĩa. Với sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ mọi yếu tố và biết lựa chọn đúng thời cơ tiến hành khởi nghĩa mà cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta giành được thắng lợi to lớn, triệt để, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa- Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông - Nam Á.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thành quả của sự đoàn kết, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kể cả sự hy sinh, mất mát của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt 15 năm kể từ khi Đảng ta ra đời. Từ những luận cứ có tính khoa học, từ những vấn đề thực tiễn về lãnh đạo cách mạng; Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chuẩn bị về chủ trương, đường lối; về xây dựng lực lượng chính trị; về xây dựng lực lượng vũ trang; về xây dựng căn cứ địa cách mạng; về xác định, lựa chọn thời cơ khởi nghĩaĐó là kết tinh sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc lâu dài, đầy hy sinh, gian khổ của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, chứ không phải là một cuộc cách mạng vội vàng, ngẫu nhiên, “may mắn” như những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, kích động. Đây cũng là minh chứng sống để những kẻ nào chưa hiểu biết, hoặc cố tình không hiểu biết về giá trị lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, thì hãy học lại lịch sử để không phải hổ thẹn với con cháu sau này./.

KỊP THỜI PHÁT HIỆN, CHẤN CHỈNH VÀ XỬ LÝ NGHIÊM ĐỐI VỚI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN SUY THOÁI VỀ TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

 Những năm gần đây, công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả, góp phần quan trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội... Mặc dù có nhiều cố gắng; xong, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn không ít hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Do vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải thường xuyên tiến hành rà soát tình hình chính trị nội bộ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp xử lý đối với những cán bộ, đảng viên có vấn đề về chính trị. Thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước về kết nạp đảng viên, về cán bộ và công tác cán bộ phải đúng, đủ theo quy định của Đảng  đã đề ra.

Người được xem xét, kết nạp vào Đảng; người làm việc trong hệ thống chính trị được cử đi đào tạo ở nước ngoài, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý, giới thiệu để bầu vào cấp ủy, bầu đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp và tuyển dụng, bố trí làm việc ở cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu phải được cấp ủy có thẩm quyền kết luận chính trị. Xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nguyên tắc, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Thực hiện tốt việc xem xét, kết luận tiêu chuẩn chính trị cán bộ trong từng nội dung công tác cán bộ theo phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp tục rà soát cán bộ đang giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở và cán bộ trong diện quy hoạch chuẩn bị kế cận, kế tiếp các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú ý những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm hình sự; liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng; vấn đề liên quan hồ sơ, lý lịch và liên quan đến yếu tố nước ngoài.

Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập và quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý và đang công tác trong cơ quan, bộ phận trọng yếu, cơ mật phải thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, Nhà nước khi ra nước ngoài công tác, học tập, du lịch, thăm thân, chữa bệnh...; quy định về cán bộ, đảng viên có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài, có con kết hôn với người nước ngoài; quy định về kỷ luật phát ngôn, cung cấp, trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài... Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, trong trường hợp cần thiết phải điều chuyển, bố trí công tác khác cho phù hợp... Thực hiện nghiêm quy định về việc cán bộ, đảng viên không được ra nước ngoài nếu đang trong thời gian xem xét kỷ luật, đang bị điều tra về hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm tư cách đảng viên hoặc có vấn đề liên quan đến chính trị hiện nay nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền kết luận. Thực hiện tốt công tác quản lý và có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên, lưu học sinh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, hiện đang công tác, học tập, nghiên cứu, lao động ở nước ngoài, không để các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt nước ngoài móc nối, lôi kéo, kích động hoạt động chống Đảng, Nhà nước...

Từ những bài học về công tác quản lý cán bộ, đảng viên của các tổ chức, cơ sở Đảng các cấp của chúng ta gần đây, có nơi do buông lỏng quản lý cán bộ, đảng viên, dẫn đến cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm phải xử lý kỷ luật, thậm chí có cán bộ, đảng viên vi phạm khuyết điểm nghiêm trọng phải xử lý hình sự. Chính vì vậy, trong thời gian tới cấp ủy Đảng các cấp cần thường xuyên rà soát, kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành các quy định về kỷ luật trong Đảng về chế độ bảo mật, quản lý chặt chẽ thông tin, tài liệu, giữ gìn bí mật của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia và ngăn chặn các hoạt động thu thập thông tin bí mật của các cơ quan đặc biệt nước ngoài. Nhất là đối với cán bộ, đảng viên giữ các vị trí trọng trách trong bộ máy của Đảng, chính quyền địa phương ở các cấp./.

TĂNG CƯỜNG ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG, TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ, BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ “TỰ BẢO VỆ” CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

 Thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã “có nhiều bước đột phá quan trọng, tạo sự chuyển biến tích cực”, góp phần “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ”. Tuy nhiên, “việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vẫn còn hạn chế, khuyết điểm: Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý lưởng, giảm sút ý chí; sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”.

Trong bối cảnh mới, đất nước ta tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, “bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn đang hiện hữu, có mặt còn gay gắt hơn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” còn diễn biến phức tạp”. Tại Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII chỉ rõ: “Phải đặc biệt coi trọng và đưa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới, gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là nhiệm vụ sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ Kết luận số 21-KL/TW, trong đó phải đặc biệt coi trọng và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; kịp thời phát hiện, xử lý các phần tử chống đối, cơ hội chính trị và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.

Đây là vấn đề cơ bản, giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay nói chung và công tác bảo vệ chính trị nội bộ Đảng nói riêng. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, các phương tiện truyền thông xã hội và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng những sơ hở, yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tuyên truyền, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta bằng những chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng thâm độc, nham hiểm. Trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, một số cán bộ, đảng viên đã có biểu hiện dao động, hoài nghi, gây phân rã tư tưởng, bất đồng thuận trong nội bộ Đảng, trong xã hội. Do đó, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng hiện nay. Phương châm tiến hành công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng là “tích cực chủ động, phòng ngừa, lấy phòng ngừa là chính”.

Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, phổ biến sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc; bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Khẳng định Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế thời đại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong thời gian tới cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục tuyên truyền giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên các cấp không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, củng cố, tăng cường niềm tin khoa học vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, tăng cường sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong toàn Đảng, sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân và sự đồng thuận về chính trị, tinh thần trong toàn xã hội. Nâng cao “sức đề kháng”, khả năng “tự bảo vệ” của cán bộ, đảng viên trước những tác động từ mặt trái kinh tế thị trường, các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Kiên quyết bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta./.

NHẬN DIỆN ĐÚNG NÉT ĐẸP VĂN HOÁ VIỆT NAM!

     Một trong nhiều những giá trị văn hóa Việt Nam phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta theo suy nghĩ của cá nhân đó chính là: Khát vọng Tổ quốc ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, dân tộc ta hoàn toàn tự do, nhân dân ta được hưởng hạnh phúc trọn vẹn.
     Đảng ta đã chỉ rõ: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Trước thời cơ đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Chính vì vậy, khát vọng đất nước phát triển phồn vinh càng trở nên mạnh mẽ, cháy bỏng hơn bao giờ hết. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước. Nét nổi bật là Đảng, Nhà nước đang tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự cường, niềm tin, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam. Qua đó, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
     Điều đó đang cổ vũ mạnh mẽ tinh thần của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa./.


Môi trường ST.

"DI SẢN VĂN HÓA VIỆT NAM" TẠI ARMY GAMES 2022


“Hoạt động triển lãm” là một trong hai phần thi của “Đội quân văn hóa” tại Army Games 2022, nhằm góp phần giới thiệu những đặc trưng tiêu biểu của di sản văn hóa Việt Nam, góp phần hòa chung vào sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa các nước.
Gian trưng bày của “Đội quân văn hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam giới thiệu triển lãm chủ đề “Di sản văn hóa Việt Nam”. Triển lãm gồm các nội dung sau:
Phần trọng tâm: Khái quát về quan hệ truyền thống, đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga. Phần 1 chủ đề “Di sản văn hóa Việt Nam Việt Nam”, giới thiệu các di sản văn hóa tiêu biểu của Việt Nam bao gồm: Di sản thế giới, di sản phi vật thể đại diện của nhân loại và di sản tư liệu.
Phần 2 chủ đề “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam”, giới thiệu các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa góp phần bảo vệ, lưu giữ, trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống; đồng thời, tôn vinh, quảng bá các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ quốc gia; góp phần thúc đẩy phát triển đất nước.
Phần 3 chủ đề “Quân sự Quốc phòng Việt Nam”, giới thiệu hình ảnh Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Trong đó, hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện với phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Không gian triển lãm được xây dựng theo hướng mở rộng, tiếp cận theo các hướng với màu sắc chính gồm xanh và đỏ. Trung tâm triển lãm là biểu tượng của Thủ đô Hà Nội với hình ảnh Khuê Văn Các màu xanh, biểu tượng của sự phát triển và hòa bình. Bốn cột trụ nằm bốn hướng màu đỏ cách điệu đường cong của Trống đồng, thể hiện ý chí quật cường của nhân dân Việt Nam trong lịch sử.
Theo Thượng tá Đặng Mỹ Hạnh, Đội trưởng Đội tuyển Văn hóa-Nghệ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia Hội thao Quân sự quốc tế 2022, hoạt động triển lãm được thiết kế công phu, hiện đại với khối lượng sản phẩm thi công và trưng bày lên tới 1,7 tấn vật tư nhằm truyền tải chủ đề Di sản Văn hóa Việt Nam; không gian thi công 36m2 từ ý tưởng thiết kế mô hình Khuê Văn Các, biểu trưng của Hà Nội - Thành phố hòa bình. Trong không gian này sẽ diễn ra nhiều hoạt động tương tác, trải nghiệm, quảng bá đậm nét truyền thống dân tộc và Quân đội nhân dân Việt Nam.
“Đội quân văn hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam hy vọng qua trưng bày sẽ giúp các bạn nước ngoài hiểu thêm về văn hóa, đất nước và con người Việt Nam; góp phần vào sự phong phú, đa dạng của các nền văn hóa trong Nhà hữu nghị tại Amry Games năm nay. Đồng thời, hy vọng một ngày gần nhất được chào đón các đồng chí và các bạn đến với đất nước Việt Nam tươi đẹp.
-:- Báo QĐND -:-

Phẩm chất là yếu tố quyết định

 

Cốt lõi phẩm chất của người cộng sản là quên mình vì nước, vì dân. Chính vì vậy, đối với họ “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.

LỜI BÁC HỒ DẠY ngày 13/8


“Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
Lời dạy của Bác Hồ trong “Bài nói với cán bộ và đồng bào tỉnh Nam Định”, ngày 13/8/1958.
Đây là thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng quê hương, thống nhất đất nước; phong trào thi đua yêu nước sau 10 năm thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, động viên, khích lệ đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, phát huy ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, ra sức thi đua, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; trong đó tỉnh Nam Định là một điểm sáng của cả nước, được Bác về thăm và nói chuyện; trong đó, Người căn dặn: “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trở thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc Việt Nam vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Chính vì vậy, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua các phong trào thi đua đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đoàn kết chặt chẽ thì sức mạnh thi đua càng mạnh, phong trào thi đua càng có sức lan tỏa sâu rộng, kết quả đạt được càng toàn diện và vững chắc.
Học tập và làm theo lời Bác dạy, phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội được cấp ủy, chỉ huy, hội đồng thi đua - khen thưởng, cơ quan chính trị các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm với nhiều phong trào đã gắn với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu như: “Giết giặc lập công”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”, “Một tấc không đi, một ly không dời”, “Yêu xe như con, quý xăng như máu”… đã phát triển sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ, đã động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trước yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phong trào thi đua Quyết thắng tiếp tục có bước phát triển mới, đồng hành, gắn chặt với từng lĩnh vực công tác, luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, đặc điểm, tình hình hoạt động của mỗi loại hình cơ quan, đơn vị trong toàn quân được cán bộ, chiến sĩ tích cực hưởng ứng thực hiện và đạt được kết quả tích cực, tạo động lực tinh thần to lớn cho toàn quân hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'
64
6 bình luận
19 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ