Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2023

HỌC TẬP TÁC PHẨM: “MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG.

 

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cuốn sách chuyên khảo, được tập hợp từ 29 bài viết, bài phát biểu tiêu biểu trong thời gian chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIII và sau đó, triển khai thực hiện Nghị quyết này, từ tháng 7-2018 đến tháng 12-2021. Trong đó, năm 2018, Tổng Bí thư công bố 3 bài; năm 2019 là 4 bài; năm 2020 là 9 bài; năm 2021 là 13 bài. Trong tác phẩm, Tổng Bí thư chủ yếu bàn về công tác xây dựng Đảng với 9 bài (gồm 5 bài về xây dựng Đảng và 4 bài về triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII); về Chủ tịch Hồ Chí Minh: 3 bài; về chủ nghĩa xã hội: 2 bài; về Quân đội: 2 bài; về Văn hóa: 2 bài; về các nội dung khác, mỗi một lĩnh vực có một bài.
Tên bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư được công bố vào dịp kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3.2.1930 - 3.2.2022). Dựa vào bài viết này, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với Hội đồng Lý luận Trung ương và Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật sưu tầm, tập hợp thêm 28 bài viết tiêu biểu khác của Tổng Bí thư, xây dựng thành cuốn sách, lấy tiêu đề bài viết nêu trên để đặt tên cho cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Cuốn sách đã ra mắt và đến tay bạn đọc vào tháng 1-2022. Tính đến nay, cuốn sách đã được lưu hành và sử dụng tròn một năm, gây tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội ta và nhiều nước trên thế giới.
Nội dung bao trùm của cuốn sách được Tổng Bí thư tập trung luận giải bốn vấn đề cơ bản: 1. Chủ nghĩa xã hội là gì?; 2. Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa?; 3. Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?; 4. Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì, đặt ra những vấn đề gì?.
Cuốn sách là một công trình khoa học có tầm lý luận rất cao, vì: a) Đã tổng kết thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam một cách sâu sắc, nhất là tổng kết thực tiễn - lý luận 35 đổi mới đất nước, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011); 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn 2011 - 2020; b) Tiếp tục khẳng định bản chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đặc biệt, Tổng Bí thư nhấn mạnh giá trị và ý nghĩa của học thuyết này đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới kể từ sau sự kiện chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hệ thống lâm vào thoái trào. Có thể khẳng định đây là tác phẩm chuyên khảo về bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, sau giai đoạn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ; c) Tiếp tục khẳng định sự trung thành, kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; d) Phân tích, làm rõ mục tiêu phát triển bền vững đất nước theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Tác phẩm của Tổng Bí thư có giá trị, ý nghĩa sâu sắc đối với công tác nghiên cứu: (1) Tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. (2) Nâng cao nhận thức về các bài học kinh nghiệm, những quy luật và các vấn đề có tính quy luật được đúc kết, khái quát từ thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. (3) Tiếp tục phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, phấn đấu thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. (4) Là tài liệu quan trọng cần cho công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân về tính tất yếu, mục tiêu, đặc trưng, bản chất, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. (5) Tạo sự đồng thuận, thống nhất về tư tưởng, nhận thức và hành động; là cơ sở để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân “chung sức đồng lòng”, phát huy mọi tiềm lực, nguồn lực, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam và thế giới, Tổng Bí thư đã luận giải sâu sắc tính tất yếu khách quan của sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta.
Tổng Bí thư khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội với mục tiêu cao nhất là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được sống trong hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc; không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người.
Tổng Bí thư khẳng định “mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta là phấn đấu xây dựng: i) “Một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”; ii) “Sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”; iii) “Một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”; iv) “Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”; v) “Một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”. Đây là mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, là định hướng để hiện thực hóa mục tiêu, con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, kiên định phấn đấu thực hiện.
Tổng Bí thư khẳng định bản chất chủ chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng, hướng tới, đó là: “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”; “phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”; “một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”; “hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”.
Tổng Bí thư đã phân tích, làm rõ quan điểm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng cơ bản, đó là: “Một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Tổng Bí thư khẳng định: Các đặc trưng ấy là nội dung của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Cùng với đó, Tổng Bí thư đã chỉ ra những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội phải bảo đảm tính đồng bộ, toàn diện, vững chắc trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Cụ thể:
Về kinh tế, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Về phát triển văn hóa, con người, xuất phát từ luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”.
Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng”. Đồng thời, chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên đối với Quân đội.
Về vấn đề an ninh, Tổng Bí thư nhấn mạnh “giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống; tuyệt đối không chủ quan, lơ là; không để bị động, bất ngờ”.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị là nhiệm giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuốn sách của Tổng Bí thư, phản ánh vai trò, vị trí có ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng, cả về phương diện lý luận và thực tiễn; đặc biệt quan tâm đến công tác “xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ”; “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp”; “siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính”; kiên trì, kiên quyết “đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Những vấn đề trên được Tổng Bí thư đặt ra trong tác phẩm là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục tổng kết lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta; là tài liệu quý cần cho công tác giáo dục chính trị và học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay./.
ST

BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI TRONG PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC .


Năm 2022 công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được thực hiện kiên quyết, kiên trì và phát triển mới, gắn chặt với đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Gắn chặt, xử lý hài hòa giữa " xây " và " chống " .
Công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngày càng quyết liệt, hiệu quả, tạo bước đột phá mới; kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm kỷ luật; luân chuyển cán bộ và bố trí cán bộ bị xử lý kỷ luật; phân loại, xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Thành lập BCĐ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh/thành. Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục những sơ hở, bất cập phục vụ quản lý, phát triển kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Nhiều văn bản đi vào cuộc sống ngay sau khi ban hành...
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức 11 đoàn kiểm tra đối với 30 tổ chức đảng về việc triển khai thực hiện nghị quyết Đại hội XIII; việc thực hiện nghị quyết, kết luận Trung ương 4 khoá 13; quy định những điều đảng viên không được làm; trách nhiệm nêu gương. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tổ chức 8 đoàn kiểm tra, chỉ đạo xử lý 370 vụ án, vụ việc. Uỷ Ban kiểm tra TW tiến hành 26 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm liên quan vụ án, vụ việc thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương theo dõi, chỉ đạo; đã xử lý và kiến nghị xử lý 46 tổ chức đảng, 138 đảng viên, trong đó có 16 tổ chức đảng và 26 cán bộ thuộc diện TW quản lý. Khởi tố 15 cán bộ cấp cao đương chức và nghỉ hưu. Cho thôi chức vụ một ủy viên Bộ Chính trị, 4 ủy viên Trung ương Đảng, khai trừ Đảng 1 ủy viên và 1 nguyên ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư tỉnh ủy; miễn nhiệm 3 chủ tịch Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh. Tập trung thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, dư luận quan tâm như mua sắm; huy động, quản lý, sử dụng nguồn lực phục vụ phòng, chống dịch Covid-19 và các chính sách hổ trợ khác.
Đã khởi tố, điều tra 2.474 vụ/4.646 bị can; truy tố 2.157 vụ/4.564 bị can; xét xử sơ thẩm 2198 vụ/4.620 bị cáo về tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ...Trung ương chỉ đạo xử lý 108 vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp ( có vụ kéo dài nhiều năm ); có nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt, lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, xảy ra trong khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước như Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Công ty AIC, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát... Nhiều nơi đã khởi tố cả lãnh đạo chủ chốt của tỉnh như Lào Cai, Phú Yên, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Khánh Hòa, Quảng Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, TP HCM...Tình trạng " trên nóng, dưới lạnh " đã giảm. Trong năm 2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tiến hành họp bất thường 2 lần. Ngày 6/6 Trung ương họp khai trừ Đảng đối với Chu Ngọc Anh và Nguyễn Thành Long; ngày 30/12 Trung ương quyết định cho thôi chức ủy viên Bộ Chính trị Phạm Bình Minh và ủy viên Trung ương Đảng Vũ Đức Đam. Thể hiện mạnh mẽ, kiên quyết đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, tiêu cực trong nội bộ.
Dấu ấn, kết quả nêu trên khẳng định quyết tâm, hành động, bước tiến mới về nhận thức, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và nhà nước, củng cố niềm tin tưởng, quyết tâm cao trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ./.
Sưu tầm:QCQT.
3

TỔNG BÍ THƯ MONG MUỐN CỰU CHIẾN BINH GÓP PHẦN XÂY DỰNG SỰ ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI

 

Tổng Bí thư đề nghị Hội cựu chiến binh đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng sự đồng thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong giai đoạn mới.
Sáng 30/12, tại Hội trường Bộ Quốc phòng, Hà Nội, Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh (CCB) lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022–2027 đã khai mạc trọng thể, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới dự và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng tại Đại hội.
Cùng dự có Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư. Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lão thành cách mạng, Anh hùng LLVT nhân dân, Anh hùng Lao động; lãnh đạo các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể Trung ương; lãnh đạo Hội CCB Việt Nam qua các thời kỳ cùng hơn 500 đại biểu đại diện cho hơn 3 triệu hội viên cựu chiến binh trong cả nước.
Được thành lập vào ngày 06/12/1989, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho ý chí và quyền lợi của cựu chiến binh, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Từ khi ra đời đến nay, Hội đã không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, hoạt động tích cực, đúng hướng và có hiệu quả.
Với chủ đề “Phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ, truyền thống “Trung thành - Đoàn kết - Gương mẫu - Đổi mới”, xây dựng Hội CCB các cấp vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ”, đại hội có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Hội CCB Việt Nam lần thứ VI, trên cơ sở đó chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm; xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trong nhiệm kỳ VII, giai đoạn 2022-2027; xem xét sửa đổi, bổ sung Điều lệ Hội cho phù hợp với tình hình mới; lựa chọn để bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Hội khóa VII có đủ phẩm chất, năng lực lãnh đạo Hội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đại hội là sự kiện chính trị quan trọng trong đời sống chính trị - xã hội của cựu chiến binh, cựu quân nhân và nhân dân cả nước, qua đó tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp to lớn của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Phát biểu tại đại hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, sau khi hoàn thành nhiệm vụ trong các lực lượng vũ trang, hàng triệu cán bộ, chiến sĩ đã ra quân, trở về với quê hương hoặc chuyển ngành sang công tác ở các cơ quan trên mọi lĩnh vực. Cựu chiến binh là những người đã trải qua chiến đấu, rèn luyện và trưởng thành qua khói lửa của các cuộc kháng chiến, đã có những cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày nay đang là một bộ phận rất quan trọng của xã hội. Biểu dương những kết quả công tác và thành tích mà Hội Cựu chiến binh Việt Nam đạt được trong thời gian qua là rất đáng trân trọng, góp phần để "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Đảng và Nhà nước đánh giá cao hoạt động và những đóng góp của Hội Cựu chiến binh Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các đồng chí xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của cấp ủy, chính quyền và Nhân dân.
Nêu rõ, những năm tới, dự báo tình hình thế giới tiếp tục còn có những diễn biến phức tạp, khó lường, trong nước, chúng ta cũng gặp phải không ít những khó khăn, thách thức, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, đối với Hội Cựu chiến binh, Đại hội XIII của Đảng cũng đã chỉ rõ nhiệm vụ: "Động viên cựu chiến binh phát huy bản chất, truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" trong xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; giúp nhau làm kinh tế, cải thiện đời sống. Tăng cường vai trò của hội viên trong việc giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh".
Trên tinh thần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị: "Để phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ở các cấp cần làm tốt hơn nữa vai trò là nòng cốt chính trị, có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức tốt cuộc sống của cộng đồng dân cư, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng sự đồng thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của đất nước trong giai đoạn mới. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ phải là ba chân kiềng vững chắc của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước ta, Tổ quốc ta."
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, Hội Cựu chiến binh các cấp kiên quyết bảo vệ các thành quả của cách mạng, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", "phi chính trị hóa quân đội" của các thế lực thù địch; là lực lượng chính trị tích cực, đi đầu tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giúp cho cán bộ, hội viên nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gương mẫu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thường xuyên tập hợp, phản ánh với các cấp ủy, chính quyền ý kiến của cựu chiến binh, của Nhân dân về những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh.
"Hội cựu chiến binh các cấp cần khai thác tối đa mọi nguồn lực và chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với cựu chiến binh; phối hợp lồng ghép các chương trình, các cuộc vận động trong cựu chiến binh một cách có hiệu quả; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào "Cựu chiến binh giúp nhau giảm nghèo, làm kinh tế giỏi. Chú ý quan tâm hơn nữa đến các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa, căn cứ địa cách mạng; cổ vũ, động viên các đơn vị, cá nhân cựu chiến binh tích cực tham gia sản xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu hợp pháp; coi trọng nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến; phát huy truyền thống "uống nước nhớ nguồn" làm cho công tác đền ơn đáp nghĩa, công tác từ thiện, giúp đỡ đồng bào, đồng chí khó khăn trở thành một phong trào sâu rộng, một nét đẹp "Bộ đội Cụ Hồ" của cựu chiến binh Việt Nam" - Tổng Bí thư đề nghị.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu chăm lo xây dựng Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đổi mới mạnh mẽ phương thức và nội dung hoạt động để Hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm phù hợp với đối tượng, hướng mạnh về cơ sở, coi trọng chất lượng, hiệu quả; tránh phô trương, hình thức và tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước./.
Báo VOV

KIÊN ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG, GÓP PHẦN BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG


Thực tế của Đảng Cộng sản Liên Xô đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ Liên Xô là do đã từ bỏ các nguyên tắc xây dựng Đảng dẫn đến sự tan rã của Đảng.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, trong các kỳ đại hội Đảng gần đây, vấn đề kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng là quá trình phát triển nhận thức lý luận của Đảng trên cơ sở tổng kết thực tiễn của 36 năm đổi mới theo hướng mở rộng và bao quát hơn những nội dung cần phải kiên định. Kiên định nguyên tắc là cơ sở để chúng ta phân biệt đối tượng, đối tác trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta lần đầu tiên khẳng định: Kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi những lý do sau đây:
Thứ nhất, về lý luận, nguyên tắc là vấn đề có tính sống còn đối với một tổ chức. Tuân thủ các nguyên tắc thì tổ chức đó vững mạnh, từ bỏ hoặc thực hiện không nghiêm túc các nguyên tắc thì sẽ dẫn đến tổ chức rệu rã và có nguy cơ tan rã.
Trải qua hơn 90 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên tắc cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Tổng kết công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ cách mạng khác nhau, tuy cách diễn đạt về các nguyên tắc xây dựng Đảng có khác nhau một vài điểm nhưng nhìn chung, Đảng ta vẫn luôn khẳng định những nguyên tắc trên cơ sở vận dụng và tuân thủ các nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta phát triển nguyên tắc về nền tảng tư tưởng: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”.
Đây là lần đầu tiên Đảng ta xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Đồng thời, cũng tại đại hội lần này, Đảng ta bổ sung thêm nguyên tắc: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Tuân thủ nghiêm ngặt những nguyên tắc chủ yếu nói trên trong quá trình xây dựng Đảng là một trong những yếu tố có tính quyết định bảo đảm cho Đảng ta giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; là cơ sở khoa học để Đảng ta không ngừng chăm lo xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng luôn xứng đáng vai trò người lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở những nguyên lý về xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân do Lênin nêu ra và thực tiễn hoạt động của Đảng ta, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua (các nhiệm kỳ XII và XIII thống nhất giữ nguyên Điều lệ) quy định về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động như sau: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định thực hiện nghiêm 5 nguyên tắc này và đó cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của Đảng ta trong thời gian qua.
Thứ hai, quan điểm chỉ đạo là kiên định nhưng không phải là cứng nhắc, giáo điều và cũng không phải là đổi mới vô nguyên tắc.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”.
Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần thấm nhuần quan điểm chỉ đạo: Kiên định và đổi mới, kế thừa và phát triển, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Kiên trì, kiên định nhưng không trở thành giáo điều, cứng nhắc; đổi mới, kế thừa và phát triển nhưng trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc chứ không phải là vô nguyên tắc, dân chủ quá đà, lẫn lộn giữa đối tượng, đối tác.
Thứ ba, về thực tiễn, trong nghiên cứu, học tập, quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng thì chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục nên khi thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng rất cần phải kiên định tuân thủ các nguyên tắc. Nếu ai không tuân thủ sẽ phải chịu trách nhiệm bằng các hình thức kỷ luật của Đảng.
Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc và đổi mới phương thức lãnh đạo, văn kiện Đại hội XIII chỉ ra những ưu điểm sau: “Công tác xây dựng Đảng về chính trị được đặc biệt chú trọng. Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối đổi mới và các nguyên tắc xây dựng Đảng”. “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội”.
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng nêu rõ ưu điểm: “Đảng ta luôn vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc về xây dựng Đảng”.
Về hạn chế, khuyết điểm trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng nói chung, các nguyên tắc xây dựng Đảng nói riêng vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm như Văn kiện Đại hội XIII chỉ ra: “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục”.
Đánh giá việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, Văn kiện Đại hội XIII nêu: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”. “Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là của người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”.
Một số cấp ủy, tổ chức đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài. Đây là điều rất đáng trăn trở vì trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cấp ủy các cấp đã kiểm tra 264.091 tổ chức đảng và 1.124.146 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 15.920 tổ chức đảng và 47.701 đảng viên (trong đó có 23.432 cấp ủy viên). Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý). Các cấp ủy đã giám sát 193.993 tổ chức đảng và 528.652 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã giám sát 124.469 tổ chức đảng và 185.731 đảng viên.
Điều cần lưu ý là rất nhiều vi phạm xảy ra từ nhiệm kỳ trước nhưng đến nay mới bị phát hiện và xử lý. Như vậy trước đó, việc tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa thật sự được coi trọng, thậm chí bị buông lỏng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là các nguyên tắc xây dựng Đảng chưa được coi trọng và thực hiện nghiêm túc. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới; việc quán triệt các nghị quyết của Đảng ở một số nơi chưa kịp thời, sâu sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, sâu sát, thiếu quyết liệt; chưa coi trọng việc tự kiểm tra, xử lý vi phạm. Một số nơi, người đứng đầu chưa phát huy hết trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, chưa gương mẫu, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp. Sự phối hợp giữa một số cấp ủy với đảng đoàn, ban cán sự đảng có lúc, có nơi thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. Việc phân định trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với cấp ủy và tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa rõ; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể. Việc xây dựng, phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu về công tác xây dựng Đảng có lúc, có nơi chưa được quan tâm đúng mức; một bộ phận cán bộ tham mưu chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trong thời gian tới, để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” cần thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Thứ nhất, kiên định những nguyên tắc xây dựng Đảng gắn với thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25-10-2018 của Bộ Chính trị. Tăng cường tuyên truyền trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về nội dung các nguyên tắc xây dựng Đảng để từ nhận thức sẽ có hành động đúng và tạo sự lan tỏa theo phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”.
Thứ hai, tập trung xây dựng, thông tin chủ động, chính xác, kịp thời, toàn diện, đúng đối tượng về các hoạt động, sự kiện chính trị, xã hội của đất nước. Nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên trang, chuyên mục, fanpage, blog, tài khoản mạng xã hội (Zalo, Facebook...) về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Thứ ba, thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tư tưởng, kịp thời định hướng dư luận xã hội; thực hiện tốt quy chế phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời cho báo chí; công khai kết quả kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trên các phương tiện truyền thông; xử lý nghiêm những thông tin phản ánh không đầy đủ, phiến diện, tiêu cực một chiều trên báo chí, mạng xã hội.
Thứ tư, quán triệt, thực hiện nghiêm Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 6-7-2022 về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong khai thác, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên tuyên truyền đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và các tầng lớp nhân dân nêu cao tinh thần cảnh giác, không tham gia bình luận tiêu cực hoặc chia sẻ những thông tin xấu độc trên không gian mạng.
PGS, TS LÊ VĂN CƯỜNG, Phó viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

CHÚNG TA ĐI CON ĐƯỜNG CỦA MÌNH MỘT CÁCH ĐỘC LẬP VÀ SÁNG TẠO

 

Chúng ta đi con đường của mình một cách độc lập và sáng tạo bằng những phương pháp và những biện pháp riêng của mình trên đường lớn nhân loại.
Khép lại năm 2022 – năm “bản lề” của Đại hội XIII của Đảng, có thể khẳng định rằng, với sự đoàn kết và nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục đổi mới, chủ động vượt qua những thách thức to lớn, có mặt gay gắt, hiểm nghèo, trong cuộc tái thiết đất nước, sau Đại dịch Covid-19, chúng ta tiếp tục gặt hái những thành tựu quan trọng, có tính chất toàn diện và với tốc độ tăng trưởng rất đáng nâng niu.
Thế và lực của Việt Nam không ngừng được tăng cường, vị thế và uy tín của Đất nước trong khu vực và trên trường quốc tế không ngừng được khẳng định và tôn vinh.
Các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội đều đạt và vượt mức kế hoạch: Tốc độ tăng trưởng đạt mức cao trong một thập kỷ qua (hơn 8,0%); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, những cân đối lớn, quan trọng được bảo đảm và giữ thế ổn định trên bình diện vĩ mô... Sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hoá và xã hội đều tiến những bước quan trọng.
Theo quy mô, tốc độ và chiều sâu của công cuộc đổi mới, chúng ta chủ động và tích cực đổi mới, sắp xếp và kiện toàn bộ máy lãnh đạo, quản lý; tiếp tục đổi mới công tác hành chính và tư pháp; tăng cường mạnh mẽ hơn trong cuộc đấu tranh phòng, chống th.am nh.ũng, lãng phí, t.iêu cực và thực hành tiết kiệm; không ngừng giữ vững thế trận an ninh quốc phòng; chủ động đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng toàn diện, sâu sắc và hiệu quả.
Đó là thành quả của đổi mới, của tinh thần Đại đoàn kết toàn Dân tộc, của sự ủng hộ và hợp tác quốc tế… Tất cả dồn tụ, kết tinh thành sức mạnh, uy tín, địa vị của Đất nước!
Hiện nay, thời kỳ cạnh tranh và phát triển mới của thế giới, với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong không gian phẳng và tốc độ toàn cầu hóa, đã và đang mở ra những cơ hội phát triển mới mẻ chưa từng có, với quy mô, tốc độ đột phá nhưng cũng đặt ra những thách thức t.ụt hậu nan giải đối với tất cả các quốc gia, dân tộc, trên quy mô toàn cầu trong một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh mới, gay gắt của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Chúng ta phải tiếp tục đổi mới không chỉ tầm nhìn, quyết sách mà còn chỉnh đốn, sửa sang về nền móng căn bản, kế sách lâu dài, cơ chế chiến lược phát triển phù hợp với Đất nước và thời đại: Đổi mới tầm nhìn chiến lược, trỗi dậy toàn diện, đồng bộ sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại xây dựng nền tảng cho một xã hội phồn vinh và bền vững, với khát vọng Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường và nhân văn, giữ vị thế xứng đáng trong cộng đồng quốc tế.
Việt Nam càng phải độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do và hùng cường.
Đó là con đường phát triển duy nhất đúng, nếu muốn bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Càng không thể chờ đợi, cầu toàn theo kiểu “dàn hàng ngang” hoặc thái độ do dự, ngập ngừng và càng không thể chấp nhận hành động nửa vời, chắp vá. Lúc này, đất nước chỉ có hoặc tụt hậu hoặc phát triển; trong thế giới hiện nay, không thể đứng im, cũng bởi hơn hết bao giờ, đứng im, dù ở bất cứ phương diện nào, cũng chính là tụt hậu, trong thế giới biến động khôn lường ngày nay.
Nếu không định vị chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì Đất nước nhất định sẽ càng khó tìm được chỗ đứng xứng đáng trên trường quốc tế, và càng khó có cơ hội góp phần mình cùng nhân loại xây dựng thế giới. Phải kiến tạo các trung tâm phát triển kinh tế xã hội quốc gia, các chuỗi giá trị quốc gia một cách độc đáo “Make in Vietnam” phù hợp với giá trị chung toàn cầu. Đó là gương mặt, là vận mệnh và là danh dự của dân tộc!
Thể chế! Thể chế! Và, thể chế phải là mệnh lệnh Đổi mới, sáng tạo; là khâu đột phá ngang tầm để giải phóng nội lực và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng theo phương hướng đó.
Khi thế giới càng toàn cầu hóa thì vấn đề dân tộc đối với mỗi quốc gia càng nổi lên như một mệnh đề quan trọng và thiết yếu. Do đó, xử lý vấn đề dân tộc vì sự phát triển toàn cầu và chủ động tiên lượng nắm lấy tổng thể sự vận động toàn cầu để giải quyết cụ thể, thiết thực những công việc của Dân tộc phải và đang trở thành mệnh lệnh hành động song trùng một cách tự nhiên và tất yếu. Không có chiến lược phát triển nào khác hơn là, trên đường văn hóa, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ của Đảng, phải trở thành động lực căn bản và to lớn trong tiến trình phát triển đất nước hiện nay và tương lai. Đó là đích đến của kinh tế hay chính trị, của ngoại giao hay quốc phòng, của kinh tế với môi trường… thấm đẫm chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Chúng ta đi con đường của mình một cách độc lập và sáng tạo bằng những phương pháp và những biện pháp riêng của mình trên đường lớn nhân loại. Coi nhẹ văn hóa trong phát triển chúng ta sẽ trả giá bằng nhiều thế hệ. Buông lơi, hạ thấp văn hóa, chúng ta sẽ “đánh mất mình”, là cầm chắc sự thất bại từ nền móng và từ bản sắc và ưu thế. Rốt cục, sẽ không có bất cứ những gì bền vững cả!
Vì thế, trong tầm nhìn tới năm 2045, trước mắt năm 2030, với công cuộc đổi mới sáng tạo, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp, hiện đại phát triển, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, với bản lĩnh Việt Nam; nơi hội tụ của niềm tin, tri thức và tấm lòng rất mực thủy chung, nhân ái, chan hòa với bạn bè quốc tế; thành viên của thế giới nhân văn, hòa bình và tiến bộ trong chỉnh thể hoàn cầu.
Đó là sự lựa chọn mang tầm chiến lược, là lòng tin chính trị mang tầm quốc tế của Đất nước trong thế giới hiện nay.
Công cuộc đổi mới trong tầm nhìn năm 2045 đang thách thức, nếu không dũng cảm đổi mới sáng tạo, không phát huy tinh thần Đại đoàn kết, không nâng niu, phát triển Con người, vì Hạnh phúc của Nhân dân, nhất định không có sự đột phá giải phóng mọi tiềm năng và thực lực phát triển nào như mong muốn, càng rất khó có sự bứt tốc thành công nào như khát vọng. Theo đó, mọi sự cải cách, canh tân hay bất cứ một sự khát vọng phát triển nhảy vọt, bứt phá nào, dù tốt đẹp và chính đáng đến mấy, rốt cuộc cũng chỉ là ảo tưởng mà thôi, nếu không Đại đoàn kết, không trọng dụng Nhân tài. Đó phẩm giá của Dân tộc ta!
Với tư cách là người lãnh đạo, cầm quyền, Đảng phải là tấm gương mẫu mực về tinh thần đoàn kết từ trong nội bộ, xứng đáng là hạt nhân Đại đoàn kết trong hệ thống chính trị, cố kết toàn Dân tộc và đoàn kết quốc tế. Không phòng, chống thành công th.am nh.ũng, l.ãng phí, t.iêu cực nhất định Việt Nam bị b.ạc nhược, sinh khí Dân tộc bị tổn hao và dứt khoát Đất nước không có bất cứ sự phát triển như mong muốn.
Vững chãi bước vào năm 2023, với thế chủ động, trên nền móng những thành tựu quan trọng của năm 2022, với gia tốc phát triển mới của Đất nước sau hơn 36 năm đổi mới, Đất nước chủ động nắm bắt những cơ hội, hóa giải những thách thức, đoàn kết thống nhất, chuyển thời cơ và tiềm năng thành hiện thực to lớn hơn, với chất lượng cao hơn và phát triển mạnh mẽ, nhân văn và bền vững hơn.
Từ tầm nhìn năm 2045, chào năm mới 2023, với niềm tin tưởng sắt đá tiếp tục thành công, với hệ thống giải pháp khả thi đã hoạch định, toàn Dân tộc đồng lòng, cả nước gắng sức, dưới ngọn cờ của Đảng, nhất định thành công, vì danh dự và uy tín Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, công bằng, văn minh và hùng cường./.
Báo VOV

10 DẤU ẤN TIÊU BIỂU CỦA VIỆT NAM NĂM 2022 DO BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN BÌNH CHỌN


Năm 2022, thế giới có nhiều biến động khó lường, tuy nhiên, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, người dân và doanh nghiệp, Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thách thức để đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Sau đây là 10 dấu ấn tiêu biểu của Việt Nam năm 2022 do Báo Quân đội nhân dân bình chọn, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
1. Khống chế thành công dịch Covid-19
Với chính sách phòng, chống dịch đúng đắn, hiệu quả; sự quyết liệt, sát sao của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị; nỗ lực cống hiến, hy sinh của đội ngũ nhân viên y tế, Quân đội, Công an và sự đồng lòng của người dân, năm 2022, sau hơn hai năm ứng phó với đại dịch Covid-19, Việt Nam đã khống chế thành công đại dịch. Đây là điều kiện quan trọng để nước ta mở cửa trở lại nền kinh tế và các hoạt động xã hội trong trạng thái bình thường mới.
2. Trong bối cảnh kinh tế thế giới ảm đạm, GDP Việt Nam tăng cao nhất trong giai đoạn 2011-2022
Với các giải pháp phục hồi nền kinh tế sau dịch Covid-19, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 ước đạt 8,02%, mức cao nhất giai đoạn 2011-2022. Kinh tế Việt Nam cũng ghi nhận những điểm sáng như: Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm chỉ tăng 3,15% so với năm 2021 (vượt mục tiêu đề ra); năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm trước... Cán cân thương mại hàng hóa năm 2022 ước tính xuất siêu 11,2 tỷ USD; GDP bình quân đầu người năm 2022 theo giá hiện hành ước đạt 95,6 triệu đồng/người, tương đương 4.110USD, tăng 393USD so với năm 2021. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại Việt Nam năm 2022 ước đạt gần 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Đây là số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện cao nhất trong 5 năm qua. Kết quả đạt được nêu trên của Việt Nam được đánh giá cao trong bối cảnh kinh tế thế giới nhìn chung đang rất ảm đạm.
3. Một năm thành công của đối ngoại Việt Nam
Năm 2022 có nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là lãnh đạo cấp cao nước ngoài đầu tiên tới thăm Trung Quốc sau Đại hội lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc theo lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm cấp nhà nước tới Singapore, Hàn Quốc, Indonesia; thăm chính thức Vương quốc Thái Lan và dự Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 29... Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ, Hội nghị cấp cao ASEAN; thăm chính thức Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và tham dự Hội nghị cấp cao kỷ niệm 45 năm ASEAN-EU... Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ thăm chính thức Hungary, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Lào, Campuchia, Philippines, Australia, New Zealand; tham dự Đại hội đồng Liên Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 43 (AIPA-43)... Các vị lãnh đạo cấp cao các nước, các tổ chức quốc tế cũng nhộn nhịp tới thăm Việt Nam. Tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam được bầu làm Phó chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 77 đại diện khu vực châu Á-Thái Bình Dương; trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Điều đó một lần nữa cho thấy quyết tâm của Việt Nam và sự ủng hộ của quốc tế với Việt Nam trong việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng làm bạn, đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
4. Kỳ họp bất thường đầu tiên trong lịch sử 76 năm Quốc hội Việt Nam
Kỳ họp bất thường lần thứ nhất Quốc hội khóa XV diễn ra từ ngày 4-1 đến 11-1-2022 trở thành kỳ họp bất thường đầu tiên trong lịch sử 76 năm của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục tiêu quan trọng nhất của kỳ họp là kịp thời ban hành gói chính sách tài khóa trị giá khoảng 347.000 tỷ đồng nhằm hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời thông qua những quyết sách cực kỳ quan trọng cho việc phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Nhờ tinh thần làm việc “từ sớm, từ xa”, những quyết sách được quyết định đúng thời điểm, trúng lĩnh vực, góp phần cực kỳ quan trọng để nước ta chớp thời cơ, đạt được những thành tựu nổi bật.
5. Đảng có nhiều quyết sách quan trọng trong định hướng phát triển đất nước
Năm 2022, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII của Đảng đã có các nghị quyết quan trọng về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao; về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới; về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới. Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII của Đảng có các nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới; tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kết luận về định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Bên cạnh đó, năm 2022, lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành 6 nghị quyết về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của 6 vùng kinh tế-xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là những quyết sách lớn, rất quan trọng định hướng cho sự phát triển của đất nước.
6. Xét xử kịp thời, nghiêm minh các vụ đại án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng
Trong năm 2022, cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được triển khai quyết liệt. Nhiều vụ đại án tham nhũng, đại án kinh tế đã bị phanh phui, đã hoặc đang trong quá trình tố tụng để xử lý nghiêm minh trước pháp luật, như: Vụ án Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á nâng khống giá kit xét nghiệm Covid-19; vụ án đưa-nhận hối lộ liên quan “chuyến bay giải cứu”; các vụ án thao túng thị trường chứng khoán liên quan tới cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn FLC Trịnh Văn Quyết, Công ty Cổ phần chứng khoán Trí Việt, Công ty Cổ phần Louis Holdings; vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Tập đoàn Tân Hoàng Minh; vụ án "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" xảy ra tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát liên quan tới bà Trương Mỹ Lan; vụ án "Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, nhận hối lộ..." xảy ra tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đồng Nai, Công ty Cổ phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC) liên quan đến bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn...
Tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 18-11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, việc đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
7. Việt Nam tổ chức thành công SEA Games 31
Đại hội Thể thao Đông Nam Á lần thứ 31 (SEA Games 31) đã diễn ra thành công rực rỡ. Công tác tổ chức của đại hội đã để lại những ấn tượng đẹp với đoàn thể thao các nước trong khu vực. Với 205 huy chương vàng (HCV), đoàn thể thao nước chủ nhà Việt Nam đã chính thức thiết lập kỷ lục mới về số HCV tại một kỳ SEA Games; trong đó bảo vệ thành công 2 huy chương vàng môn bóng đá nam và môn bóng đá nữ.
SEA Games 31 thành công trọn vẹn là kết quả của sự quyết tâm, trách nhiệm, nỗ lực của Chính phủ trong việc tổ chức một kỳ đại hội thể thao tầm cỡ khi đại dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, khó lường tại khu vực cũng như trên thế giới. Sự kiện này ngoài khẳng định vị thế của thể thao Việt Nam tại đấu trường thể thao khu vực, còn là dịp quảng bá hình ảnh của đất nước, con người, truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao vị thế Việt Nam, góp phần thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là góp phần tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị với các quốc gia Đông Nam Á.
8. Tổ chức thành công Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022
Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 tại khu vực sân bay Gia Lâm (Hà Nội) là sự kiện lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam. Sự kiện thu hút sự tham gia của 174 doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng từ 31 quốc gia và vùng lãnh thổ. Triển lãm đã đón hơn 60.000 lượt người dân, gần 10.000 lượt cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tới tham quan; 52 đoàn khách nước ngoài từ 28 nước tham dự triển lãm và nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao. Triển lãm nhằm tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, đối ngoại về quốc phòng; quảng bá, tuyên truyền năng lực, tiềm lực công nghệ, vũ khí, trang bị do công nghiệp quốc phòng Việt Nam sản xuất; đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế về công nghiệp quốc phòng, đa dạng hóa các kênh hợp tác mua sắm, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ để sản xuất trang bị kỹ thuật, trang bị hậu cần đáp ứng yêu cầu của lực lượng vũ trang; tìm hiểu xu hướng phát triển của vũ khí, trang bị kỹ thuật trên thế giới...
9. Thị trường xăng dầu có nhiều biến động
Năm 2022 là một năm đặc biệt khó khăn đối với thị trường xăng dầu trong nước, giá cả tăng cao theo giá xăng dầu thế giới, nguồn cung hạn chế, một số thời điểm đã xảy ra tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ ở một số địa phương. Trước tình hình đó, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các thương nhân sản xuất xăng dầu và thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu tăng lượng nhập khẩu, tăng công suất sản xuất. Bộ Tài chính thực hiện điều chỉnh các chi phí trong giá cơ sở xăng dầu để phù hợp với thực tế phát sinh tại doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính tạo điều kiện về tín dụng và thủ tục hải quan cho các doanh nghiệp thực hiện nhập khẩu xăng dầu... Đến nay, nguồn cung xăng dầu trong nước cơ bản được bảo đảm, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất, tiêu dùng trong nước, không xảy ra tình trạng thiếu xăng dầu cục bộ.
10. Lần đầu tiên, Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam vào vòng chung kết World Cup
Năm 2022 ghi dấu ấn thành công vang dội của bóng đá Việt Nam trên đấu trường khu vực và thế giới. Đặc biệt, với tinh thần thi đấu quả cảm, kỹ thuật tốt, chiến thuật hợp lý, lần đầu tiên Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam tiến vào vòng chung kết World Cup 2023. Đây là dấu ấn lịch sử của Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam nói riêng và của bóng đá Việt Nam nói chung.