Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2023

Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Nghiên cứu những mặt trái của mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Không ai có thể phủ nhận sự ra đời của MXH đã đem lại nhiều tiện ích trong đời sống vật chất và tinh thần cho mọi giai tầng trong xã hội. Bởi MXH là một ứng dụng giúp kết nối, liên kết người dùng ở bất cứ đâu, là bất kỳ ai thông qua dịch vụ Internet, giúp họ có thể chia sẻ những sở thích và trao đổi những thông tin cần thiết với nhau, không phân biệt giới tính, độ tuổi, vùng miền, quốc gia dân tộc… Các dịch vụ, ứng dụng của MXH còn cho phép người dùng chia sẻ thông tin qua tin nhắn, gọi điện trực tuyến (miễn phí). Có thể nói, MXH là một trong những sản phẩm khoa học trí tuệ của con người trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin.

Hiện nay, có rất nhiều loại hình MXH khác nhau. Tại Việt Nam, các MXH bắt đầu du nhập từ những năm 2000 dưới hình thức các trang nhật ký điện tử (blog). Đến nay, có khoảng 270 MXH được cấp giấy phép hoạt động với khoảng 35 triệu người dùng, chiếm 37% dân số. Trung bình mỗi ngày người Việt Nam vào MXH hơn 2 giờ. Đối tượng sử dụng mạng Internet thường xuyên nhất là nhóm lứa tuổi từ 15 - 40 tuổi. Nhóm đối tượng này chủ yếu là học sinh, sinh viên và người lao động. Ở Việt Nam, có thể kể đến một số MXH được người dùng sử dụng nhiều nhất như Facebook, Youtube, Zalo, Twitter, Instagram… Kết quả của một cuộc khảo sát gần đây của công ty Asia Plus với hơn 600 người trong độ tuổi 18-39 đã cho thấy Facebook và Zalo là hai mạng xã hội đứng đầu về tỷ lệ người dùng ở nước ta hiện nay. Kế tiếp là các MXH khác như Instagram, Twitter và LINE.

Dù có những tiện ích, tuy nhiên, mặt trái của MXH trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng hiện nay là những điều đáng báo động. MXH là nơi để mọi người có thể “sống ảo” nhưng dần dần “tưởng thật”, là mảnh đất màu mỡ để các tội phạm công nghệ cao có thể sống “cộng sinh”,  đây là nơi để những kẻ bất chính có thể trục lợi về kinh tế và đây cũng là nơi để các thế lực thù địch thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình... Hậu quả mặt trái của MXH để lại nhiều hệ lụy phức tạp cả về vật chất và tinh thần, thậm chí phải trả giá bằng cả tính mạng con người, tương lai của cả thế hệ và sự ổn định chính trị - xã hội của cả một quốc gia, dân tộc. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hậu quả trên trong đó phải kể đến việc mất an ninh mạng, mất kiểm soát trong sử dụng của cộng đồng mạng, thiếu bản lĩnh, thiếu lập trường chính trị khi bị dẫn dụ bởi các trang “mạng đen”… Có thể đơn cử một vài vụ việc điển hình đã diễn ra trong thời gian gần đây: “website cảng hàng không bị tin tặc tấn công ảnh hưởng tới hoạt động điều hành bay và đe dọa an toàn bay; tài khoản ngân hàng của khách hàng bị đột nhập và rút hết tiền; sử dụng MXH để đăng, phát thông tin sai trái, bịa đặt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tổ chức...”. Trước thực trạng đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên Internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”.

Lợi dụng vụ án để công kích Đảng, Nhà nước

Từ việc bịa chuyện mâu thuẫn trong làm ăn, lao động sản xuất giữa người Kinh với người Thượng, bài viết vu cáo “chính quyền không bao giờ cho người dân tự do bày tỏ niềm tin tôn giáo mà họ lựa chọn”; “người Thượng cũng đem những bức xúc của mình đi khiếu nại với chính quyền nhưng không những không được giải quyết mà còn bị bắt bớ, đánh đập”. Từ đó, bài viết đánh tráo bản chất, bôi nhọ thành “chính quyền cộng sản Việt Nam gần như không quan tâm gì đến đồng bào Tây Nguyên”; biện hộ cho hành vi của những kẻ khủng bố rằng “khi bị đẩy vào bước đường cùng thì người dân không còn cách nào khác là sẵn sàng đối diện với cái chết để làm liều”; “khi họ không còn con đường để sống thì họ phải chấp nhận cái chết”…

Thậm chí, VOA còn dẫn lời Y Phic nói rằng, hơn 70 trường hợp bị bắt giữ trong vụ khủng bố ở Đắk Lắk thì “đa số là người vô tội”, vu cáo “chính quyền nghi ai, ghét ai thì họ đều bắt hết”! Đài VOA dẫn lời Nguyễn Đình Thắng, đối tượng cầm đầu Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) - một tổ chức phản động lưu vong có trụ sở ở bang Virginia (Mỹ) đứng sau vụ tấn công ở Đắk Lắk, xuyên tạc chính quyền buộc người Thượng ở Tây Nguyên phải bỏ đạo, người thiểu số không quy thuận người Kinh...

Theo dõi những bài viết nói trên cho thấy, thủ đoạn của các đối tượng là thông qua ngôn ngữ kể chuyện của những nhân vật tự xưng “người Thượng ở Tây Nguyên” để đánh vào tâm lý người đọc, người nghe, người xem rằng đây là chuyện thật do người trong cuộc kể ra. Sự thực, người mà những đài báo này dẫn lời, nếu là “người Thượng ở Tây Nguyên” thì đó là những cái tên không rõ địa chỉ, con người cụ thể mà chỉ mang tính hư cấu.

Còn với “người Thượng ở hải ngoại” thì các bài viết dẫn ra tên người thật, thậm chí cả ảnh thật nhưng là lời của những kẻ chống đối, tham gia các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, như hai trường hợp của tổ chức “người Thượng vì công lý” kể trên. Lời của những đối tượng luôn rắp tâm chống phá đất nước thì lấy gì để nói khách quan ở đây khi cứ hễ nói đến đất nước thì luôn kèm theo những câu từ đầy tính kích động, hằn học kiểu như “chính quyền đàn áp”, “bỏ rơi người Thượng”, “bị trói, bịt miệng”, “đẩy vào đường cùng”, “cùng quẫn nên liều mạng”…

Nội dung trong các bài viết, lời nói dù bằng cách này hay cách khác thì số này đều nhắm vào xuyên tạc, bôi nhọ chính sách của Đảng, Nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, cho rằng đồng bào bị bỏ rơi, bị chèn ép, đẩy vào khốn cùng. Cùng với đó là xuyên tạc tình cảm, đời sống của đồng bào Tây Nguyên, đưa ra những nội dung sai trái để gây chia rẽ giữa người Kinh với người Thượng, giữa các đồng bào dân tộc thiểu số. Một số bài viết còn xuyên tạc việc chính quyền “lợi dụng vụ việc để đàn áp, truy bức người Thượng”, từ đó đưa ra cái nhìn sai lệch, nhất là gây hiểu lầm đối với dư luận ở nước ngoài, cố tình tạo ra những mâu thuẫn, bất ổn từ bên trong để kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam…


Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH ở Việt Nam hiện nay

Ngay từ khi thành thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Do đó, Cương lĩnh tháng 2/1930 đã chỉ rõ mục tiêu cách mạng Việt Nam “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để tới xã hội cộng sản”. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều này, cũng đã được khẳng định trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội Việt Nam qua các thời kỳ. Đến Hiến pháp năm 2013, trong Điều 4 cũng đã quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đây là sự thể hiện ý chí và nguyện vọng của dân tộc Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ngay từ đầu. Đồng thời, cũng khẳng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, đây lại điều mà các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, bôi nhọ hòng làm phai nhạt lý tưởng cách mạng của quần chúng nhân dân, kích động, gây mất niềm tin trong quần chúng nhân dân về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thông qua các trang MXH với nhiều hình thức khác nhau. Do đó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH ở Việt Nam hiện nay gắn với các nội dung chủ yếu sau:

Một là, bảo vệ các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử mà hạt nhân là học thuyết về hình thái kinh tế xã hội; học thuyết về giá trị thặng dư và học thuyết về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân. Tiếp tục khẳng định giá trị và ý nghĩa của những nguyên lý đó trong thời đại ngày nay.

Hai là, bảo vệ các quan điểm, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho quá trình cách mạng Việt Nam. Tiếp tục khẳng định giá trị và ý nghĩa của những quan điểm, tư tưởng đó trong thời đại ngày nay.

Ba là, bổ sung, phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay - thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Tiếp tục khẳng định, dù lịch sử có thay đổi nhưng xu thế tất yếu của thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Bốn là, bảo vệ cương lĩnh chính trị các quan điểm, đường lối, của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua tư bản chủ nghĩa; về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

Năm là, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Sáu là, bảo vệ những thành quả của cách mạng Việt Nam (cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa) do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam dày công xây đắp; đặc biệt là, bảo vệ những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước với quá trình “đẩy mạnh mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức”(6).

Bảy là, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ vùng trời, vùng biển và sự  toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực; bảo vệ mối quan hệ quốc tế trong sáng với tất cả các nước trên thế giới.

Tám là, phê phán, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, bóp méo, xuyên tạc của các thế lực thù địch; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

 

Thủ đoạn đánh trảo bản chất

Bằng những thủ đoạn đánh tráo bản chất dưới dạng hồi ức, kể lại, nhớ lại, tự bịa ra lời nói của những cá nhân không có thật, nhiều bài viết cố tình vẽ ra bức tranh với gam màu xám xịt ở Tây Nguyên rồi quy kết rằng “việc tấn công vào trụ sở Công an tại hai xã vừa qua rất có thể là phản ứng của sự phẫn nộ, phản kháng khi người sắc tộc bị dồn vào đường cùng”! Đây là thủ đoạn vu cáo hết sức nguy hiểm nhằm kích động chống phá từ bên trong và gây sự hiểu lầm, tạo sức ép từ bên ngoài.

Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài mang rõ tính kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta khi nói rằng, giải pháp cho các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo ở Tây Nguyên đều lặp lại điệp khúc cách đây hàng chục năm. Từ đó bôi nhọ: “Không chỉ nguội mà còn cuội. Cuội là vì trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đi ngược lại chính sách đại đoàn kết dân tộc và giờ đây lại còn đổ vấy trách nhiệm về biến cố xả súng ở huyện Cư Kuin”!

Trong một bài viết khác, đài này dùng những ngôn từ xảo trá để bóp méo bản chất vụ án khủng bố ở Đắk Lắk, “đánh lái” thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên, vu cáo người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên “không chịu được sự áp đảo hiện nay bởi sự thống trị của người Việt đến từ đồng bằng”. Với cách dẫn dắt sai trái này, bài viết nhắm vào chỉ trích Đảng, Nhà nước: “Chính quyền của Đảng Cộng sản bị cáo buộc đàn áp các nhóm sắc dân này, những người đã từng chiến đấu với họ trong các cuộc chiến tranh chống Pháp, Mỹ…”; “đồng bào thiểu số ở Tây Nguyên đã bị truất sở hữu đất đai của tổ tiên, nơi mà nhà nước áp dụng chính sách thuộc địa”!

Đài này cũng đưa nhiều phỏng vấn những đối tượng tự xưng là người dân tộc HMong, người Thượng tự nhận là “nạn nhân bị đàn áp tôn giáo” phải bỏ chạy lưu vong hoặc dẫn lời những trường hợp không rõ địa chỉ cụ thể để bôi nhọ tình hình thực tế tại Đắk Lắk. Những đối tượng này cho rằng vụ việc ở Đắk Lắk là “hành động phản kháng của người Tây Nguyên theo đạo Tin lành bị áp bức về đức tin”, là “mâu thuẫn sắc tộc” âm ỉ từ lâu; xuyên tạc bản chất vấn đề bằng chiêu bài “người Kinh áp bức người Thượng”, “người Kinh chiếm đất của người Thượng”…

Cũng với giọng điệu bịa đặt, đả kích, Đài VOA đưa nhiều bài viết đánh lừa người đọc dưới dạng người Thượng ở Tây Nguyên kể chuyện. Trong bài viết “Người Thượng tấn công chính quyền vì tức nước vỡ bờ”, bằng việc dẫn lời của hai trường hợp ở Hoa Kỳ có tên là Y Phíc và Aga - thành viên của tổ chức phản động “Người Thượng vì công lý”, bài viết trích dẫn những nội dung sai trái nhắm vào miệt thị chính quyền, quy cho nguyên nhân vụ khủng bố là “họ đã bị đẩy đuổi đến bước đường cùng”!

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 

Xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đại hội XIII của Đảng xác định, để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh thì phải tăng cường “Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong, gương mẫu, là hạt nhân đoàn kết”. Đặc biệt, để xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò tiên phong, gương mẫu của người lãnh đạo. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”, nên “chẳng những phải ra sức rèn luyện và tu dưỡng, trong lúc gian khổ khó khăn, trong lúc thất bại, mà còn và càng phải rèn luyện và tu dưỡng trong lúc thuận lợi, trong lúc thành công”. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để thực hiện mục tiêu đó là phải nâng cao nhận thức trên cơ sở khoa học về tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên, về tầm quan trọng, vị trí, vai trò và nội dung nêu gương của đảng viên trước nhân dân với tư cách là những thành viên của Đảng tiên phong - Đảng cầm quyền.

Thứ hai, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo. Tiếp tục nghiên cứu, chỉ đạo nghiêm túc việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, gắn với thực hiện Nghị quyết, Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII; các chỉ thị, quy định về nêu gương của Đảng, các quan điểm chỉ đạo và nội dung về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng. Các cấp ủy phối hợp với lãnh đạo cùng cấp tiếp tục chỉ đạo, lựa chọn các nhiệm vụ trọng tâm phù hợp với tình hình cụ thể, tập trung giải quyết và kiên quyết xử lý thỏa đáng những vấn đề nổi cộm, tồn đọng kéo dài gây bức xúc trong dư luận xã hội; đồng thời, xây dựng kế hoạch cụ thể để khắc phục những vấn đề đó; phải có thái độ kiên quyết theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng cần phải hết sức ngăn ngừa hiện tượng ấy, phải kịch liệt chống lại nó; phải tẩy những phần tử đã hủ hoá ra khỏi Đảng và cơ quan chính quyền, để giữ gìn tính trong sạch của Đảng và của chính quyền”. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, không nể nang những kẻ vi phạm theo phương châm “quan phạm tội, xử nặng hơn thứ dân”, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Mặt khác, cần đặt vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên là một nội dung xem xét trong công tác tổ chức và bố trí cán bộ; hoàn thiện thể chế, quy định chuẩn mực về phong cách nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý từng cấp, từng ngành, từng đơn vị,... làm cơ sở cho đánh giá, giám sát, quản lý cán bộ. Tiếp tục cụ thể hóa để có thể đo lường lề lối, phong cách của từng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở từng cấp, từng ngành, từng đơn vị một cách phù hợp, làm cơ sở cho việc đánh giá, phân loại và giám sát cán bộ hằng năm theo Quy định số 89-QĐ/TW, ngày 4-8-2017, của Bộ Chính trị, “Về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.

Thứ ba, hoàn thiện mô hình đào tạo, áp dụng tiến bộ khoa học - công nghệ hướng tới xây dựng phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại đối với người đứng đầu. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu qua hoạt động thực tiễn; đặc biệt là đào tạo thông qua luân chuyển, xử lý tình huống, qua thực hiện hành vi chuẩn mực trước nhân dân và trong công việc; qua tự rèn luyện phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, giải quyết các vấn đề lãnh đạo một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Theo đó, rèn luyện đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý theo hướng có tinh thần tận tụy, gương mẫu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh và có năng lực tìm tòi, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ được giao. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu phải gương mẫu, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập suốt đời, học hỏi đồng nghiệp, học từ thực tiễn công việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ tư, tăng cường công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chủ động tham gia giám sát việc thực hiện trách nhiệm nêu gương đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tham mưu, góp ý với Đảng về những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nhằm giúp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nâng cao và ngày càng hoàn thiện phẩm chất, năng lực, góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; bảo đảm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng “là đạo đức, là văn minh”.

Phát huy vai trò của nhân dân đối với công tác cán bộ, tham gia giám sát phong cách lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp; tăng cường vai trò của báo chí trong tổng kết, cổ vũ, nhân rộng các gương điển hình tiên tiến, phê phán phong cách quan liêu, hách dịch của một bộ phận cán bộ, đảng viên có hành vi ứng xử đi ngược lại lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, những khuyết điểm, sai lầm của cán bộ, đảng viên có thể không bị lãnh đạo, hoặc cơ quan kiểm tra phát hiện kịp thời, nhưng không thể che giấu được trước trăm nghìn “tai mắt” của nhân dân.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh bài học: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng”. Từ đó, Đảng ta xác định, việc học tập phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo, phù hợp với cương vị, nhiệm vụ, phẩm chất, trí tuệ, điều kiện của người lãnh đạo sẽ góp phần làm phong phú và đem lại hiệu quả thiết thực trong việc đổi mới phương thức, phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong điều kiện hiện nay./.

Những luận điệu xảo

Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án, Người Phát ngôn Bộ Công an cũng như các cơ quan chức năng đã có các thông tin chính thức với báo chí và tại một số hội nghị, diễn đàn có liên quan. Việc thông tin đảm bảo tính chính xác, kịp thời, giúp người dân trong nước và dư luận quốc tế nắm được thông tin, bản chất vụ án, ủng hộ cơ quan chức năng tích cực điều tra, làm rõ để xử lý trước pháp luật; đồng thời lên án các cá nhân, tổ chức đứng sau vụ án, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu gây bất ổn tại khu vực Tây Nguyên.

Ngày 23/6/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định khởi tố vụ án “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; che giấu tội phạm; không tố giác tội phạm và tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép”; ra các quyết định khởi tố bị can và lệnh tạm giam đối với 75 bị can.

Tuy nhiên, sau khi vụ án xảy ra, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng hải ngoại, trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép… Một số bài viết cố tình đánh tráo bản chất, hướng vụ án sang nguyên do khác nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên.

Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 23/6 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc của núi rừng trong lòng tôi” đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Bài viết cố tình hướng lái sai mục đích, ý nghĩa của vấn đề di dân, phát triển kinh tế ở Tây Nguyên, từ đó quy chụp “không gian của các sắc tộc bị tan vỡ”! Người viết đưa ra những câu từ vừa trái bản chất, vừa mang tính kích động như “Sau biến cố 30/4/1975, Tây Nguyên bước vào kỷ nguyên bị phá vỡ”.

Ngay như khái niệm “đồng bào” vốn là câu chữ thân thuộc, thiêng liêng với cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam thì bài viết cũng cố tình bẻ lệch ý nghĩa, cho rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”! Bằng thủ đoạn vờ “đặt vào miệng” của một người không rõ thực hư ở đâu, bài viết này vu cáo “Người Kinh đang đối xử với các sắc tộc Tây Nguyên hơn cả thực dân, bởi thực dân không muốn chiếm đoạt và đồng hoá như thế”; “có quá nhiều người sắc tộc ở Tây Nguyên nói họ không được phép thực hành niềm tin tôn giáo họ chọn”…


Nguyên tắc cơ bản của các dự thảo luật

“Lấy dân làm gốc” là nguyên tắc cơ bản, mục tiêu xuyên suốt của dự thảo luật và phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở. Theo cơ quan soạn thảo, việc xây dựng, tổ chức lại lực lượng tham gia bảo vệ ANTT không làm tăng biên chế, tăng ngân sách nhà nước. Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là cánh tay nối dài, sâu sát với nhân dân, hỗ trợ cấp ủy, chính quyền, hỗ trợ lực lượng nòng cốt là Công an chính quy trong việc đảm bảo ANTT tại cơ sở, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội, lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở đã phát huy tích cực thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ bảo đảm ANTT địa bàn dân cư, sát dân, hiểu, nắm được tâm tư nguyện vọng nhân dân, góp phần tham gia tổ chức, thực hiện phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Rõ ràng, với mục tiêu, ý nghĩa như trên, việc ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là thực sự cần thiết và đáp ứng yêu cầu thực tiễn khách quan, có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng, củng cố các lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân và phục vụ đắc lực nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, những quan điểm, luận điệu lệch lạc, sai trái, chống phá việc nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội ban hành dự luật cần phải được đấu tranh, ngăn chặn kịp thời.

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

 

Sự cần thiết của lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Nêu gương là việc thực hành để những giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, truyền cảm hứng; qua đó, dẫn dắt, thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Sự nêu gương của người đứng đầu tổ chức, cơ quan, đơn vị là mệnh lệnh không lời để thuyết phục cấp dưới noi theo. Sự yếu kém về nhân cách và phong cách lãnh đạo của người đứng đầu sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho hoạt động của cơ quan, đơn vị. Vì vậy, phát huy trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo trong các tổ chức của hệ thống chính trị có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Lãnh đạo bằng nêu gương là phương thức lãnh đạo khoa học, trí tuệ và nhân văn để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong mỏi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu”.

Phong cách Hồ Chí Minh dù là phong cách của vị lãnh tụ tối cao, nhưng cực kỳ gần gũi - “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”, mang đậm dấu ấn riêng. Cả cuộc đời Người là sự mẫu mực về phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo dân chủ, khoa học, có kiểm tra, kiểm soát cụ thể, thường xuyên; về tác phong luôn gần dân, tin dân, trọng dân; ứng xử tinh tế trong thực hành đoàn kết, dựa vào nhân dân để thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng; về tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.

Sau khi giành được chính quyền, với tư cách “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “các đồng chí bộ trưởng, thứ trưởng và cán bộ lãnh đạo phải luôn luôn gương mẫu về mọi mặt, phải nêu gương sáng về đạo đức cách mạng: cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn tác phong gian khổ phấn đấu, phải không ngừng nâng cao chí khí cách mạng”; theo đó, “Một đảng viên ở địa vị càng cao, thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ”, “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Hiện nay, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu giữ vai trò cực kỳ quan trọng, góp phần vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù của đạo đức cách mạng, chống những nguy cơ suy thoái của cán bộ, đảng viên, nguy cơ đánh mất vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Trong công cuộc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nêu gương trong tình hình mới, thì vấn đề thực hiện trách nhiệm nêu gương của người lãnh đạo luôn được Đảng ta chú trọng, ban hành các quy định cụ thể. Các quy định, kết luận này đã kịp thời đáp ứng yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tạo hiệu ứng tích cực. Bước đầu, việc thực hiện các quy định đã tạo chuyển biến tích cực, góp phần siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ hơn về trách nhiệm nêu gương; góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực. “Việc thực hiện trách nhiệm nêu gương và chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên có chuyển biến tích cực, nhất là vai trò tiền phong, gương mẫu của các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng chỉ rõ, “Việc tu dưỡng, rèn luyện, làm theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa thường xuyên; một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm các quy định của Đảng, vi phạm pháp luật”. “Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tiên phong, gương mẫu; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vẫn còn diễn biến phức tạp. Tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi còn hình thức. Thực hiện trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu chưa tạo được sự lan tỏa sâu rộng”. Trong bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, gắn với thực hiện trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiệu quả chưa cao”. Tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, cho thấy: Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.209 cán bộ, đảng viên có liên quan đến tham nhũng; trong đó có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và đã nghỉ hưu. Các cán bộ bị kỷ luật đều có hành vi vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, các quy định của Đảng, Nhà nước và công tác cán bộ; vi phạm trong ban hành chủ trương, nghị quyết về đầu tư, góp vốn, chỉ định thầu, cổ phần hóa; thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, giám sát; tham nhũng, “lợi ích nhóm”; vụ lợi, ưu ái vun vén cho gia đình, người thân; không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, sử dụng bằng cấp không đúng quy định.

 

Điều đáng lưu ý là, ở một số địa phương, người đứng đầu chưa nghiêm túc thực hiện công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo; không có chính kiến, quan điểm rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm; chưa tận tâm, tận lực, nhiệt huyết trong công việc; còn tình trạng mất đoàn kết nội bộ, nảy sinh mâu thuẫn cá nhân, ganh ghét, đố kỵ, so bì thiệt hơn,... Đặc biệt là, trong công cuộc phòng, chống dịch bệnh COVID-19, khi cả nước chung tay, gồng mình “chống dịch như chống giặc” thì vẫn còn một số cán bộ đứng đầu sở, ngành ở một số địa phương, bộ, ngành trung ương có hành vi xấu (không thực hiện nghiêm việc giãn cách xã hội, vi phạm trong đấu thầu mua trang, thiết bị y tế, kit xét nghiệm,...), bị kỷ luật, tạo dư luận tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm giảm uy tín tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị nơi sinh hoạt, công tác; gây hậu quả nghiêm trọng, thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Rõ ràng, sự lãnh đạo bằng nêu gương đang bị thách thức và cuộc đấu tranh chống sự “thiếu gương mẫu”, “nêu gương xấu” của một bộ phận cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, thử thách, đòi hỏi cần phải được giải quyết một cách quyết liệt, triệt để, rõ ràng, minh bạch. Vì vậy, cần phải tăng cường phong cách lãnh đạo bằng nêu gương của cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo, nhất là người đứng đầu trong các tổ chức của hệ thống chính trị; qua đó, góp phần củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Hiện nay, trước yêu cầu mới, việc noi gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa truyền thống quý báu của Đảng ta về nêu gương để lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân, nhất là trong công cuộc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh hiện nay. Việc xây dựng phong cách lãnh đạo bằng nêu gương theo tư tưởng của Người có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, góp phần truyền cảm hứng, tạo dựng niềm tin và động lực để đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu gương sáng trong phong cách, lề lối làm việc, trong ứng xử và phong cách sinh hoạt; từ đó, tạo ra sự lan tỏa và xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội để thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Cần nhận thức đầy đủ ý nghĩa, sự cần thiết ban hành các dự án luật

Trái ngược với những luận điệu xuyên tạc, phá hoại nói trên, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, đại biểu Quốc hội và người dân ở các tỉnh, thành phố qua quá trình nghiên cứu, thảo luận đã khẳng định, việc ban hành các dự án luật do Bộ Công an chủ trì soạn thảo nói trên là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan. Điều này xuất phát từ sự đa dạng, phức tạp của công tác bảo đảm ANTT, luôn có sự biến động, thay đổi, đòi hỏi các quy định pháp luật phải được bổ sung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Với những vấn đề mới khi đưa ra thảo luận, đóng góp ý kiến, có những ý kiến đồng tình hoặc chưa tán thành nội dụng, vấn đề nào đó là điều hết sức bình thường. Tuy nhiên, cần tỉnh táo trước những luận điệu lợi dụng việc góp ý để xuyên tạc nhằm tạo ra nhận thức lệch lạc, suy giảm niềm tin, kích động tâm lý, thái độ chống đối, phá hoại dự thảo luật, sâu xa hơn là chống phá chế độ, Đảng và Nhà nước.

Các dự án luật trên có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; tăng cường quản lý nhà nước và bảo đảm quyền lợi của công dân; nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng CAND. Tạo cơ sở vững chắc giúp lực lượng Công an chủ động trong công tác tham mưu với Đảng, Nhà nước các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trật tự, triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và xây dựng lực lượng CAND thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị.

Đối với dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động gây tâm lý hoài nghi, dao động, ảnh hưởng đến mục tiêu giữ vững sự ổn định và bảo đảm ANTT ngay từ cấp cơ sở. Do vậy, chúng ta cần nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn để có cách thức đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái.

Cần thấy rằng, việc xây dựng Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở là sự cụ thể hóa đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân, trong đó CAND là lực lượng nòng cốt, bảo vệ ANTT từ xa, từ sớm, từ cơ sở. Việc xây dựng dự thảo, lấy ý kiến các nhà khoa học, các cơ quan chức năng trước khi hoàn thiện để Chính phủ trình Quốc hội thảo luận, thông qua nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi thực tiễn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác đảm bảo ANTT tại địa bàn cơ sở. (Trích báo CAND)

Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

 Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ định hướng giai đoạn 2021 - 2030 là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”. Để thực hiện tốt định hướng đã đề ra; trên cơ sở vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, kiên định lập trường, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị tiến bộ về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền của nhân loại là một nhu cầu tất yếu và cấp thiết. Tuy nhiên, không được dập khuôn, máy móc, cần phù hợp với điều kiện của Việt Nam, góp phần khẳng định, phát triển và làm sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.

Hai là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 mặt: xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thực hiện pháp luật và kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm bảo đảm vừa phát huy dân chủ, vừa giữ vững kỷ cương, pháp luật để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là cơ sở, tiền đề của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Do đó, muốn tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, bảo đảm tất cả hoạt động của Nhà nước và các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có pháp luật làm cơ sở; pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và thống nhất. Cần gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Muốn vậy, nhất thiết phải tăng cường pháp chế trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là “đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”.

Ba là, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong thực tiễn, việc xác định vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ở nước ta hiện nay có mặt còn lúng túng, chưa rõ ràng, chặt chẽ; đồng thời “cơ chế kiểm soát quyền lực chưa được phát huy mạnh mẽ”. Do đó, cần tiếp tục phân định rõ ràng hơn, tránh chồng chéo, bỏ sót, để việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan quyền lực nhà nước ngày càng hiệu quả./.

Âm mưu phía sau những luận điệu xuyên tạc

Thực hiện kế hoạch của Chính phủ, Bộ Công an được giao chủ trì soạn thảo các dự án luật quan trọng gồm: Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự (ANTT) ở cơ sở; Luật Trật tự, an toàn giao thông đường bộ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật CAND; Luật Căn cước; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, với âm mưu chống phá, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và các tổ chức phản động lợi dụng quá trình Bộ Công an triển khai lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật nêu trên để đưa ra đủ luận điệu xuyên tạc, vu cáo. Các đối tượng cho rằng, Việt Nam muốn hạn chế các quyền tự do dân chủ rồi ban hành luật để trói buộc, gò ép người dân, thậm chí chúng còn lôi kéo, kích động người dân phản đối các dự luật khi đưa ra lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của nhân dân.

Lướt qua các mạng xã hội Facebook, Youtube… hay các phương tiện truyền thông nước ngoài như đài BBC tiếng Việt, RFA, VOA cho thấy những chiêu trò chống phá khi liên tiếp đăng tải, phát tán các bài viết có nội dung xuyên tạc các dự án luật. Chẳng hạn, khi nói về dự án Luật Lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, các đối tượng tung ra bài viết cho rằng, Nhà nước muốn tạo ra một mạng lưới chân rết quần chúng sát với từng người dân để nắm được từng chân tơ kẽ tóc, mọi hoạt động của dân, rồi hạch sách, nhũng nhiễu… gây nguy hại cho dân; nếu hình thành một lực lượng như thế thì gần như là lực lượng bán vũ trang, rồi chi phí dụng cụ hành nghề, thậm chí có thể là vũ khí nóng gây bất an cho dân... Từ đó hướng lái vấn đề “lực lượng này dù có hợp nhất hay không cũng sẽ không giữ được ANTT như mong muốn của nhà cầm quyền cộng sản khi soạn luật mà nó sẽ làm mất ANTT và xã hội sẽ trở nên hỗn loạn hơn”...

Ngay sau đó, nhiều trang mạng của các tổ chức phản động lưu vong liền đăng tải các bài viết nhằm bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và kích động người dân. Đây là những luận điệu xuyên tạc nhằm dẫn dắt, hướng lái dư luận, tạo ra nhận thức lệch lạc, thái độ phản đối, chống phá đối với dự án luật. Từ việc xuyên tạc nội dung trong dự án luật, các đối tượng hướng đến bôi nhọ hình ảnh lực lượng vũ trang, bôi nhọ chính sách quốc phòng, an ninh, đối ngoại, cho rằng cách làm như vậy là sai lầm, làm mất vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế! Cùng với việc vu khống, bôi nhọ cán bộ, đảng viên, các đối tượng tìm cách tâng bốc những người bất mãn, cơ hội chính trị, coi những đối tượng hoạt động tuyên truyền, chống phá nhà nước bị pháp luật xử lý là những “nhà dân chủ”; cổ vũ tư tưởng dân tộc cực đoan, kích động "lòng yêu nước" để tụ tập, biểu tình chống đối nhằm tới mục tiêu "cách mạng đường phố", "cách mạng màu" để thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. (trích báo CAND)

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, song tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững đất nước trong thời kỳ mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa, kết hợp, phát triển tinh hoa văn hóa truyền thống Việt Nam với những kinh nghiệm trong xây dựng, quản lý nhà nước của các quốc gia phương Đông và phương Tây; sự thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhà nước kiểu mới vào thực tiễn nước ta. Thông qua những quan điểm về dân chủ, nhà nước, pháp luật, quyền con người… có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền qua những luận điểm sau:

Thứ nhất, quyền con người vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu tối thượng của nhà nước pháp quyền. Giải phóng con người, giải phóng dân tộc là động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, Người đã “tiếp cận quyền con người từ quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác, nhưng trước hết và chủ yếu là từ địa vị người nô lệ mất nước đang tìm đường giải phóng, đang đấu tranh giành lại các quyền cơ bản của toàn dân tộc và của mỗi con người”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền con người và quyền dân tộc là hai phạm trù thiêng liêng, có quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời: Quyền con người chính là biểu hiện cụ thể của quyền dân tộc, là thước đo đánh giá bản chất, năng lực của nhà nước trong việc thực hiện quyền dân tộc; ngược lại, quyền dân tộc chính là điều kiện, cơ sở, công cụ bảo vệ giúp nhà nước đáp ứng quyền con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người “trong tính chỉnh thể, toàn diện không thể chia cắt: giữa quyền tự do của cá nhân với tự do của toàn dân tộc, giữa quyền tư hữu thiêng liêng của cá nhân,… của cả cộng đồng. Do đó, ở Việt Nam hay các dân tộc thuộc địa, vấn đề nhân quyền không thể đứng ngoài, đứng trên chủ quyền dân tộc”.

Thứ hai, hiến pháp là kim chỉ nam để xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo Người, hợp hiến, hợp pháp vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ để xây dựng nhà nước pháp quyền. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Véc-xay (Versailles), Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý Đông Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật. Bản Yêu sách đã được Người chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đặt vấn đề phải có hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm đều phải có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới - nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật. Vì vậy, ngày 3-9-1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, cần nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp nhằm xác lập nền dân chủ và tổ chức một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp. Trong 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, với hai lần đứng đầu Ủy ban soạn thảo hiến pháp, ban hành 16 đạo luật và 613 sắc lệnh, trong đó có 243 sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng vững chắc trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đóng góp to lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp của nước ta.

Thứ ba, nhân dân là chủ thể quyền lực của nhà nước và trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Ngay trong Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Để thực hiện mục tiêu này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tất yếu phải thực hành dân chủ. Bởi vì, dân chủ chính là hiện thực hóa quyền con người của cá nhân, cộng đồng ở mức cao nhất; nghĩa là, con người đã vượt lên trên cái quyền tồn tại đơn thuần, chủ động, sáng tạo thực hiện quyền làm chủ của mình. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, phát huy dân chủ cao độ là tiền đề tạo nên sức mạnh cho nhà nước. Nền dân chủ thực chất sẽ đề cao nhân dân, nhân dân là chủ thể. Theo Người, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, “nước ta phải đi đến dân chủ thực sự” và “chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”. Đến năm 1959, trong Hiến pháp, Người tiếp tục khẳng định: “Tất cả quyền lực… đều thuộc về nhân dân… Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”. Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”. Trong mối quan hệ này, Nhà nước phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong bảo đảm việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân. Người nhấn mạnh: “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân”, “các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác chung cho dân”.

Thứ tư, thượng tôn pháp luật và sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Pháp luật không đơn thuần là công cụ quản lý xã hội của nhà nước, mà còn là đại lượng bảo đảm công bằng, dân chủ, tiến bộ của xã hội; là tấm gương phản ánh bản chất tiến bộ, đồng thời là công cụ kìm hãm sự lạm quyền của nhà nước. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa vai trò của pháp luật mà luôn đề cao sự kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Theo Người, đạo đức và pháp luật không phải được ghép với nhau một cách cơ học mà là hai lĩnh vực, hai phương thức quản lý xã hội khăng khít, hòa quyện vào nhau, “giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng như mối quan hệ giữa hình thức và nội dung, nội dung là đạo đức, pháp luật là hình thức”. Hai lĩnh vực này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, từ đó thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. Bởi vì, để thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân thì tất yếu phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật với mục đích thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và thể chế hóa thành các quy định mang tính pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước, cũng như các thiết chế chính trị khác, tạo nên chế độ dân chủ. Trong đó, những giá trị, chuẩn mực đạo đức nền tảng cần phải được pháp luật ghi nhận, bảo đảm cho các chuẩn mực đó được thực thi hiệu quả. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, pháp luật là công cụ hữu ích để đưa chuẩn mực đạo đức thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó, càng rộng, thậm chí trừu tượng, không để định lượng thì vai trò của pháp luật càng được thể hiện rõ.

 

Một số thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay

 


 

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ _Ảnh: Tư liệu

Mục đích cao nhất, có tính chiến lược của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng và nhân dân ta xa rời, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xa rời, từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tức là làm cho cán bộ, đảng viên ta từ bỏ nền tảng tư tưởng - vũ khí tinh thần, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Thực hiện mục đích đó, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức tinh vi, xảo quyệt thích ứng với mọi tình hình, mọi đối tượng, mọi thời điểm, hoàn cảnh khác nhau. Công tác đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận của Đảng và Nhà nước ta vì thế cũng vô cùng phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cần phải có tư duy mới và hành động hiệu quả hơn.

Trong thực tế thật khó có thể tách bạch âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch về tư tưởng, lý luận đối với Đảng và nhân dân ta hiện nay. Chúng được tiến hành đan xen, ẩn hiện trong nhau rất tinh vi, khó xác định dưới nhiều màu sắc, cấp độ khác nhau, lẫn lộn thật - giả, đúng - sai... khiến người ta khó phân biệt, dễ lầm lẫn, khó đấu tranh.

Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng ở những biểu hiện chính sau:

Một là, phủ nhận, chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên phương diện tư tưởng, lý luận, chúng luôn tìm mọi cách phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng tung ra những luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”...; rằng, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng. Đây là mục tiêu không mới nhưng chúng kiên trì với thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” bằng những chiêu trò mới, hòng thực hiện đến cùng việc chống phá Đảng ta.

Từ tuyên truyền theo kiểu lô-gíc hình thức rằng, “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ” chúng lờ đi mục đích của Đảng ta là kiên trì đấu tranh xóa bỏ mọi bất công, mang lại quyền bình đẳng, thực hiện dân chủ, quyền làm chủ thực sự cho nhân dân. Gần 90 năm qua, Đảng đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ  và xây dựng đất nước không ngừng phát triển như ngày nay, sánh vai với các nước trên thế giới. Âm mưu chống phá vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng với nhiều “lý sự” trắng trợn hòng lôi kéo những người thiếu hiểu biết, bất mãn ngộ nhận tin theo, đòi “đa nguyên, đa đảng” dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Chúng tỏ ra “khách quan”, “bảo vệ quyền lợi chính đáng” của người dân, “bênh vực dân” nên làm cho không ít người ngộ nhận tin theo. Âm mưu rất thâm độc, có tính chiến lược này của chúng được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn mới, kết hợp cả tư tưởng, lý luận, chính trị, kinh tế để chống phá ta từ bên trong kết hợp với bên ngoài, làm một bộ phận cán bộ, đảng viên tha hóa, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, từng bước làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng.

Âm mưu, thủ đoạn phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta - chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được chúng tiến hành từ lâu. Đặc biệt, từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tấn công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản ở các nước kiên trì phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã hơn 150 năm, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn bác bỏ tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, bác bỏ nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Chúng còn trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 30 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn bộ mặt đời sống kinh tế - xã hội, giữ vững con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được cả thế giới thừa nhận và ngợi ca. Thế nhưng, chúng vẫn lừa bịp, lố bịch mê hoặc, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, trình độ tư tưởng, lý luận hạn chế đã ngộ nhận tin theo chúng. Thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu” của chúng được tiến hành dưới nhiều hình thức một cách kiên trì, gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng. Rõ ràng, âm mưu, thủ đoạn tấn công bằng tư tưởng, lý luận để làm thay đổi nhận thức, thay đổi niềm tin của con người là rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và được chúng tích cực áp dụng trong điều kiện hiện nay.

Ba là, chống phá đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta.

Các thế lực thù địch luôn coi đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta là mục tiêu chống phá. Thực hiện mục tiêu ấy, chúng dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, bác bỏ, chống phá. Mặc dù “lý lẽ” đã cũ rích, nhưng chúng vẫn không từ bỏ, luôn rêu rao rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin “đã sai lầm”, “lỗi thời”, “lạc hậu”, thể hiện ở sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Chúng dẫn ra các hiện tượng, hình thức, trái với bản chất để mê hoặc, lôi kéo những người thiếu hiểu biết khoa học, như “lý sự” rằng: “đã kinh tế thị trường thì đâu còn là chủ nghĩa xã hội”; “chủ nghĩa xã hội không phải là cái đích của loài người đi tới”; “chủ nghĩa tư bản là trường cửu”; Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam “bảo thủ” duy trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới” v.v và v.v..

Chúng cố lờ đi những cơ sở khoa học, tính khách quan của quy luật phát triển xã hội là chỉ có kết hợp giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc và giải phóng con người thì cách mạng mới đạt được kết quả trọn vẹn. Chúng không thấy con đường đổi mới, hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ là sự sáng tạo của Đảng và nhân dân ta để đưa đất nước ngày càng phát triển, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chúng gây nên hoài nghi vào quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc những đặc điểm, đặc trưng, mô hình xã hội mà chúng ta xây dựng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận giá trị những thành tựu đạt được trong hơn 30 năm đổi mới của đất nước. Chúng cố tình quên đi những biện pháp, con đường, hình thức, bước đi, nhiệm vụ trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội đầy sáng tạo của nhân dân ta. Tất cả những điều đó với âm mưu của chúng nhằm đẩy người nghe rơi vào tâm trạng hoài nghi, thất vọng, suy giảm niềm tin, rồi đi đến xa rời, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng gieo rắc tâm lý trông chờ, dựa dẫm, cầu mong sự giúp đỡ của nước ngoài, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì giàu nhanh hơn, sung sướng hơn một cách ảo tưởng, hoài vọng.

Bốn là, chia rẽ khối đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân.

Các thế lực thù địch luôn tấn công hòng phá vỡ khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, khối đồng thuận xã hội, gây nên sự ly tán, chia rẽ, suy giảm sức mạnh của Đảng, của nhân dân. Chúng chia rẽ nội bộ Đảng, giữa cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, bịa đặt về sự hình thành “phe này”, “phái nọ” để gây hoang mang trong nhân dân. Chúng lợi dụng việc thực hiện công khai, minh bạch của Đảng trong đấu tranh chống tham nhũng và xử lý nghiêm minh một số cán bộ, đảng viên vi phạm để chia rẽ nội bộ. Chúng xuyên tạc rằng “đây chỉ là sự thanh trừ phe này, phe nọ”, không thấy đây chính là quá trình làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng có tính quy luật trên đường phát triển, là việc làm phù hợp với lòng dân, được toàn Đảng, toàn dân đồng tình ủng hộ. Chúng ra sức kích động chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo; giữa cán bộ và nhân dân; giữa đảng viên và quần chúng... Chúng thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên rồi đi đến khái quát một cách hàm hồ, nói xấu Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng ra sức lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân để kích động gây bất ổn chính trị - xã hội; lợi dụng các bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời để kích động tụ tập đông người gây mất trật tự, an ninh, xung đột xã hội, làm cho nhân dân không tin cán bộ, đảng viên, dẫn đến không tin Đảng, tìm “con đường khác”, “cách sống khác” do chúng vẽ ra. Đây là âm mưu, thủ đoạn phá hoại ta từ bên trong, từ trong nội bộ, từ trong lòng dân, từ trong tư tưởng, tình cảm của con người trong xã hội.

Năm là, cản trở sự phát triển của đất nước.

Các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn cản trở sự phát triển của đất nước, phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo suốt hơn 30 năm qua. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trong từng lĩnh vực, chúng khai thác triệt để những sơ hở, yếu kém của ta để xuyên tạc, nói xấu, móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài cản trở mọi hoạt động của ta. Chúng tạo cơ hội hoặc tiếp tay cho các cá nhân, tổ chức gây rối, các hoạt động tội phạm, các hoạt động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây rối loạn, bất ổn xã hội.

Bên cạnh đó, chúng cổ vũ, tiếp tay cho các hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng dẫn đến “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên với những biểu hiện, như tự xa rời, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chạy theo “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”... Chúng tuyên truyền, cổ vũ lối sống thực dụng, hưởng lạc, tôn thờ đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân, bất chấp đạo lý, pháp luật, kỷ cương, hòng tạo nên tình trạng xã hội rối loạn, bất ổn, gây mất lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước

Cùng với những âm mưu, thủ đoạn trên, các thế lực thù địch đã thực hiện các phương thức mới chống phá ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay một cách tinh vi, phức tạp, có thể khái quát ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, chúng luôn chủ động tấn công, chống phá ta bất cứ lúc nào, bằng mọi hình thức.

Các thế lực thù địch tận dụng các phương tiện thông tin hiện đại bằng cách lập những trang mạng xã hội, có bộ máy chuyên nghiệp rỉ rả tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta dưới nhiều hình thức suốt đêm ngày để lừa bịp nhân dân theo phương châm “nói nhiều rồi sẽ tin”. Phương thức, biểu hiện mới của các thế lực thù địch chống phá trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là khi còn ở dạng dự thảo, lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân thì chúng “kiến nghị”, đề xuất hướng lái theo mục tiêu, ý đồ của chúng; khi đường lối, chủ trương mới ban hành thì chúng chủ động tuyên truyền bới móc, xuyên tạc gây hoài nghi trong quần chúng nhân dân. Chúng luôn nắm bắt kịp thời bất kỳ chủ trương, biện pháp hoạt động mới nào của ta từ cấp Trung ương xuống địa phương để xuyên tạc, bóp méo, chống phá một cách trắng trợn. Các thế lực thù địch rất “nhạy bén” trong phương thức tiến hành chống phá ở mọi nơi, mọi lúc, đặc biệt lợi dụng các thời điểm chuẩn bị tổ chức đại hội các cấp, bầu cử Quốc hội, ban hành luật... Bởi vì tư tưởng, lý luận là lĩnh vực rất nhạy cảm, đi trước dẫn đường cho hành động của con người. Có thể thấy, nhanh nhạy linh hoạt, chọn thời điểm để gia tăng cường độ chống phá là phương thức hoạt động chống phá nổi bật của các thế lực thù địch đối với ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận hiện nay. Chúng có cả kế hoạch, đầu tư kinh phí, tổ chức, bộ máy, công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại thường xuyên chống phá.

Thứ hai, kiên trì chống phá.

Trong xã hội hiện đại, mọi sự vật, hiện tượng đều diễn ra và biến đổi rất nhanh chóng, không ngừng. Trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng diễn ra như vậy, cho dù nó vẫn có tính ổn định tương đối. Các thế lực thù địch luôn kiên trì bám sát mục tiêu, đối tượng mà chúng nhằm vào để chuyển hóa tư tưởng, lý luận, thực hiện âm mưu chống phá ta. Song song với hoạt động chống phá ta một cách thường xuyên, trắng trợn hằng ngày, chúng có sẵn kế hoạch, chương trình dài hạn, chiến lược chống phá ta về tư tưởng, lý luận.

Thứ ba, chống phá tinh vi, bịa đặt trắng trợn.

Các thế lực thù địch thường cập nhật, theo dõi rất kỹ lưỡng các vấn đề tư tưởng, lý luận của ta để tìm ra những mâu thuẫn giữa nhận thức và hành động; giữa lý luận và thực tiễn để khoét sâu những “nghịch lý”, những “độ chênh” giữa tư tưởng, lý luận với thực tiễn để gây hoài nghi, mất lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Chúng tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân. Thậm chí, chúng dựng lên những sự việc, sự kiện không có thật, gây hoang mang, thất thiệt trong quần chúng nhân dân.

Thứ tư, chống phá với những phương thức đa dạng, nhiều chiều.

Các thế lực thù địch xác định một trong những mục tiêu chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm thủ tiêu tinh thần, ý chí cách mạng của nhân dân. Vì thế, chúng sẵn sàng dùng mọi phương thức, biện pháp, phương tiện, hình thức có thể để thực hiện. Tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí,... đều được chúng tận dụng tối đa.


Chúng thông qua các hoạt động “khoa học”, giáo dục, đào tạo, các “diễn đàn” để tán phát các quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc, chống phá ta. Chúng đầu tư kinh phí dưới dạng “hỗ trợ nhân đạo”, các tổ chức phi chính phủ để tuyên truyền, lôi kéo nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Chúng tổ chức truyền đạo, lập đạo trái pháp luật, tuyên truyền mê tín dị đoan để mê hoặc, lôi kéo những người kém hiểu biết. Chúng mua chuộc cán bộ dưới nhiều hình thức, như tổ chức “tham quan”, “du lịch”, “hội nghị”, “đầu tư dự án”, “đào tạo”... cũng như các “mồi nhử” kinh tế khác khá “hấp dẫn” làm mê muội nhiều người; không loại trừ cả những hình thức ép buộc, giả danh cán bộ để lừa dối, tán phát các luận điệu sai trái, đối lập với quan điểm của Đảng.

Có thể nói, trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của nhiều lợi ích, nhiều xu thế phức tạp của quá trình toàn cầu hóa, của sự phát triển khoa học, công nghệ..., các thế lực thù địch đang thực hiện những âm mưu, thủ đoạn, phương thức mới chống phá Đảng và nhân dân ta trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận với sự đan xen nhiều lĩnh vực: kinh tế với chính trị, tư tưởng, lý luận, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Vì thế, trong cuộc đấu tranh này đòi hỏi chúng ta vừa đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, vừa tổ chức hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phát huy thế mạnh, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ màu sắc nào. Điều cốt lõi là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.

Nêu cao cảnh giác, chủ động phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch

    Trong những năm qua, các thế lực thù địch, phản động tăng cường sử dụng internet, mạng xã hội để móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện tha hóa, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Đặc biệt, chúng lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,... nhằm phá hoại nội bộ, tác động tiêu cực tới nhận thức, quan điểm, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và Nhân dân, dẫn đến hoang mang, hoài nghi, làm suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước. Các thế lực thù địch lợi dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ thành công cụ hữu hiệu cho tuyên truyền xuyên quốc gia nhằm xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thông qua công nghệ, hoạt động chống phá gia tăng về quy mô, đa dạng về hình thức, nguy hiểm về tính chất, không bị giới hạn bởi không gian, thời gian; làm mờ đi hệ tư tưởng, bạn - thù. Con người dễ bị cuốn vào thế giới ảo dưới sự dẫn dắt bởi tin giả, tin xấu, độc của các thế lực phản động xuyên tạc, đưa người đọc đi vào ma trận của thật - giả, giả - thật trên không gian mạng. Nếu người đọc không tỉnh táo thì rất dễ bị dẫn dắt, đánh lừa, ru ngủ đến mức làm cho chúng ta đôi khi mất cảnh giác, không thể biết rằng mình đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Để thực hiện mục tiêu phá hoại tư tưởng, việc đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc trên không gian mạng là hoạt động phổ biến hiện nay của các thế lực thù địch với hàng loạt tin, bài, hình ảnh, bịa đặt, cắt ghép, thậm trí là xây dựng cả phim phóng sự điều tra để phát tán, lan truyền với tốc độ nhanh chóng trên mạng xã hội như facebok, blog… Tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều trở thành mục tiêu lợi dụng của các thế lực thù địch, trong đó có lịch sử. Điều đáng nói ở đây, họ thường lợi dụng một số vấn đề lịch sử phức tạp, để tung ra những tư liệu mà họ cho là mới, nhưng thực ra thiếu những chứng cứ khoa học. Những phân tích, bình luận họ đưa ra thường mang nặng tính suy diễn chủ quan, phiến diện, mập mờ. Và chính sự mập mờ đó, gây nhiễu thông tin, làm cho người đọc cảm thấy hoang mang. Đất nước Việt Nam đã trải qua một quá trình hồi sinh, phát triển đi lên vững chắc. Chiêu trò chúng tung ra trước đây đã không mang lại kết quả. Bởi vậy, những năm gần đây chúng đã thay đổi chiêu trò chống phá kiểu mới, núp bóng dưới quan điểm khác, góc nhìn khác. Thông qua cái gọi là "xét lại lịch sử, lật lại lịch sử hay sự thật lịch sử” nhằm vào một số tướng lĩnh, một số sự kiện hay chi tiết lịch sử để hy vọng dễ đánh vào lòng người, dễ ru ngủ, dễ làm cho người ta tin. 

Ngày 30/4/1975 là mốc son vĩ đại trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đó là thành quả của ý chí đoàn kết “muôn người như một” và tinh thần “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của toàn dân tộc. 46 năm trôi qua kể từ ngày 30/4/1975 lịch sử, đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, non sông liền một dải đang ngày càng ổn định và phát triển. Vậy nhưng, sau 46 năm, vẫn còn những ý kiến sai lệch, xuyên tạc lịch sử, cố tình bóp méo sự thật về các sự kiện diễn ra tại Dinh Độc lập vào trưa 30/4/1975. Chúng tăng cường xuyên tạc lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của dân tộc ta, với ý đồ làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta nhận thức sai lệch về lịch sử dân tộc, từ đó dao động, nghi ngờ, thiếu lòng tin vào Đảng và chế độ. Thực tế trên các trang mạng xã hội có nhiều trường hợp không phân biệt được đúng, sai, chưa hiểu được cốt lõi của vấn đề như thế nào nhưng đã vội vã comment bày tỏ chính kiến, đó là hành động a dua theo đám đông. Sẽ là bình thường nếu chính kiến là đúng đắn, trách nhiệm với xã hội, trách nhiệm với lịch sử của quốc gia, dân tộc. Nhưng thật đau lòng, có những sự việc, hiện tượng mà số đông tham gia bàn tán, bình luận lại thuộc lĩnh vực mà trước đó đã được các cơ quan chức năng có thẩm quyền thẩm tra, xác minh, kết luận nhưng nay bị một nhóm người phủi đi tất cả vì cho rằng kết luận có sự thiên vị. Khi trả lời phỏng vấn các báo, đài trong nước, thậm trí còn đăng đàn trả lời phỏng vấn của các báo, đài hải ngoại, thường xuyên có các quan điểm chống phá Đảng, Nhà nước và dùng những từ ngữ rất nặng nề để bôi xấu, quy chụp người này, nâng đỡ người kia. Họ lật lại sự việc bằng những lời lẽ và hình ảnh thiếu thuyết phục, thông tin thiếu khách quan, không chính thống và họ tự cho mình cái quyền phán xét về lịch sử của dân tộc. Họ nhân danh “sự thật” để đăng đàn trên mạng, viết báo hoặc làm phóng sự, thoạt nghe có vẻ chính đáng nhưng sự thật chỉ phục vụ mưu đồ của một cá nhân hoặc một nhóm người thiếu thiện chí nhằm xuyên tạc, bóp méo sự thật để dẫn dắt sự việc phát triển theo mong muốncủa họ là chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và reo rắc sự hoài nghi vào thế hệ trẻ đối với lịch sử Quân đội, lịch sử dân tộc và làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với Quân đội, là sự xúc phạm đến các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vì độc lập - tự do của đất nước.

          Để tăng cường phòng chống “tư diễn biến”, “tự chuyển hóa” trước các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối cần chú trọng nâng cao ý thức tự giác, kỷ luật trong tiếp xúc thông tin, nắm vững và chấp hành tốt các quy định về quyền thông tin, phạm vi thông tin của công dân theo quy định của Hiến pháp, Luật tiếp cận thông tin và Luật An ninh mạng, đồng thời chấp hành nghiêm Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn nghiêm túc thực hiện Điều lệ và các quy định của Đảng, của tổ chức mình mà mình là thành viên, đồng thời thể hiện là cán bộ, đảng viên gương mẫu khi tham gia mạng xã hội; tỉnh táo, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi phát ngôn, chia sẻ, bình luận, nhận định, đánh giá về vấn đề, sự kiện hoặc hiện tượng nào đó. Đây cũng là trách nhiệm của đảng viên nhằm góp phần bảo vệ, giữ vững uy tín của Đảng và của chính bản thân mình. Khi tham gia mạng xã hội phải thường xuyên nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội trong cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị công tác và nhân dân tại địa phương nơi cư trú. Qua đó, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp của mình và nhân dân bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội. Cần hết sức tỉnh táo để không bị lợi dụng và tránh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy đảng tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng và tiếp tục đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tích cực đấu tranh phản bác thông tin sai sự thật, xấu độc trên Internet, mạng xã hội giúp cán bộ, đảng viên nhận thức đúng vấn đề, nhất là liên quan đến các sự kiện lịch sử, sự kiện chính trị; các vụ việc phức tạp, nhạy cảm được dư luận xã hội quan tâm./.

Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay

 Một là, đối với các trang mạng chính thống của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể  chính trị - xã hội cần phải tiếp tục đổi mới về nội dung và hình thức cho phong phú, sinh động, cập nhật thông tin và có sức hấp dẫn đối với cộng đồng mạng. Nhất là đối với các vấn đề chính trị - xã hội, các thông tin trên các mạng này phải đi trước một bước so với các trang mạng khác để định hướng dư luận. Trên các trang này, ngoài các bài viết chính luận, phê phán cần có xen kẽ các bài viết bàn về các vấn đề văn hóa, gia đình và xã hội…, có như vậy mới vừa thu hút được cộng đồng mạng, đồng thời vừa có tính linh hoạt, mềm dẻo. Cần làm mới kết cấu giao diện và phong phú hơn góc trao đổi, bình luận của cộng đồng mạng. Có thể có ý kiến trái chiều nhưng phải có định hướng dư luận. Đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho các trang mạng điện tử chính thống.

 Hai là, đối với các nhà báo, cán bộ làm công tác tư tưởng, các nhà lý luận chính trị phải thường xuyên định hướng dư luận khi có các bài viết xuyên tạc, bóp méo nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam như đăng các bài viết phê phán vạch trần sự bôi nhọ, xuyên tạc để cộng đồng mạng hiểu đúng bản chất nền tảng, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tham gia bình luận định hướng dư luận.

 Ba là, các đơn vị có chức năng cần đưa nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên MXH ở Việt Nam hiện nay thành các chuyên đề tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong đó có các trang MXH.

 Bốn là, tổ chức tuyên truyền, giáo dục trực tiếp cho quần chúng nhân dân, đặc biệt là các đối tượng thường xuyên gắn trực tiếp với MXH: cán bộ, đảng viên, về luật an ninh mạng, có văn hóa ứng xử trên MXH, có ý thức và bản lĩnh chính trị vững vàng khi tham gia MXH để họ có được “sức đề kháng” và tự tạo được “bức tường lửa” chống lại các thông tin độc hại.

 Năm là, thông qua các loại hình văn hóa, văn nghệ lồng ghép vào chương trình các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên MXH. Đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của những người có uy tín, những người nổi tiếng thông qua các trang mạng cá nhân để họ tuyên truyền đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch trên MXH với nhiều cách thức khác nhau.

 Sáu là, xử lý nghiêm đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm về luật an ninh mạng; cần có cơ chế pháp lý trong việc đăng bài, duyệt bài, xóa bài, xóa bình luận nếu vi phạm qui định về an ninh mạng.