Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Nhà lý luận xuất sắc, liêm chính của Đảng

  Tháng 12-1967, sau khi tốt nghiệp Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội), đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tiếp nhận về làm biên tập viên Tạp chí Học tập, nay là Tạp chí Cộng sản. Kể từ đó, cả cuộc đời đồng chí gắn bó với công tác lý luận của Đảng cho dù gánh vác các trọng trách khác nhau trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đặc biệt cả khi đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng. Đồng chí là một nhà lý luận xuất sắc với nhiều cống hiến to lớn, quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước ta. 

Người chủ trì tổng kết, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Nếu nói lý luận về đường lối đổi mới là những luận điểm sâu sắc, toàn diện về xây dựng, phát triển đất nước ta trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thì nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là vấn đề trung tâm, cốt lõi, chi phối của hệ thống lý luận đó. Chính từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của các nước trên thế giới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và việc tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn những đặc trưng quan trọng nhất của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Mô hình đó bắt đầu được khẳng định một cách cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) với mục tiêu khái quát là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu khái quát đó, Đảng ta chủ trương thực hiện 7 phương hướng gắn với 7 lĩnh vực chủ yếu của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, có ý nghĩa như con đường, cách thức để đạt được đích đến là các đặc trưng của chế độ xã hội, bao gồm: (1) Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; (3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; (4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; (6) Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đã là một bước tiến rất quan trọng, cơ bản về nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới từ sau năm 1991, bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi rất nhanh chóng và phức tạp, trong đó sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô dẫn đầu, đẩy tới một thời kỳ vô cùng khó khăn cho phong trào công nhân và cộng sản toàn thế giới. Mặt khác, thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, nhất là việc nhận thức và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, kể cả những vấn đề nội bộ đất nước ta cũng như những vấn đề trong quan hệ quốc tế, đã mang lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, giúp cho chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn những nội dung, yêu cầu, các giải pháp cần thiết để xây dựng, phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Cũng trong quá trình đó, Đảng ta nhận thấy có những nội dung về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta nêu ra và xác định trong Cương lĩnh năm 1991 hoặc là chưa đầy đủ, toàn diện, hoặc là đã bị thực tiễn vượt qua. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị của Đảng để hoàn thiện thêm một bước nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta trở thành một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi thực tiễn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người trực tiếp chỉ đạo việc triển khai nghiên cứu, tổng kết, chuẩn bị cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và nội dung các vấn đề bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).

Đại hội XI của Đảng năm 2011 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được nhận thức rõ hơn, được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) Do nhân dân làm chủ; (3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; và (8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Từ 6 đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đến 8 đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã là bước tiến rất xa, bước chuyển rất quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã đưa nội dung “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thành đặc trưng thứ nhất, thể hiện mục tiêu tổng quát, tính chất ưu việt của chế độ xã hội Việt Nam. Đặc trưng về Nhà nước Việt Nam được đưa vào Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, như một đặc trưng không thể thiếu của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đây không chỉ là sự xác định tính chất nhà nước mà Việt Nam hướng tới xây dựng, hoàn thiện trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà còn thể hiện sự trưởng thành, tính khoa học khách quan của Đảng ta trong nhận thức tính quy luật chung của sự phát triển nhà nước trong tiến trình lịch sử của nhân loại. Một số đặc trưng khác của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng được cập nhật, bổ sung, phát triển, nhằm làm rõ hơn tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với điều kiện riêng có của Việt Nam.

Cùng với việc bổ sung, phát triển các đặc trưng, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 cũng bổ sung, phát triển, cập nhật, làm rõ thêm 8 phương hướng xây dựng, phát triển đất nước, nhất là xác định rõ phương hướng về kinh tế là “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, và phương hướng xây dựng nhà nước là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Để thực hiện 8 phương hướng trên, lần đầu tiên, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng đã chỉ ra và xác định các mối quan hệ lớn phải chú trọng nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng và phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa: đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...  Từ sau Đại XI đến nay, Đảng ta cũng bổ sung hai mối quan hệ: giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Với trách nhiệm là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, người phụ trách công tác lý luận của Đảng trong nhiều năm, đồng chí Nguyễn Phú Trọng không chỉ có công lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, phát triển nhận thức của Đảng ta về đường lối đổi mới, về mô hình chủ nghĩa xã hội riêng có của Việt Nam, mà còn trực tiếp nghiên cứu, công bố các bài viết với tư duy lý luận sâu sắc và thực tiễn. Tháng 4-2012, trong bài thuyết trình tại Trường Đảng Trung ương Cu Ba Ni-cô Lô-pết với chủ đề “Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới và những vấn đề đặt ra sau khi Liên Xô tan rã, những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ và các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ ở nhiều nước tư bản phát triển, và chỉ ra rằng, “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa” hàng loạt vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh thế giới đương đại. Điều này xuất phát từ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Cho dù có những thay đổi nhất định về xã hội do tác động của sự phát triển khoa học và công nghệ, dưới áp lực cuộc đấu tranh của các giai cấp lao động, cho dù có quảng cáo, hay tô vẽ bằng cả một hệ thống truyền thông, báo chí khổng lồ về “dân chủ, tự do”, thì bản chất chủ nghĩa tư bản vẫn không thể thay đổi, các thế lực thống trị vẫn là đại diện cho ý chí của các tập đoàn tư bản. Và do đó, nó không thể mang lại cái mà nhân dân lao động và toàn nhân loại tiến bộ những giá trị cần có, phải có: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Trong khi không chỉ trong học thuyết khoa học mà trên thực tế sinh động hằng ngày, đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, là những giá trị mà chủ nghĩa xã hội coi như mục đích lý tưởng để hiện thực hóa bằng những nỗ lực liên tục, không mệt mỏi và được minh chứng không thể phủ nhận trên thực tế.

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết không chỉ tiếp tục khẳng định những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một bản luận cương cơ bản, toàn diện, mang tầm khái quát cao về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Từ nhận thức lý luận, chỉ ra những nội dung cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đồng chí chứng minh cho sự đúng đắn của những vấn đề lý luận, đường lối đó bằng những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới của nước ta. Và cũng từ đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa

Trong toàn bộ hoạt động lý luận của mình, đồng chí Nguyễn Phú Trọng dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo thống kê sơ bộ có thể thấy phân nửa các bài viết của đồng chí đã công bố là viết về Đảng, về những vấn đề trực tiếp liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên những bình diện khác nhau. Điều này xuất phát từ nhận thức có tính nguyên tắc nhất quán của đồng chí: “chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhấn mạnh quan điểm nhất quán, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng coi đó như là một logic tất yếu, một vấn đề do các yếu tố khách quan xã hội quy định, bởi vì Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, cán bộ được đồng chí xác định “là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

Nhận thức lý luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao quát một phổ rộng, toàn diện những vấn đề liên quan, từ mục tiêu, tính chất, các nguyên tắc hoạt động, phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, đến các lĩnh vực cụ thể, như công tác tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, kỷ luật, kỷ cương, văn hóa trong Đảng...

Trước hết, về bản chất của Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, luận giải rất sâu sắc trong bài “Hiểu thế nào về bản chất của Đảng ta?”, đăng tải trên Tạp chí Cộng sản từ tháng 3-1996. Trong bài viết, đồng chí đã dựa vào toàn bộ lịch sử hoạt động của Đảng, những luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng để luận giải, minh chứng, làm rõ bản chất của Đảng được xác định trong các văn kiện của Đảng; qua đó cũng chỉ ra một số biểu hiện không phù hợp trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về bản chất của Đảng. Đồng chí chỉ rõ, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng do Đại hội VII của Đảng năm 1991 thông qua “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, là sự khẳng định rõ bản chất giai cấp của Đảng, đồng thời thể hiện ý nghĩa, tính chất nhân văn, dân tộc của Đảng. Hơn nữa, điều đó cũng thể hiện nguyên tắc trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu của tổ chức đảng mà Người đã khai sinh, lý tưởng của cuộc cách mạng mà Người đã phát động và lãnh đạo. Bởi chính Người đã khẳng định rằng Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời là Đảng của dân tộc, rằng Đảng mà Người phụng sự là “Đảng Việt Nam”. Nhưng để có thể hoàn thành được trách nhiệm “đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, Đảng phải thường xuyên tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, phải “giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng”, phải không ngừng tăng cường “bản chất cách mạng và khoa học, ý chí kiên định và trí tuệ tiên phong, đạo đức mẫu mực và ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ... của giai cấp công nhân”.

Là một nhà lãnh đạo chính trị dày dạn kinh nghiệm, lại có tri thức phong phú của nhà lý luận, sự trải nghiệm thực tế lâu năm của một nhà báo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiểu rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đồng chí thường xuyên quan tâm việc xây dựng, phát triển hệ thống công tác tư tưởng của Đảng, từ Ban Tuyên giáo Trung ương đến các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn học, nghệ thuật... Tinh thần mà đồng chí nhiều lần nhấn mạnh “Tiền hô hậu ủng/ Nhất hô bá ứng/ Trên dưới đồng lòng/ Dọc ngang thông suốt” cũng có thể coi là một yêu cầu, một phương châm có ý nghĩa chỉ đạo đối với công tác tư tưởng của Đảng. Đó cũng là đòi hỏi, trách nhiệm đối với lĩnh vực công tác tư tưởng phải thực hiện để đóng góp vào sự nghiệp chung của cách mạng. Đối với công tác lý luận, đồng chí yêu cầu “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”; phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển, khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí quyết tâm vươn lên của cả dân tộc...”.

Công tác tổ chức, cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ, như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Song, đó lại là công việc xây dựng con người, là công tác con người, vô cùng phức tạp, tinh tế, dễ va chạm đến danh dự, quyền lợi. Vì thế, đồng chí yêu cầu không thể nóng vội, phải quan tâm bảo vệ cán bộ, nhưng cũng phải kiên quyết với những khuyết điểm, hạn chế của cán bộ để ứng xử một cách hợp lý. Đặc biệt, đồng chí nhấn mạnh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình một cách tự giác và nghiêm túc, phải thực hiện kiên trì, bền bỉ, làm thường xuyên, liên tục, như “đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày” như Bác Hồ đã dạy. Theo đồng chí, để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, phải làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kiểm tra thường xuyên, đánh giá lựa chọn chặt chẽ để bố trí, sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc; đồng thời phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đẩy lùi những hạn chế, yếu kém, kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức đảng, nhất là ra khỏi những vị trí lãnh đạo, quản lý, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phải tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức, về trách nhiệm tiên phong gương mẫu, nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Nhưng để giải quyết tận gốc rễ những hạn chế, yếu kém trong Đảng, thì phải tìm ra được nguyên nhân của nó, mà theo đồng chí, đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.

Cùng với công tác tư tưởng, tổ chức, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, đưa ra nhiều luận điểm lý luận một cách toàn diện về các lĩnh vực công tác của Đảng, như kiểm tra, kỷ luật, dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng...  Trên nền của tất cả những lĩnh vực đó, nổi bật lên vấn đề nhân dân, được đồng chí nhắc đến, nhấn mạnh nhiều nhất, sâu sắc nhất. Nhân dân được đặt ra, lý giải và nhận định trên tất cả các chiều cạnh, từ vai trò và vị trí nhân dân đối với chế độ, Đảng, Nhà nước và xã hội; từ sức mạnh của nhân dân với vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng nhất của phát triển; đến nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng, trung tâm của mọi chiến lược phát triển; các yêu cầu và giải pháp nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, đồng chí còn phân tích cụ thể, chỉ ra bản chất sâu xa của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, từ đó làm rõ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước với nhân dân; chỉ ra yêu cầu có tính nguyên tắc về tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, đồng chí nói: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Đây không chỉ là một quan điểm xuất phát từ tấm lòng thương yêu hết mực nhân dân, một tinh thần “luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu”, mà hơn thế nữa, còn là sự nhận thức sâu sắc về cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng chính là niềm tin của nhân dân. Trong câu nói của đồng chí ta bắt gặp ý nghĩa sâu sắc của nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”.  

Đổi mới nhận thức lý luận nhiều lĩnh vực dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Cùng với những vấn đề nền tảng, căn cốt của lý luận về đường lối đổi mới là nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, di sản lý luận chính trị của đồng chí Nguyễn Phú Trọng bao quát hầu hết các vấn đề, các lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước.

Về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, đó là “một kiểu kinh tế thị trường mới" trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”. Khi bàn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đồng chí luôn nhấn mạnh một thuộc tính quan trọng của nó, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Thuộc tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam được hiểu là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”. Trong nền kinh tế ấy, “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”.  Nhấn mạnh và thực hiện có hiệu quả thuộc tính này chính là một nguyên tắc, là cơ sở để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm cho tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở phân tích, làm rõ tính chất, nội dung, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí khẳng định đây là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”, là thành quả phát triển lý luận từ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.   

Về vấn đề văn hóa, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò to lớn của văn hóa, ngay trong mở đầu bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn…”. Đồng chí tổng kết khái quát nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang hướng tới xây dựng, có nội dung: Thứ nhất, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thứ ba, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; thứ tư, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại; và thứ năm, mục tiêu là, xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Về lĩnh vực đối ngoại, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trên thế giới. Nó được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập và chỉ rõ nội dung trong bài phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 14-12-2021. Đó là “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”..., thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Đó là, mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân... Biết nhu, biết cương, biết thời, biết thế; biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!”. Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam là kết quả sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu, thân thiện và nhân văn của dân tộc. Khẳng định trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đồng chí cũng đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những thành tựu nổi bật về ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn và hiệu quả của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Về vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cùng với việc trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo triển khai thực hiện quyết liệt trên thực tế, với tinh thần kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng là người đóng góp quan trọng vào tổng kết lý luận, khái quát những vấn đề có tính quy luật, nhằm bảo đảm hiệu quả toàn diện của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ thực tế phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong nước và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí đưa ra 6 bài học lớn. Đó là: (1) Phải có quyết tâm chính trị cao, sự lãnh đạo thống nhất của Đảng; (2) Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là chống “giặc nội xâm”, vì thế phải kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ..; (3) Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa, phát hiện với xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh; (4) Phải gắn chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; (5) Kiểm soát được quyền lực nhà nước; (6) Có giải pháp phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những bài học kinh nghiệm này, đồng chí yêu cầu định hướng cho công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Một là, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; hai là, tiếp tục xây dựng đồng bộ, hoàn thiện thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội; ba là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, kiểm toán; bốn là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; năm là, tiếp tục hoàn thiện bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng, chống tham nhũng. Năm định hướng trên đây cho thấy nhận thức lý luận chính trị của đồng chí Tổng Bí thư về tham nhũng, tiêu cực rất toàn diện, trong đó “chống” và “xây” quan hệ biện chứng với nhau. “Chống” đồng thời với “xây” và “xây” để bảo đảm sự phát triển vững mạnh... 

Cả cuộc đời hoạt động chính trị - xã hội đều gắn liền với công tác lý luận của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại di sản lớn về lý luận chính trị. Đồng chí đã công bố hàng trăm bài báo, bài viết nghiên cứu, xuất bản gần 30 cuốn sách. Là một nhà lý luận xuất sắc của Đảng và Nhà nước, mặc dù bản thân đã phát hiện, đề xuất nhiều vấn đề lý luận về các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội, song đồng chí không bao giờ tự nhận về mình, luôn coi đó là thành tựu chung của Đảng. Những thành tựu lý luận của đồng chí đã đóng góp to lớn trong xây dựng cơ sở khoa học - thực tiễn cho quá trình hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, và sẽ còn có ý nghĩa lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, của dân tộc. Cùng với những thành tựu lý luận to lớn của một nhà lý luận xuất sắc của Đảng, của Nhà nước ta, tinh thần liêm chính, khiêm tốn trong khoa học của đồng chí Tổng Bí thư sẽ là bài học trong sáng, đáng trân trọng để lại cho mai sau./.

 

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÓ MỘT NGÔI SAO SÁNG, MỘT NGỌN LỬA ĐỎ RỰC KHÔNG BAO GIỜ TẮT

     Ông là Ngọn lửa ấm áp, rực đỏ, là Ngôi sao sáng chói, sáng mãi, không bao giờ tắt! Cuộc đời và sự nghiệp của ông trọn vẹn như câu nói: “Ta có thể tự hào rằng, tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho nhân dân” trong tác phẩm kinh điển của nhà văn Nga Ostrovsky “Thép đã tôi thế đấy”!
Khi được biết thông tin rất đau buồn từ Ban Bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương về việc đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng kính mến đã từ trần, tôi ngồi lặng đi, buồn thương, tiếc nuối, kính trọng, xa xót. Hình ảnh và tình cảm của đồng chí Tổng Bí thư yêu kính; của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội nhân hậu, quyết đoán ngày chưa xa; của đồng chí đảng viên Nguyễn Phú Trọng giản dị, chân tình, gần gũi; của anh Trọng - một đồng môn lớp trước rất đáng ngưỡng mộ và thân thương của chúng tôi, những cựu sinh viên ở khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội một thời gian khó (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội) cứ hiện lên, tươi rói đến buốt nhói, buồn đau đến tái tê. Và, tự nhiên, mấy câu thơ trong bài thơ “Nhớ” của nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi sáng tác cách đây tròn 70 năm, và 10 năm sau đó, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cất tiếng chào đời, đến rất nhanh trong tâm tưởng “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh/ Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây/ Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh/ Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây…/…Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt/ Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời/ Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực/ Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người”.

Ngôi sao, ngọn lửa về tri thức, về lý luận
Trong số các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người có chủ đích rõ ràng khi chọn các ngành học mà đồng chí cho là cần thiết cho công việc. Trong bài “Đôi điều tâm sự về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng”, đồng chí viết: “Chuẩn bị kết thúc năm học lớp 10 (tức lớp 12 ngày nay), nhà trường yêu cầu ghi nguyện vọng sau này làm gì và xin thi vào trường đại học nào. Tôi đã không ngần ngại ghi nguyện vọng được nghiên cứu văn học dân gian hoặc làm phóng viên báo chí và nộp đơn xin thi vào khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội”… “Tôi đặc biệt say mê đọc, học thơ ca dân gian, truyện cổ dân gian, rồi Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu…, những hồn thơ thấm đẫm chất dân gian. Không phải ngẫu nhiên mà năm học cuối khóa tôi đã chọn đề tài “Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình…” … “Với sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Giáo sư Đinh Gia Khánh, tôi đã bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp với điểm số tối ưu tuyệt đối duy nhất của khóa đó”.
 
Bước đi tiếp theo, không phải là sự lựa chọn, mà do tổ chức phân công, đồng chí về công tác ở Tạp chí Cộng sản, làm cán bộ biên tập Ban Xây dựng Đảng, mấy năm sau được chọn làm nghiên cứu sinh tại khoa Kinh tế-Chính trị, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) rồi được cử sang Liên Xô làm Thực tập sinh và bảo vệ Luận án Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ) Khoa Xây dựng Đảng thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên Xô. Đồng chí trải qua các cương vị Phó trưởng ban, Trưởng ban, rồi Ủy viên Ban Biên tập, được Ban Bí thư và tiếp đó là Bộ Chính trị giao nhiệm vụ Phó Tổng Biên tập (1990 - 1991), Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản (1991 - 1996). Từ 1/1994 đến nay, đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII. Từ tháng 12/1997 đến nay, đồng chí là Ủy viên Bộ Chính trị các khóa VIII, IX, X, XI, XII, XIII, được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị giao lần lượt phụ trách các công tác: Tư tưởng-Văn hóa và Khoa giáo của Đảng; Thường trực Bộ Chính trị; Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; Bí thư Thành ủy Hà Nội các khóa XII, XIII, XIV. Từ tháng 5/2002 đến nay là Đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII, XIII, XIV, XV, trong đó, từ tháng 6/2006 đến tháng 7/2011 là Bí thư Đảng đoàn Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội khóa XI, XII. Từ tháng 1/2011 đến nay đồng chí được giữ trọng trách Tổng Bí thư của Đảng các khóa XI, XII, XIII; Bí thư Quân ủy Trung ương; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, nhiệm kỳ 2016-2021 (từ tháng 10/2018 đến tháng 4/2021). Đồng chí được trao tặng Huy hiệu 55 tuổi Đảng. Ngày 18/7/2024, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của đất nước ta.
 
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là nhà lý luận vừa kiên định, vừa sáng tạo, rất xuất sắc của Đảng và Nhà nước ta. Đồng chí thường nhắc các cộng sự của mình ghi nhớ lời dạy của V.I. Lê nin: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng. Chỉ đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì đảng đó mới làm tròn được vai trò là người chiến sĩ tiên phong". Đồng chí nhấn mạnh, phải chủ động nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phải gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn phát triển các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; với xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo cách tiếp cận và yêu cầu mới là hình thành đồng bộ thể chế phát triển đất nước dựa chủ yếu vào nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy cao độ nhân tố con người. Con người là chủ thể tạo động lực phát triển đất nước nhanh và bền vững, thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, không rơi vào "bẫy thu nhập trung bình", thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Cho đến những ngày gần đây, khi sức khỏe giảm sút rõ rệt, thể lực yếu dần nhưng trí tuệ, tâm huyết, hoài bão của đồng chí Nguyễn Phú Trọng vẫn vẹn nguyên, vẫn rực sáng. Đồng chí trao đổi, căn dặn các đồng chí lãnh đạo cấp cao: Để phục vụ và góp phần đạt được mục tiêu phát triển đất nước qua ba dấu mốc quan trọng 2025, 2030, 2045 thì mục tiêu phát triển lý luận của Việt Nam là gì? Phải chăng, đến năm 2025, trên cơ sở tổng kết 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 50 năm thống nhất đất nước, cần hoàn thiện một cách cơ bản hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của chúng ta; đến năm 2030, trên cơ sở tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tổng kết 100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, có thể bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; bổ sung, làm phong phú và tiến thêm một bước để hoàn thiện hơn nữa nền tảng tư tưởng của Đảng; và đến năm 2045, khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì chúng ta sẽ có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cần xác định và thống nhất mục tiêu phát triển lý luận như vậy để quyết tâm phấn đấu, lao động, sáng tạo. Chú ý nghiên cứu những vấn đề mới về lý luận của thế giới; các vấn đề mới do thực tiễn đặt ra; kinh nghiệm của các nước tiên tiến; của cuộc cách mạng về khoa học công nghệ,... Từng bước bổ sung, hoàn thiện lý luận, xây dựng một hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới: Xây dựng và bảo vệ đất nước, mở cửa hội nhập, là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của các nước, có vị thế quan trọng trong khu vực và trên thế giới. 

Tầm cao văn hóa trong cả lý luận và thực tiễn, thể hiện giản dị mà sâu sắc trong mỗi suy nghĩ, việc làm
Tiếp nối thành công tốt đẹp của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 -19-5-2021) và các sự kiện chính trị, văn hóa quan trọng của đất nước năm 2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Sau khi đánh giá tổng quát về tình hình thế giới và trong nước, đề cập đến vấn đề văn hóa và con người, đồng chí Nguyễn Phú Trọng viết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”.

Khi nói đến xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mĩ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội”.

Trên đây là những tư tưởng, lý luận gắn với thực tiễn sâu sắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, trong đó văn hóa được khẳng định là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; con người giữ vị trí trung tâm trong mọi chiến lược phát triển. 

Còn trong thực tiễn, trong đời sống hàng ngày của bản thân và gia đình đồng chí Nguyễn Phú Trọng, đồng chí cũng luôn nêu tấm gương học hỏi, rèn luyện, thực hành, đi trước, làm trước và luôn làm đúng. Cô giáo cao niên Đặng Thị Phúc vẫn nhớ mãi cậu học trò lớp 4 Nguyễn Phú Trọng năm nào: “Em ấy chỉ mặc mỗi bộ quần áo nâu, đi chân đất, không kể đông hay hè, vì nhà em nghèo khó”. Cô giáo Phúc kể tiếp: “Sau khi xa trường, xa thầy cô, em Nguyễn Phú Trọng vẫn sắp xếp thời gian về thăm trường cấp 2, cấp 3 Nguyễn Gia Thiều và các thầy cô, có người còn đứng lớp, có người đã nghỉ hưu. Nhớ một lần gần đây, dù đã giữ cương vị rất cao, em vẫn tìm về thăm gia đình tôi. Hôm đó, tôi đang chuẩn bị bữa cơm chiều ở một nhà thuê tạm nhỏ bé, do nhà tôi đang xây dựng, đường vào cũng quanh co lắm, vậy mà em ấy vẫn lặn lội tìm được". Trước thềm xuân Kỷ Hợi 2019, học trò Nguyễn Phú Trọng gửi mấy dòng thư và món quà nhỏ tới cô giáo Phúc và gia đình “Kính thưa cô giáo Đặng Thị Phúc! Nhân dịp đón Tết cổ truyền của Dân tộc - xuân Kỷ Hợi 2019, em xin có mấy lời kính thăm Cô và gia đình. Kính chúc Thầy Cô sang năm mới sức khỏe, trường thọ; chúc toàn thể gia đình an khang, mọi việc hanh thông, tốt đẹp, có nhiều niềm vui mới !”. Tôi thực sự xúc động và tự hào về người học trò của mình, nên đã viết bài thơ "Người trò nhỏ năm xưa" để tặng em, để nhớ về những kỷ niệm quá đẹp, quá thân thương. 

Sinh thời, ông Dương Đức Quảng (Giám đốc Trung tâm Thông tin Báo chí, Văn phòng Chính phủ) kể với chúng tôi là đồng môn khóa sau những câu chuyện giản dị và xúc động về bạn Nguyễn Phú Trọng lớp Ngữ Văn khóa 8, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội thập niên sáu mươi thế kỷ trước "Khi học cùng chúng tôi, anh Nguyễn Phú Trọng học chăm và giỏi, luận văn tốt nghiệp đạt xuất sắc, được kết nạp Đảng ngay trong trường và được các thầy cô muốn giữ lại làm cán bộ giảng dạy nhưng Tạp chí Học tập, tức Tạp chí Cộng sản bây giờ, chiêu mộ anh". Ông Quảng kể thêm: “Khi đã giữ cương vị công tác rất cao, anh Trọng vẫn tham dự gần như đều đặn các cuộc gặp mặt cựu sinh viên Ngữ Văn khóa 8 với các thầy cô từng dạy dỗ. Có lần, anh nói chân thành: “Khi đã đến đây, xin được để mọi chức tước ở bên ngoài căn phòng này". 

Một bạn đồng môn cùng lớp đại học khác của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là nhà báo Phan Văn Kính, quê Yên Thành, Nghệ An, hiện sống ở Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa kể cho tác giả bài viết này câu chuyện về người bạn thân thiết, quý mến của mình: “Khi đang học năm thứ ba đại học ở nơi sơ tán Đại Từ, Thái Nguyên, tôi đã xung phong vào mặt trận phía Nam làm phóng viên chiến trường. Khi biết tin, anh Nguyễn Phú Trọng rất xúc động, bùi ngùi. Mấy hôm đó, mấy anh em cùng lớp đi đâu cũng có nhau. Anh Trọng bảo: “anh Kính đi thì lớp vừa buồn vì phải chia xa, vừa tự hào vì có anh và vài ba bạn nữa được ra chiến trường, được viết những trang báo, trang văn nóng hổi tính thời sự”. Ngày ông Kính lên đường, người bạn học Nguyễn Phú Trọng đã đi bộ cùng ông hai cây số từ chỗ ký túc xá sơ tán lên tận bến xe để vào đơn vị huấn luyện. Khi chia tay bạn, Nguyễn Phú Trọng rơm rớm nước mắt, ôm chặt ông như chẳng muốn rời.  

 Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Thiện, nguyên là Ủy viên Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí “Diễn đàn văn nghệ Việt Nam” là bạn cùng lớp Ngữ Văn đại học nhớ lại: “Chúng tôi quý nhau, kính nhau không phải vì chức tước, học hàm, học vị mà bằng tấm lòng thủy chung như nhất. Lớp chúng tôi giữ nhịp họp lớp vài ba năm một lần. Anh Nguyễn Phú Trọng thường đến dự bằng xe máy lúc còn trẻ, sau này thì nhờ bảo vệ chở bằng xe máy, mấy năm gần đây, sức khỏe anh giảm sút, và cũng theo quy định bảo vệ, anh đến bằng xe ô tô, nhưng để xe ở ngoài xa, đi bộ vào. Anh thưa với các thầy, các cô "Em đến đây mãi mãi là học trò của các thầy, các cô. Tôi đến đây mãi mãi là bạn học của các bạn, các anh các chị. Mong chúng ta luôn giữ được tình cảm thầy trò, bè bạn như những ngày xa xưa, thời còn nhiều gian khổ, thiếu thốn”. 

Nhiều bạn bè của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng có chung nhận xét: Nguyễn Phú Trọng cùng vợ và các con đều sống cuộc sống giản dị, chan hòa, chân thành với mọi người. Anh chị làm lễ cưới cho con gái, con trai khi anh đã ở cương vị lãnh đạo cấp cao, gia đình và họ hàng đôi bên bàn bạc chỉ làm hẹp, làm giản dị, tiết kiệm, tiệc trà, hoa quả, bánh ngọt, không cỗ bàn linh đình. Chỉ sau đám cưới của các con, anh chị mới gửi thiếp báo hỷ tới một số ít bạn bè, đồng chí, họ tộc. Đầu năm 2018, khi đón nhận Huy hiệu 50 tuổi Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói những lời gan ruột: “Suốt 50 năm được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tôi đã được Đảng giáo dục, rèn luyện, dìu dắt rất nhiều, nhờ đó mà có làm được một số việc và từng bước trưởng thành. Tuy nhiên, tất cả những gì tôi làm được là vô cùng nhỏ bé so với sự giáo dục, rèn luyện của Đảng; sự kèm cặp, chỉ bảo của các đồng chí đi trước; sự ủng hộ, cộng tác, giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp; sự động viên, ủng hộ của nhân dân, mà trực tiếp là những nơi tôi từng sinh sống, học tập, công tác”.

Lò lửa rực cháy thiêu sâu mọt, tham nhũng
Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 26/6/2018, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Phải ngăn ngừa tận gốc những sai phạm, khuyết điểm một cách căn cơ, bài bản bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói một cách hình ảnh là phải “nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế”. Tổng Bí thư luôn ghi nhớ, luôn nhắc nhở mọi người lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tham nhũng là hành vi “ăn cắp của công làm của tư”; tham ô, tham nhũng là “giặc nội xâm”, tham nhũng, tiêu cực là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực [3]. Trong tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, tham nhũng tiền bạc, tài sản thì có thể thu hồi được, nhưng “nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả”[4]. Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải tập trung đánh vào gốc rễ của nó, đó là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Tổng Bí thư khẳng định: đây là cuộc chiến đấu quan trọng, to lớn, lâu dài, phải làm sao để trở thành xu thế không thể đảo ngược. Đảng cầm quyền, Nhà nước thực thi quyền lực luôn đứng trước nguy cơ lạm quyền, tha hóa, thoái hóa, biến chất, rất dễ mắc phải “khuyết tật bẩm sinh” đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là vấn đề hết sức quan trọng, cấp bách trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cả hệ thống chính trị, được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao, được nhiều chính khách và học giả quốc tế ghi nhận. Còn nhớ một sự việc chưa xa, ngày 29/11/2017, khi tiếp xúc cử tri các quận Tây Hồ, Hoàn Kiếm, Ba Đình Thành phố Hà Nội để báo cáo kết quả kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chân thành nói: Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua được triển khai bài bản, nghiêm túc, đạt được một số kết quả quan trọng nhưng còn nhiều việc phải làm. Chúng ta không chỉ kêu gọi suông, giáo dục tư tưởng suông… Phải nhốt quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp. Giao cho anh quyền thì cũng phải có cái roi, cái đòn để anh không thể, không dám và không muốn làm sai, làm ẩu… Chúng ta phải đi từng bước vững chắc. Tổng Bí thư thường nói với các đồng chí bên cạnh mình: sinh thời, Bác Hồ rất nghiêm minh, kiên quyết khi xem xét và xử lý cán bộ tham nhũng, tiêu cực, sống xa hoa, lãng phí trong khi đất nước đang dấu tranh gian khổ, đồng bào và chiến sĩ đang chịu bao tổn thất, hy sinh. Việc xử lý nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, rất cao như vừa qua là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, nhưng không thể khác, phải làm kiên quyết, kiên trì vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật Nhà nước, đáp ứng lòng mong mỏi, niềm tin của nhân dân, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì sự tồn vong của chế độ. Tổng Bí thư nhắc lại câu ca dân gian: “Cấp trên ở chẳng chính ngôi/Cho nên cấp dưới chúng tôi hỗn hào”. Nhà sử học Dương Trung Quốc cho biết, khi đọc bản kê khai tài sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi thấy ông rất liêm khiết, trong sạch. Mức lương của ông không cao, tiền tiết kiệm và tài sản không có gì đáng kể. Ngoài căn nhà công vụ theo quy định của Đảng và Nhà nước, ông có hơn 300 m2 đất ở quê nhà do ông bà tổ tiên để lại”. 

Ngọn lửa ấy, ngôi sao ấy sáng mãi, cháy mãi 
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất tâm đắc với những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu - nhà thơ mà ông đã chọn cho đề tài luận văn tốt nghiệp đại học của mình hơn 60 năm trước, khi Tố Hữu viết về Bác Hồ lúc Bác đi xa “Mong manh áo vải hồn muôn trượng/ Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”. Tổng Bí thư nói tiếp “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tất cả vì sự nghiệp chung, đó mới là người cộng sản chân chính!".

Ông cũng hay nhắc nhớ về một câu lời bình của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong phim "Hồ Chí Minh - Chân dung một con người" – giải Bông sen Vàng Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 9, năm 1990: "Trên ngực áo này không một tấm huân chương. Và dưới làn áo mỏng này có một trái tim", sâu sắc lắm, thấm thía lắm !".

Thời còn là sinh viên lớp Ngữ Văn khóa 8, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và những năm tháng làm nghiên cứu sinh bậc tiến sĩ ở Liên Xô, đồng chí Nguyễn Phú Trọng ghi nhớ mãi câu nói của nhân vật chính Pavel Korchagin trong tác phẩm "Thép đã tôi thế đấy" của nhà văn Nga Ostrovsky: "Ta có thể tự hào rằng, tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời - sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người, mang lại hạnh phúc cho nhân dân".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất xứng đáng là Người Cộng sản Chân chính, Người học trò rất xuất sắc, gương mẫu, trung thành, tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo xuất sắc, gương mẫu lớp trước của Đảng ta, Nhân dân ta. Chúng tôi - những cán bộ, đảng viên, quần chúng, tất cả những người Việt Nam ở trong, ngoài nước và bạn bè quốc tế xin vĩnh biệt Ông, tự hào về Ông, biết ơn Ông, học tập Ông !

Ông là Ngọn lửa ấm áp, đỏ rực, là Ngôi sao sáng chói, sáng mãi, không bao giờ tắt!
----------------------
[1] Sách "Thời gian và nhân chứng" (Hồi ký của các nhà báo, Hà Minh Đức chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr 488.
[2] Sách đã dẫn 1, tr 448,449
[3] Sách "Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh", Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 15
[4] Sách đã dẫn2 (SDD2), tr. 16,
[5] Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên TGĐ Đài TNVN. Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

Yêu nước ST.

Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung

 

Không chỉ làm tốt công tác đào tạo nhân viên chuyên môn kỹ thuật bậc trung cấp, sơ cấp và lái xe ô tô các hạng cho ngành Kỹ thuật toàn quân khu vực phía Nam, Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung, Tổng cục Kỹ thuật còn thực hiện hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo”, làm tốt công tác dân vận, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng nhân dân địa phương.

Nhiều năm qua, hình ảnh cán bộ, chiến sĩ áo xanh-Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung đã trở nên quen thuộc với người dân xã Vĩnh Phương, TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa bởi bất cứ lúc nào người dân gặp khó khăn, bộ đội đều sẵn sàng giúp đỡ. Còn nhớ, hồi giữa tháng 11-2023, do ảnh hưởng mưa bão, Trường Tiểu học Vĩnh Phương I bị ngập, khiến việc học tập của các em học sinh bị đình trệ. Nắm được thông tin, cán bộ, chiến sĩ Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung đã có mặt kịp thời, cùng với các lực lượng tại địa phương để khắc phục hậu quả mưa bão. Cô giáo Dương Minh Hiệp, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Vĩnh Phương I bày tỏ: “Các anh bộ đội Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung luôn đồng hành giúp nhà trường trong mọi việc khó, xung kích trong mọi nhiệm vụ, thể hiện nghĩa cử cao đẹp, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”.

Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung
 
Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung
 

Cán bộ, chiến sĩ Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung giúp Trường Tiểu học Vĩnh Phương I khắc phục hậu quả mưa bão.

Thời gian qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Nhà trường kịp thời chỉ đạo hướng dẫn cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, khoa, đơn vị tổ chức phát động và triển khai thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng “Đơn vị dân vận tốt”, Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau” sát với đặc điểm tình hình nhiệm vụ. Trao đổi với chúng tôi, Đại tá Dương Văn Như, Chính ủy Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung cho biết: “Nhà trường đã gắn kết quả thực hiện phong trào thi đua “Dân vận khéo” với Phong trào Thi đua Quyết thắng, phong trào thi đua và các cuộc vận động của các ngành. Trên cơ sở nội dung, chỉ tiêu của phong trào thi đua, phát huy tốt tinh thần chủ động sáng tạo của các cơ quan, khoa, đơn vị phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương nơi đóng quân xác định nội dung, biện pháp cụ thể phù hợp với khả năng để triển khai thực hiện, giúp nhân dân phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, khắc phục hậu quả thiên tai, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn đóng quân”.

Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung
 Đoàn viên, thanh niên Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung tham gia chiến dịch thanh niên tình nguyện hè tại xã Giang Ly (huyện Khánh Vĩnh).

Từ năm 2019-2024, Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung đã tham gia nhiều hoạt động dân vận ở các địa phương trên địa bàn đóng quân, khắc phục hậu quả thiên tai. Nhà trường tổ chức các lực lượng tiến hành nạo vét trên 50 km kênh mương nội đồng, công trình giao thông nông thôn, tặng quà hỗ trợ xóa đói giảm nghèo xã Giang Ly (huyện Khánh Vĩnh), xã Vĩnh Phương (TP Nha Trang) với tổng số tiền trên 300 triệu đồng và xây dựng 1 nhà tình nghĩa trị giá 250 triệu đồng.

Nhà trường tổ chức cho đoàn viên, thanh niên tham gia chiến dịch thanh niên tình nguyện hè, vệ sinh môi trường, tặng hàng trăm suất quà, hơn 500 bộ quần áo, 80 nệm và 200 cặp sách. Ngoài ra, còn tôn tạo các công trình phúc lợi, văn hóa xã hội, hỗ trợ bò giống, tổ chức hoạt động sinh hoạt hè, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao. Trong đợt đại dịch Covid-19, nhà trường đã phối hợp với chính quyền địa phương nơi đóng quân tham gia các chốt hỗ trợ phòng, chống dịch trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa; điều động hàng trăm chuyến xe chở lương thực, thực phẩm, bảo đảm hơn 2.000 suất ăn cho các chốt trực trên địa bàn đóng quân, các đoàn công tác trong và ngoài Quân đội.

Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung
 Đại diện Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung tặng quà các hộ nghèo xã Vĩnh Phương (TP Nha Trang) dịp Tết Nguyên đán 2024.

Theo Thượng tá Trần Văn Nam, Chủ nhiệm Chính trị Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung, để công tác dân vận đạt được hiệu quả, cấp ủy các cấp cần làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, thông tư, hướng dẫn của cấp trên về công tác dân vận. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để làm tốt công tác dân vận. Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, hợp tác giữa Nhà trường và đơn vị kết nghĩa. Bên cạnh đó, chủ động, kịp thời phát hiện, đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và chia rẽ mối quan hệ đoàn kết quân dân.

Dân vận khéo ở Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung
 Đại diện Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung tặng quà nhân kỷ niệm 77 năm Ngày Thương binh- Liệt sĩ.

Từ hiệu quả trong phong trào thi đua “Dân vận khéo”, Trường Trung cấp Kỹ thuật miền Trung được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen vì đã đạt thành tích xuất sắc trong phòng, chống dịch Covid-19. UBND tỉnh Khánh Hòa tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong nhiệm vụ công tác dân vận năm 2021, 2022, 2023; cùng nhiều khen thưởng, cờ thi đua của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Kỹ thuật vì đã hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ chính trị hằng năm.

Lữ đoàn Pháo Phòng không 226, Quân khu 9: Tạo đà vững chắc để huấn luyện chuyên sâu

 

Sau huấn luyện chiến sĩ mới, Lữ đoàn Pháo phòng không 226, Quân khu 9 bước vào huấn luyện chuyên ngành nhằm tạo lực lượng kế tiếp cho nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu và tham gia diễn tập, hội thi. Quá trình huấn luyện, đơn vị thường xuyên kiểm tra, kịp thời uốn nắn, sửa tập cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần củng cố kiến thức, tạo nền tảng vững chắc cho huấn luyện chuyên sâu thời gian tới.

Binh nhì Châu Nguyễn Hoài, Chiến sĩ Khẩu đội 6, Trung đội 2, Đại đội 571, Tiểu đoàn 145 được biên chế pháo thủ số 2 có nhiệm vụ quay tầm bắt, bám sát mục tiêu. Những ngày đầu luyện tập, Nguyễn Hoài bắt, bám sát mục tiêu rất khó khăn, bị lệch nhiều, bởi anh chưa sử dụng thuần thục máy tầm.

“Các anh hướng dẫn tôi quay tầm không được giật cục, quay đều, mắt liên tục bám sát mục tiêu. Quá trình luyện tập, anh em còn sử dụng sào vác gắn máy bay mô hình cơ động ra vào trận địa giúp tôi ngày càng hoàn thiện kỹ năng bắt, bám sát mục tiêu”, Nguyễn Hoài cho biết.

Lữ đoàn Pháo Phòng không 226, Quân khu 9: Tạo đà vững chắc để huấn luyện chuyên sâu

Đại úy Nguyễn Phú Hữu, Đại đội trưởng Đại đội 571, Tiểu đoàn 145, Lữ đoàn Pháo phòng không 226 (Quân khu 9) hướng dẫn bộ đội thao tác trên pháo 37mm. 

Còn sau mỗi buổi học, Binh nhì Nguyễn Khắc Duy, Chiến sĩ Khẩu đội 1, Trung đội 1, Đại đội 571, Tiểu đoàn 145 thường cùng anh em rút kinh nghiệm. Khắc Duy chia sẻ: “Chúng tôi thảo luận, chỉ ra hạn chế của nhau như: Khẩu lệnh nhỏ, động tác lên, xuống mâm pháo chậm,… để buổi học sau luyện tập tốt hơn. Đồng thời, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm để mỗi người không những biết số mình mà còn đảm nhiệm nhiệm vụ của số khác”.

Điểm thuận lợi là khung biên chế huấn luyện chiến sĩ mới của Lữ đoàn vẫn giữ nguyên, nhờ vậy cán bộ, chiến sĩ khá hiểu nhau khi luyện tập, nhất là khả năng hiệp đồng xử trí tình huống.

Trung sĩ Nguyễn Hiếu Nghĩa, Khẩu đội trưởng Khẩu đội 6, Trung đội 2, Đại đội 571, Tiểu đoàn 145 cho biết: “Khẩu đội tôi quản lý hiện còn 8 đồng chí, 2 đồng chí đang học Khẩu đội trưởng chuyên ngành phòng không tại Trường Quân sự Quân khu. Quản lý từ lúc tân binh nên tôi hiểu sở trường của anh em, đây là cơ sở giúp tôi tham mưu với cấp trên biên chế vị trí các số phù hợp”.

Lữ đoàn Pháo Phòng không 226, Quân khu 9: Tạo đà vững chắc để huấn luyện chuyên sâu
Ngoài thời gian học chính khóa, đơn vị còn tổ chức cho bộ đội ôn luyện ngoài giờ về tính năng kỹ, chiến thuật, lý thuyết binh khí. 

Lữ đoàn tổ chức huấn luyện toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, sát đặc điểm, nhiệm vụ, phù hợp với vũ khí, trang bị trong biên chế. Trong đó, lấy huấn luyện kỹ thuật chuyên ngành làm cơ sở, huấn luyện chiến thuật làm trung tâm và huấn luyện cán bộ làm khâu then chốt.

Trung úy Nguyễn Thanh Sang, Trung đội trưởng Trung đội 1, Đại đội 571, Tiểu đoàn 145 nêu biện pháp: “Chúng tôi huấn luyện từ đơn giản đến phức tạp, từ trực quan đến hành động cụ thể, từ động tác cá nhân đến hiệp đồng trong khẩu đội, trung đội. Bên cạnh đó, Khẩu đội trưởng có sổ ghi chép chỉ số luyện tập của từng pháo thủ. Sau mỗi lần tập, Khẩu đội trưởng nhận xét điểm mạnh, yếu của từng pháo thủ, đề ra biện pháp cho lần tập tiếp theo. Thứ 6 hằng tuần, Trung đội tổ chức hội thao giữa các khẩu đội, nhằm đánh giá chất lượng luyện tập của bộ đội”.

Để bộ đội nắm chắc nội dung, đơn vị tập trung huấn luyện nâng cao trình độ thao tác pháo thủ, hiệp đồng chiến đấu trong các tình huống từ đơn giản đến phức tạp; tăng cường huấn luyện bắt, bám sát mục tiêu trong điều kiện ban đêm và thời tiết xấu; huấn luyện cơ động nhanh, phòng tránh, đánh trả các đòn tập kích đường không của địch.

Đại úy Nguyễn Phú Hữu, Đại đội trưởng Đại đội 571, Tiểu đoàn 145 cho biết: “Những ngày đầu, bộ đội sẽ được huấn luyện toàn diện ở các số. Sau buổi kiểm tra, đánh giá, chúng tôi biên chế cố định anh em đảm nhận vị trí theo khả năng của mình. Qua kiểm tra đánh giá lý thuyết về binh khí, khả năng thao tác, hiệp đồng xử trí tình huống, chúng tôi sẽ huấn luyện chuyên sâu với mục tiêu bóng bay, máy bay mô hình nhằm nâng cao trình độ của bộ đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”.

Lữ đoàn Pháo Phòng không 226, Quân khu 9: Tạo đà vững chắc để huấn luyện chuyên sâu
Trung sĩ Nguyễn Hiếu Nghĩa rút kinh nghiệm sau buổi luyện tập. 

Đặc thù nhiệm vụ của đơn vị phòng không, cán bộ, chiến sĩ luôn sẵn sàng chiến đấu cao, tác động không nhỏ đến tư tưởng, tâm lý, sức khỏe của bộ đội. Chính vì vậy, Đảng ủy, Ban chỉ huy Lữ đoàn luôn đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng, giúp bộ đội nhận thức đúng tình hình, đối tượng tác chiến, âm mưu, thủ đoạn, tính chất, đặc điểm tác chiến đối không, nhất là khi địch sử dụng vũ khí công nghệ cao.

“Kết thúc huấn luyện giai đoạn 1, chúng tôi tổ chức tập huấn cán bộ, bồi dưỡng đội mẫu, giúp anh em nắm chắc nội dung ngay từ những ngày đầu học chuyên ngành phòng không. Ngoài thời gian học chính khóa, đơn vị còn tổ chức ôn luyện ngoài giờ về tính năng kỹ, chiến thuật, lý thuyết binh khí… Năm 2024, ngoài tham gia diễn tập hiệp đồng quân binh chủng, đơn vị còn tham gia Hội thi lực lượng phòng không lục quân toàn quân năm 2024 khu vực phía Nam. Vì vậy, đơn vị chú trọng huấn luyện, rèn luyện bộ đội từ những ngày đầu, đưa ra nhiều tình huống để rèn luyện bộ đội sát thực tế chiến đấu, đây là cơ sở giúp đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao”, Trung tá Lê Hồng Ngoan, Phó tham mưu trưởng Lữ đoàn Pháo Phòng không 226 khẳng định.

Để trang bị vật tư phát huy tối đa hiệu quả

 

Những giải pháp nhằm phát huy tối đa hiệu quả của vật tư trang bị tại các cơ quan, đơn vị trong lực lượng Cảnh sát biển là nội dung chính được trao đổi tại Hội nghị tập huấn công tác vật tư công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) năm 2024 do Cảnh sát biển Việt Nam vừa tổ chức.

Trao đổi với chúng tôi, Đại tá Bùi Đại Hải, Phó chủ nhiệm Chính trị Cảnh sát biển Việt Nam cho biết: Những năm qua, lượng vật tư CTĐ, CTCT được trang bị cho các đơn vị Cảnh sát biển tương đối lớn và hiện đại. Xác định yếu tố con người quyết định đến chất lượng, hiệu quả của các loại vật tư. Do vậy, Đảng ủy, Cục Chính trị Cảnh sát biển đã luôn chú trọng nâng cao trình độ khai thác, năng lực vận hành các loại vật tư cho cán bộ, nhân viên phụ trách nhằm phát huy hiệu quả cao nhất của vật tư CTĐ, CTCT tại các đơn vị trong lực lượng.

Để trang bị vật tư phát huy tối đa hiệu quả
 
Để trang bị vật tư phát huy tối đa hiệu quả
 Các chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật chụp ảnh, ghi hình từ máy ảnh, camera kỹ thuật số công nghệ cao.

Theo dõi hội nghị, chúng tôi nhận thấy các đồng chí học viên tham gia tập huấn tự học hỏi kỹ năng sử dụng trang thiết bị vật tư từ thói quen, kinh nghiệm của đồng nghiệp trước truyền lại, chưa được đào tạo bài bản, chuyên sâu nên chưa khai thác hết tính năng, làm giảm độ bền các loại vật tư, đôi khi còn gặp trở ngại trong thực hiện nhiệm vụ.

Trước thực tế đó, Cục Chính trị Cảnh sát biển đã nghiên cứu, phối hợp xây dựng nội dung chương trình, mời các chuyên gia có kinh nghiệm để tổ chức tập huấn một cách hiệu quả nhất. Nội dung tập huấn từ cơ bản đến nâng cao theo từng chuyên đề, tập trung vào phương pháp sử dụng, bảo quản các loại camera, máy ảnh kỹ thuật số, máy chiếu HD, máy phóng hình; kỹ năng cơ bản về nhiếp ảnh; kỹ thuật ghi hình, dựng phim; cách sử dụng và bảo quản hệ thống tăng âm truyền thanh, đấu ghép hệ thống âm thanh, ánh sáng phục vụ các hội nghị và hoạt động biểu diễn nghệ thuật.

Hội nghị tập huấn lần này tập trung vào thực hành là chính nên ban tổ chức đã bố trí vật tư phục vụ trực quan để học viên vừa nắm bắt lý thuyết vừa có điều kiện thực hành tại chỗ. Đồng thời, đội ngũ chuyên gia, giàu kinh nghiệm đã truyền đạt cặn kẽ, hướng dẫn thuần thục các kỹ năng thao tác, bảo quản, bảo dưỡng, giữ gìn các trang bị; cầm tay chỉ việc, giúp học viên tự tin sử dụng thành thạo các phương tiện phục vụ hoạt động văn hóa, tinh thần trong đơn vị.

Để trang bị vật tư phát huy tối đa hiệu quả
Học viên thực hành đấu ghép hệ thống tăng âm truyền thanh. 

Trung úy QNCN Nguyễn Văn Mẫn, nhân viên Ban Tuyên huấn, Phòng Chính trị, Bộ tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4 chia sẻ: Đơn vị của đồng chí đóng quân tại Phú Quốc, Kiên Giang. Địa bàn nơi đây có độ ẩm cao, mưa thường xuyên cùng với gió biển nên công tác bảo quản các trang thiết bị, vật tư, nhất là hệ thống máy quay, máy ảnh rất được chú trọng. Qua đợt tập huấn này, đồng chí Mẫn đã thu được nhiều kinh nghiệm quý, nhất là về công tác bảo quản máy quay, máy ảnh trước, trong và sau khi tác nghiệp.

Hội nghị tập huấn diễn ra trong gần 1 tuần, tuy thời gian tập huấn ngắn song nhiều đồng chí học viên đã thực hành dựng một bộ phim tài liệu có chất lượng, điều chỉnh hệ thống âm thanh, ánh sáng của các thiết bị hiện đại, bảo đảm phục vụ tốt hơn khi đơn vị tổ chức hội nghị, sự kiện dù ở trong nhà hay ngoài trời.

Phát biểu tại hội nghị tập huấn, Thiếu tướng Trần Văn Xuân, Phó chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị Cảnh sát biển Việt Nam bày tỏ tin tưởng, với những kiến thức mới, kinh nghiệm của các chuyên gia được tích lũy trong hội nghị, cùng với sự sáng tạo trong học tập và niềm yêu thích công việc, cán bộ, nhân viên phụ trách tại đơn vị sẽ phát huy tối đa hiệu quả trong khai thác, sử dụng vật tư CTĐ, CTCT bảo đảm đời sống văn hóa tinh thần của bộ đội. Qua đó, góp phần quan trọng vào xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm tiền đề hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.