Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954: Mốc son lịch sử của nền ngoại giao Việt Nam

 Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Trải qua 70 năm, những bài học từ đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ vẫn còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Hiệp định Giơ-ne-vơ

Với những thắng lợi to lớn của quân và dân Việt Nam trên chiến trường, cuối năm 1953, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận đối ngoại nhằm tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chống thực dân của nhân dân Việt Nam, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 để đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và toàn Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi nhân dân Pháp sát cánh cùng nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp vì lợi ích chung của hai nước là độc lập, tự do, dân chủ và hòa bình. Người cũng tán thành Nghị quyết yêu cầu chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương của Hội đồng Hòa bình thế giới (tháng 11-1953). Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Thụy Điển vào ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”; “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.

Đúng một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu bàn về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Trải qua 75 ngày đàm phán căng thẳng và phức tạp với 31 phiên họp các cấp, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết vào ngày 21-7-1954. Cùng với bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương, bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam đã khẳng định độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định không đưa quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào Việt Nam, xác định các giới tuyến quân sự chỉ có tính tạm thời và sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do,...

Ngày 22-7-1954, trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ thành công”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Với Hiệp định Sơ bộ năm 1946, Việt Nam mới chỉ được công nhận là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã được khẳng định trong một điều ước quốc tế. Đây là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn, kết tinh thành quả đấu tranh quật cường và bền bỉ của quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược.

Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, chấm dứt hoàn toàn sự đô hộ của chủ nghĩa thực dân kiểu cũ kéo dài gần 100 năm tại Việt Nam, mở ra cục diện chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Đó là, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để tiến tới thực hiện trọn vẹn mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Về đối ngoại, Hội nghị Giơ-ne-vơ là hội nghị quốc tế đa phương lớn đầu tiên Việt Nam tham dự để đàm phán và ký kết điều ước quốc tế với sự tham gia trực tiếp của các cường quốc. Trong lần tham dự đầu tiên này, Việt Nam không chỉ khẳng định vị thế một quốc gia độc lập, có chủ quyền và yêu chuộng hòa bình, mà còn thể hiện sáng ngời tâm thế, trí tuệ, bản lĩnh và cốt cách của một dân tộc hòa hiếu có bề dày hàng nghìn năm văn hiến với ý chí quật cường bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Bên cạnh đó, thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ đã tạo nguồn cảm hứng và cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa trên khắp năm châu vì độc lập, tự do, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, mở đầu cho sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Từ năm 1954 đến năm 1964, có đến 17/22 thuộc địa của Pháp giành được độc lập; riêng trong năm 1960, có tới 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập.

Nhân tố dẫn đến thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ

Trước hết, nhân tố quyết định là nhờ đường lối cách mạng đúng đắn, sự lãnh đạo, dẫn dắt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trên cơ sở đánh giá chính xác tình hình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chủ trương, đường lối và sách lược cách mạng đúng đắn, mở mặt trận ngoại giao chủ động tiến công, phối hợp chặt chẽ và thống nhất với các mặt trận chính trị, quân sự để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thắng lợi tại Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt nguồn từ khát vọng hòa bình cháy bỏng, chủ nghĩa yêu nước anh hùng cùng truyền thống văn hóa, trí tuệ và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hiệp định Giơ-ne-vơ là kết tinh thành quả đấu tranh gian khổ và hy sinh to lớn của quân và dân Việt Nam, từ Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947 đến Chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 và cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân năm 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Giơ-ne-vơ còn nhờ sự đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của các nước bạn Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.

Nhìn lại 70 năm ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, nhân dân Việt Nam biết ơn vô hạn công lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối cách mạng cũng như sự hy sinh vô cùng to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Nhân dân Việt Nam thành kính tri ân các bậc lão thành tham gia đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ, trong đó có những nhà ngoại giao xuất sắc trong thời đại Hồ Chí Minh, như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Hà Văn Lâu và nhiều cán bộ ngoại giao ưu tú khác. Chúng ta trân trọng và ghi nhớ tình đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ quý báu của bạn bè quốc tế dành cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

Những bài học ngoại giao quý báu, còn nguyên giá trị trong bối cảnh hiện nay

Cùng với Hiệp định Sơ bộ năm 1946 và Hiệp định Pa-ri năm 1973, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là một mốc son trong lịch sử của ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Quá trình đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ chứa đựng nhiều bài học sâu sắc, thể hiện bản sắc độc đáo của trường phái đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Pa-ri năm 1973 cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trước hết, đó là bài học về kiên định độc lập, tự chủ trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây vừa là bài học, vừa là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phối hợp chặt chẽ với các mặt trận chính trị và quân sự, mặt trận ngoại giao trên cơ sở giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, luôn giữ thế chủ động tiến công trong các cuộc đấu trí cam go trên bàn đàm phán, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn làm rạng rỡ lịch sử dân tộc, từ đàm phán bảo vệ nền độc lập sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đến đàm phán, ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và đàm phán, ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973, tạo tiền đề để nhân dân Việt Nam thực hiện khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển phồn vinh.

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia; có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và đối tác chiến lược với tất cả các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng là thành viên tích cực, có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế lớn, như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM)... Nền tảng quan hệ và tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng được nâng lên tầm cao mới, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, đan xen và gắn kết lợi ích ngày càng chặt chẽ. Vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Có thể khẳng định, chưa bao giờ Việt Nam có cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi và vững chắc như ngày nay.

Thứ hai, bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dựa trên nền tảng gắn kết đại đoàn kết toàn dân tộc với đoàn kết quốc tế. Chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế phải rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ và ngày càng được củng cố vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển đất nước. Trong suốt sự nghiệp giải phóng dân tộc nói chung và đàm phán, ký kết, thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ nói riêng, bên cạnh phát huy sức mạnh toàn dân tộc và giương cao ngọn cờ chính nghĩa, Việt Nam không ngừng mở rộng đoàn kết quốc tế trên tinh thần quốc tế trong sáng, từ đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Vận dụng sáng tạo bài học này trong công cuộc đổi mới hiện nay, Việt Nam đã triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đi đôi với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Nhờ đó, đã khơi dậy và phát huy nhiều nguồn lực trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài, nhất là về thị trường, vốn đầu tư, tri thức và khoa học - công nghệ, góp phần quan trọng tăng cường tiềm lực, vị thế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã nằm trong nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài, có quan hệ đối ngoại rộng mở, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.

Thứ ba, bài học về kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song cơ động, linh hoạt trong sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đây vừa là bài học, vừa là phương pháp và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, thể hiện bản sắc độc đáo của nền ngoại giao Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”; cái gốc “bất biến” trong đàm phán, ký kết và thực thi Hiệp định Giơ-ne-vơ là Việt Nam độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; “vạn biến” là trong lúc chưa thể thực hiện trọn vẹn mục tiêu chiến lược, thì linh hoạt, biến hóa trong sách lược để rồi kiên quyết, kiên trì từng bước đạt tới mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

Bài học này từ Hội nghị Giơ-ne-vơ tiếp tục được kế thừa, vận dụng sáng tạo và phát triển để xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Trước những biến động phức tạp trên thế giới hiện nay, Việt Nam đã xử lý đúng đắn các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở kiên định nguyên tắc, linh hoạt trong sách lược và sáng tạo trong ứng xử. Nhờ đó, Việt Nam vừa giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vừa thúc đẩy hợp tác để tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. 

Thứ tư, bài học về phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại, sử dụng đối thoại và đàm phán hòa bình để giải quyết bất đồng, xung đột trong quan hệ quốc tế. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương giải quyết chiến tranh bằng thương lượng hòa bình trong điều kiện có thể. Cùng với việc mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân năm 1953 - 1954, Đảng đã quyết định dùng đàm phán hòa bình làm phương thức kết thúc chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương. Chủ trương đúng đắn này xuất phát từ tư tưởng hòa hiếu và nhân văn đã thấm sâu vào văn hóa dân tộc Việt Nam “dập tắt muôn đời lửa chiến tranh; mở nền muôn thuở thái bình”.

Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong công cuộc đổi mới, Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên các bình diện song phương và đa phương, Việt Nam luôn kiên trì thúc đẩy đồng thuận, đối thoại và hợp tác, giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Việt Nam nêu cao tinh thần hòa hiếu, xử lý đúng đắn và hài hòa các mối quan hệ đối ngoại; chủ động, tích cực thúc đẩy đối thoại, đàm phán và hợp tác giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ với các đối tác trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong các vấn đề quốc tế và khu vực, Việt Nam luôn thúc đẩy cách tiếp cận đa phương và chủ nghĩa nhân văn, đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào duy trì hòa bình, ổn định và an ninh quốc tế, như cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sĩ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc ở châu Phi, tích cực tham gia hòa giải, hỗ trợ nhân đạo và tìm giải pháp cho các xung đột trên thế giới,...

Thứ năm, bài học về đặc biệt coi trọng nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình để có những quyết sách đối ngoại đúng đắn. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo đối ngoại qua các thời kỳ, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, không ngừng đổi mới, phát triển tư duy, nhận thức về đối ngoại. Vận dụng nhuần nhuyễn phương châm “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến) trong đánh giá, dự báo tình hình quốc tế và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương, sách lược phù hợp đối với Hội nghị Giơ-ne-vơ nhằm bảo vệ cao nhất các lợi ích dân tộc cơ bản của Việt Nam trong điều kiện và khả năng của Việt Nam tại thời điểm đó.

Thế giới ngày nay đang trải qua những biến động lớn, xuất hiện nhiều vấn đề chưa từng có tiền lệ, cần nhạy bén đánh giá đúng xu thế phát triển của tình hình, nhận diện chính xác thời cơ và định vị đúng vị thế chiến lược của đất nước. Với thế và lực của Việt Nam chưa bao giờ có được như ngày nay, cần mạnh dạn vượt ra khỏi tư duy lối mòn, dám đổi mới sáng tạo, tìm cách làm mới vì lợi ích quốc gia - dân tộc; trên cơ sở đó, không ngừng hoàn thiện đường lối đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những bài học trên, nhiều bài học quý báu từ Hiệp định Giơ-ne-vơ cần tiếp tục được nghiên cứu, đánh giá và tổng kết, như bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng đối với mặt trận đối ngoại và ngoại giao; về xây dựng và phát triển lực lượng ngoại giao, trong đó xây dựng cán bộ ngoại giao là then chốt; về xử lý đúng đắn quan hệ với các nước láng giềng và các nước lớn, giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế, giữa “thế” và “lực” trong quan hệ quốc tế, giữa chiến lược và sách lược, giữa chính trị - quân sự và ngoại giao,...

Kỷ niệm 70 năm Ngày ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ là dịp ôn lại và làm sâu sắc hơn tầm vóc, ý nghĩa của một mốc son lịch sử hào hùng của dân tộc và nền ngoại giao Việt Nam, khơi dậy mạnh mẽ lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và ý chí, nỗ lực vươn lên của thế hệ hôm nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao Việt Nam và tinh thần Hiệp định Giơ-ne-vơ, toàn ngành ngoại giao cùng các ngành, các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, nỗ lực xây dựng ngành ngoại giao vững mạnh toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

 

 

“Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”

 Tiếp nối những nỗ lực, đóng góp, cống hiến và noi theo tấm gương sáng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, các thế hệ hôm nay và mai sau hãy phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” và những thành tựu đã đạt được, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững và phát huy hơn nữa cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ta vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết với tiêu đề “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” của đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ:

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, một tấm gương sáng ngời về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hiện thân đầy đủ phẩm chất, tài năng, bản lĩnh, trí tuệ của thế hệ lãnh đạo Việt Nam thời kỳ đổi mới, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có uy tín, tầm ảnh hưởng lớn cả trong và ngoài nước, đóng góp, cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, cũng như hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Trong niềm tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta bồi hồi nhớ lại và càng trân trọng tấm gương đạo đức sáng ngời, người có nhân cách lớn với tư duy lý luận sắc sảo, để lại những di sản lớn và đóng góp, cống hiến vô cùng to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người đầu tiên nhận định, được Đại hội XIII của Đảng thông qua và đưa vào Nghị quyết Đại hội: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều giai đoạn cách mạng, nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên cơ sở không ngừng phát triển và hoàn thiện lý luận, tổ chức thực hiện về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - Đó là kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và kế thừa tinh hoa trí tuệ của nhân loại; kiên định mục tiêu độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, được thể hiện rõ qua các nghị quyết của Đảng qua các kỳ đại hội, các nghị quyết của Trung ương và được khái quát, hệ thống hóa trong những tác phẩm, công trình lý luận lớn của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đặc biệt là bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong suốt thời gian qua, cùng với mục tiêu kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chúng ta tập trung xây dựng, củng cố ba yếu tố nền tảng là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; với quan điểm xuyên suốt lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, là động lực và là nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Qua thực tiễn gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự vào cuộc quyết liệt và sự nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta trong triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được khẳng định bằng những kết quả cụ thể trên các lĩnh vực và đó cũng chính là những minh chứng sống động, thuyết phục cho tổng kết, đánh giá khái quát của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

1. Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; tập trung thực hiện ba đột phá chiến lược về thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; chú trọng giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Đây cũng là định hướng chỉ đạo quan trọng được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh khi tham dự các hội nghị Chính phủ với các địa phương triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội hằng năm từ năm 2017 đến năm 2023 và được thể hiện rõ trong các kết luận của Trung ương về kinh tế - xã hội hằng năm. Chúng ta về cơ bản đã đạt được mong muốn của Đồng chí về kết quả năm sau phải cao hơn năm trước trên tất cả các lĩnh vực; trong đó nền kinh tế đã có những chuyển biến rõ nét với những thành tựu rất đáng tự hào, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, nhất là trong những năm gần đây khi chúng ta đối diện với tình hình khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi.

Sau gần 40 năm đổi mới, từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.  Quy mô nền kinh tế đạt khoảng 430 tỷ USD  năm 2023, đứng thứ 35 thế giới,  tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Lạm phát được kiểm soát chỉ còn khoảng 4%/năm từ mức “phi mã” 3 con số của giai đoạn đầu đổi mới. Kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2023 đạt 681 tỷ USD; xuất siêu 8 năm liên tiếp; thuộc nhóm 20 nước có quy mô thương mại hàng đầu thế giới. Từ nước thiếu hụt lương thực trầm trọng, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới; năm 2023 xuất khẩu trên 8,1 triệu tấn gạo, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu; nông sản Việt Nam đã có mặt tại hơn 160 quốc gia. An ninh năng lượng, việc làm, cân đối cung cầu lao động được bảo đảm. Bội chi ngân sách nhà nước, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia được kiểm soát tốt; nợ công năm 2023 ở mức khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều giới hạn quy định.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; năm 2023, tỷ trọng khu vực nông nghiệp chỉ còn khoảng 12%. Chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế tri thức. Môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện; Việt Nam tiếp tục là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài; năm 2023 thu hút được trên 39,4 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 23,2 tỷ USD, lọt vào nhóm 20 nước dẫn đầu thế giới về thu hút FDI; lũy kế đến nay có 40,8 nghìn dự án đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký khoảng 487 tỷ USD. Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất, nằm trong chuỗi cung ứng khu vực, toàn cầu của nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, như Samsung, LG, Intel, Apple, GE, Foxconn… Khu vực tư nhân được khuyến khích phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế với khoảng 900 nghìn doanh nghiệp hoạt động.

Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được ưu tiên nguồn lực và tập trung đầu tư, tạo đột phá cho phát triển, nhất là hạ tầng giao thông chiến lược, hạ tầng đô thị, hạ tầng năng lượng, hạ tầng viễn thông, hạ tầng giáo dục, y tế, ứng phó với biến đổi khí hậu; đến nay đã hoàn thành và đưa vào sử dụng trên 2.000 km đường cao tốc, phấn đấu đến năm 2025 đạt trên 3.000 km; đang triển khai mở rộng các sân bay Tân Sơn Nhất, Nội Bài, xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành với tổng công suất khi hoàn thành toàn bộ lên đến 100 triệu hành khách/năm, tổng vốn đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng và xây dựng các cảng biển mang tầm khu vực, quốc tế cùng với hệ thống giao thông thuỷ nội địa; đồng thời đang tích cực chuẩn bị xây dựng, phê duyệt chủ trương phát triển hệ thống đường sắt tốc độ cao cho giai đoạn 2025 - 2030.

2. Đặc biệt quan tâm và luôn sâu sát chỉ đạo công tác đối ngoại, ngoại giao, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, ngày 19-12-2023, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Đối ngoại và ngoại giao đã phát huy thế mới và lực mới, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, củng cố vững chắc hơn cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”. Trong suốt những năm qua, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến rất phức tạp, chúng ta đã luôn kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại; là bạn tốt, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và trên thế giới; tập trung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, thực chất, hiệu quả và đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng; uy tín, vị thế của đất nước trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận kéo dài trong 30 năm, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 30 quốc gia, đặc biệt là quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhiều nước G20. Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Trong những năm gần đây, hầu hết nguyên thủ, lãnh đạo các nước lớn và các tổ chức quốc tế quan trọng, trong đó có Liên hợp quốc, đều đến thăm, làm việc và có ấn tượng tốt về đất nước, con người Việt Nam; đồng thời lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chuyến thăm thành công đến các nước, đối tác trên khắp các châu lục. Trong thời gian gần đây, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Tổng thống của 3 cường quốc lớn là Trung Quốc, Mỹ và Nga. Những nỗ lực này đã thúc đẩy mạnh mẽ đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, góp phần tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác chặt chẽ, hiệu quả trên các lĩnh vực, nhất là về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, lao động, văn hóa, giao lưu nhân dân, giao lưu địa phương... Việt Nam được thế giới biết đến như là một đối tác tin cậy, điểm đến an toàn đối với đầu tư, du lịch quốc tế và là một thành viên có trách nhiệm trong việc góp phần giải quyết những vấn đề lớn của khu vực và thế giới.

Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia và đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách quốc tế; có nhiều đề xuất, sáng kiến được ghi nhận tại các cơ chế, khuôn khổ, diễn đàn đa phương, nhất là Liên hợp quốc, ASEAN và các đối tác; đóng góp tích cực vào xử lý các vấn đề mang tính khu vực và toàn cầu. Chuyển mạnh từ “tham gia tích cực” đến “đóng góp xây dựng, định hình luật chơi”, Việt Nam đã từng bước nâng tầm tham gia thúc đẩy các tiến trình, các thể chế đa phương dựa trên mục tiêu chung là hòa bình, ổn định, an ninh và hợp tác phát triển, trên cơ sở luật pháp quốc tế và nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi giữa các bên liên quan. Ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, Việt Nam đã mở rộng quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 quốc gia, trong đó có nhiều nền kinh tế lớn. Công tác bảo hộ công dân, người Việt Nam ở nước ngoài(3), thông tin đối ngoại được triển khai bài bản, kịp thời, hiệu quả, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Những thành tựu nêu trên đã cho thấy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín quốc gia. Những thành tựu đó đã khẳng định tính đúng đắn của trường phái đối ngoại, ngoại giao “Cây tre Việt Nam: Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam” do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng, tập trung chỉ đạo và dày công vun đắp.

3. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc quan điểm bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hoà bình; thực hiện “chính sách quốc phòng bốn không”; chúng ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc; ưu tiên nguồn lực để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và thế trận lòng dân vững chắc; tập trung xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo nội dung, tư duy mới, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; tổ chức theo hướng tinh, gọn, mạnh. Chất lượng công tác phân tích, đánh giá, dự báo, tham mưu chiến lược ngày càng được nâng cao; đường lối, chiến lược về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện trong tình hình mới. Chủ động, sẵn sàng phương án, giải pháp ứng phó với diễn biến tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong mọi tình huống đều bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”.

Trong thời gian qua, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh được chú trọng và ngày càng phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được nhiều loại vũ khí, trang bị, góp phần tích cực vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hợp tác quân sự, quốc phòng, an ninh được đẩy mạnh, ngày càng thực chất, hiệu quả. Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, cứu hộ, cứu nạn ở nhiều quốc gia, khu vực, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chính sách đối ngoại quốc phòng theo tư tưởng ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là kế sách quan trọng, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Chúng ta cũng đã tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận về “đối tác”, “đối tượng”, góp phần xử lý hài hoà, phù hợp các vấn đề quốc tế liên quan.

Đồng thời, chúng ta đặc biệt chú trọng xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh. Đây là nhiệm vụ quan trọng được cả hệ thống chính trị và toàn dân đặc biệt quan tâm, đạt nhiều kết quả tích cực; trong đó, đã triển khai nhiều kế hoạch, giải pháp kiềm chế sự gia tăng và tấn công, trấn áp quyết liệt các loại tội phạm, nhất là tội phạm công nghệ cao, tội phạm mạng, tội phạm ma túy trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Tăng cường nghiên cứu và ứng dụng triển khai các thành tựu tiên tiến của khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi trạng thái các mặt công tác phòng, chống tội phạm. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân tham gia công tác bảo vệ an ninh trật tự. Tình hình chính trị - xã hội ổn định, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội là một trong những điểm sáng và là thế mạnh của Việt Nam trong một thế giới đầy biến động hiện nay. Việt Nam được xếp hạng tăng 4 bậc, lên vị trí 41/163 quốc gia, vùng lãnh thổ trong bảng xếp hạng Chỉ số Hòa bình Toàn cầu năm 2023 về đánh giá mức độ yên bình quốc gia do Viện Kinh tế và Hòa bình (IEP, Australia) công bố.

4. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường được chú trọng, bảo đảm hài hoà với phát triển kinh tế và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vai trò của văn hoá là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh, là động lực đột phá cho phát triển đất nước được phát huy mạnh mẽ, nhất là sau Hội nghị văn hoá toàn quốc năm 2021 với bài phát biểu quan trọng mang tầm định hướng chiến lược sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong đó Đồng chí đã nhấn mạnh lời dạy của Bác Hồ kính yêu: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi, đồng thời chỉ rõ “Văn hóa còn thì dân tộc còn”, “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc. Thực hiện quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều giá trị văn hoá truyền thống, di sản văn hoá của dân tộc được kế thừa, bảo tồn, tôn tạo, phát triển và được quốc tế công nhận, đánh giá cao; đến nay, Việt Nam có 68 di sản, danh hiệu được UNESCO ghi danh. Các thiết chế văn hóa không ngừng được đổi mới về nội dung, nâng cao về chất lượng, hiệu quả hoạt động. Xây dựng xã hội nhân văn, phát triển con người Việt Nam toàn diện, có nhân cách tốt, lối sống đẹp hướng tới các giá trị chân - thiện - mỹ được sự hưởng ứng tích cực của toàn xã hội; tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết, trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo đức xã hội ngày càng được phát huy và lan tỏa tích cực.

Chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được nâng lên; mạng lưới cơ sở y tế phát triển rộng khắp; chủ động ứng phó thành công với nhiều dịch bệnh nguy hiểm. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch COVID-19, Việt Nam đã “đi sau về trước” với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, toàn thể nhân dân và sự hỗ trợ, giúp đỡ hiệu quả của bạn bè quốc tế thông qua “Chiến lược ngoại giao vắc-xin”. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao; giáo dục, đào tạo tiếp tục được đổi mới toàn diện; hệ thống giáo dục quốc dân ngày càng hoàn thiện, tiệm cận với chuẩn mực quốc tế; chỉ số chất lượng đào tạo nghề thuộc nhóm nước dẫn đầu khu vực ASEAN; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 49,14% năm 2014 lên 68% năm 2023. Nhiều thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi; hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo được thúc đẩy và phát triển; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp hạng 46/132 năm 2023, tăng 13 bậc so với năm 2016. Thực hiện nhất quán chủ trương không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế đơn thuần, Việt Nam cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 tại COP26 và sớm tham gia Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Các chính sách với người có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được đặc biệt quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo năm 2023 giảm còn 2,93% so với hơn 58% năm 1993. Việt Nam được thế giới ghi nhận, đánh giá cao và coi là hình mẫu thành công về xoá đói, giảm nghèo của các nước đang phát triển trong suốt 30 năm qua. Xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp và nâng cao chất lượng đời sống người dân ở nông thôn; đến cuối năm 2023 có hơn 78% số xã và 270 huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 93%, tiệm cận tới mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Việt Nam đã hoàn thành trước hạn nhiều chỉ tiêu trong Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và được Liên hợp quốc công nhận là một trong những nước đi đầu trong nỗ lực thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDG). Công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ... có những bước phát triển quan trọng; tuổi thọ trung bình của Việt Nam trong 30 năm qua tăng 9 tuổi, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023; chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện rõ rệt, cao hơn nhiều so với các nước có cùng mức thu nhập; Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 lên vị trí 54/143 quốc gia và vùng lãnh thổ.

5. Quán triệt quan điểm xây dựng Đảng là “then chốt”, trong đó công tác cán bộ là “then chốt của then chốt”, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng thời gian qua có nhiều chuyển biến rõ nét, hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã khẳng định: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta”. Tập trung xây dựng Đảng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ với tinh thầnDanh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất”, để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh. Chúng ta đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, nhất là cán bộ cấp chiến lược. Mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân được củng cố, tăng cường; niềm tin của nhân dân với Đảng ngày càng được nâng lên trên cơ sở thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động; không ngừng phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên; qua đó góp phần củng cố, tăng cường sự ổn định chính trị - xã hội, tạo thuận lợi cho phát triển nhanh và bền vững.

Dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng xã hội dân chủ, kỷ cương, liêm chính, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. Đã đưa ra xét xử nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Đồng thời, tiếp tục tập trung xây dựng, hoàn thiện chủ trương, đường lối và thể chế, chính sách về phòng, chống tham nhũng gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong các cơ quan hành chính nhà nước và toàn xã hội được đẩy mạnh. Tăng cường thông tin về cơ chế, chính sách, hoạt động quản lý, điều hành trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức nắm bắt và giám sát. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, công cuộc phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh góp phần khẳng định vai trò, củng cố uy tín của Đảng, Nhà nước và giữ vững niềm tin trong nhân dân, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng của Việt Nam tăng 40 bậc, từ xếp thứ 123 vào năm 2012 lên thứ 83/180 quốc gia, vùng lãnh thổ vào năm 2023.

6. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong bất luận hoàn cảnh nào, phải kiên định lập trường tư tưởng, luôn giữ vững mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng ta trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống luật pháp của nước ta”. Trong những năm qua, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đạt nhiều kết quả quan trọng và tiếp tục được hoàn thiện về cơ sở lý luận trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn. Đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế được đặc biệt chú trọng; hệ thống pháp luật được thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế, trong đó có nhiều đạo luật mang tính nền tảng, như Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… Tập trung xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kiến tạo phát triển, vì nhân dân phục vụ gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đã giảm từ 27 bộ, cơ quan ngang bộ (giai đoạn 1992 - 1997) xuống còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ hiện nay. Phân cấp, phân quyền được đẩy mạnh gắn với phân bổ nguồn lực, nâng cao năng lực thực thi của cấp dưới và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Cải cách chế độ công vụ, cải cách tài chính công có nhiều chuyển biến tích cực; tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Cải cách hành chính, nhất là đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh được đẩy mạnh, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tạo mọi thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”,  toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn đặc biệt chú trọng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết chặt chẽ giữa đoàn kết trong nước với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại - coi đây là yếu tố nền tảng đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng, phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, góp phần tạo đồng thuận xã hội; đẩy mạnh các hoạt động giám sát, phản biện xã hội gắn với tăng cường công khai, minh bạch; chú trọng tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố, tăng cường; quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy, đi vào thực chất, hiệu quả, nhất là trong tham gia, quyết định những vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước và những cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến đời sống xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ ta.

***

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta trong gần bốn thập kỷ vừa qua khẳng định sự đúng đắn của đường lối đổi mới, hội nhập và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, gắn liền với những đóng góp to lớn của các thế hệ lãnh đạo tiền bối, trong đó có vai trò quan trọng, dấu ấn nổi bật của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã để lại tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cống hiến hết sức mình vì sự nghiệp cách mạng của Đảng cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Hàng trăm nghìn người dân Việt Nam, hàng trăm đoàn khách quốc tế đã trực tiếp đến viếng, tiễn đưa; hàng nghìn đoàn các nước, hàng chục nghìn người nước ngoài đã đến viếng tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; hàng trăm quốc gia, tổ chức quốc tế đã gửi lời chia buồn; hàng triệu, triệu người dân Việt Nam từ mọi độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, nhất là thế hệ trẻ bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Những hình ảnh đó đã thể hiện tình cảm trân trọng, sự gắn bó sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài cũng như bạn bè quốc tế về tầm vóc của một Nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đồng thời cũng thể hiện niềm tin son sắt của nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đất nước Việt Nam văn hiến, văn minh và anh hùng.

Kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, hội nhập và phát triển; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, sức sáng tạo, ý chí và khát vọng của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại; chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta nhất định sẽ phát triển ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, nhân dân ta nhất định sẽ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong đợi và các thế hệ đi trước, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tận tâm, tận lực phấn đấu và trọn đời cống hiến.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mãi mãi thuộc về Tổ quốc ta, Nhân dân ta và sự nghiệp đổi mới của đất nước ta. Tiếp nối những nỗ lực, đóng góp, cống hiến và noi theo tấm gương sáng của Đồng chí, các thế hệ hôm nay và mai sau hãy phát huy hơn nữa tinh thần đoàn kết “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” và những thành tựu đã đạt được, nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, giữ vững và phát huy hơn nữa cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước ta vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững./.

 

 

 

 

 

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: MỘT SỰ NGHIỆP VĨ ĐẠI ĐƯỢC DẪN DẮT BỞI MỘT CON NGƯỜI BÌNH DỊ!

         Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mất đi là một tổn thất lớn lao của Đảng và Đất nước ta và tạo ra sự hụt hẫng trong nhân dân. Từ lâu, Tổng Bí thư đã trở thành biểu tượng của Đảng và là chỗ dựa niềm tin của toàn dân!
Rất nhân văn, trọng nghĩa tình và hết sức gần gũi, gắn bó với nhân dân
Tôi đang bồi hồi nhớ lại những ngày giáp Tết trước thềm Xuân Tân Mão (2011), khi Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI vừa thành công tốt đẹp. Hòa chung với niềm vui cả nước, chúng tôi vô cùng phấn khởi khi GS. Nguyễn Phú Trọng, người sinh viên ưu tú của Đại học Tổng hợp Hà Nội trước đây, nay là Đại học Quốc gia Hà Nội, được Đại hội tín nhiệm bầu làm Tổng Bí thư.

Với niềm tự hào khôn xiết, Ban Lãnh đạo Đại học Quốc gia xin được lên chúc Tết Tổng Bí thư. Thật bất ngờ, chúng tôi nhận được lời từ chối hết sức nhẹ nhàng, đại ý: Rất cảm ơn các bạn và chúc toàn thể cán bộ, sinh viên nhà trường những điều tốt đẹp nhất nhân dịp năm mới sắp đến, nhưng cho mình xin lỗi vì năm nay mình sẽ không tiếp lãnh đạo đơn vị nào lên chúc Tết đâu.

Chưa hết thất vọng thì đột nhiên chúng tôi lại nhận niềm vui bất ngờ. Qua điện thoại, vẫn chất giọng nhẹ nhàng, tình cảm ấy, Tổng Bí thư nói mình không tiếp các đoàn lãnh đạo lên chúc Tết là để cho lãnh đạo các bộ, ngành và địa phương tập trung lo cho công việc vào dịp cuối năm bận rộn, thay vì phải dành thời gian cho những nghi lễ chúc tụng lãnh đạo. Còn đối với Đại học Quốc gia Hà Nội mà tiền thân là Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngôi trường gắn bó với mình từ thời sinh viên, thì sẽ rất vui nếu được đón tiếp các thầy, cô.

Và thế là với túi quà là những cuốn sách, anh em chúng tôi cùng với đại diện một số nhà giáo lão thành của Đại học Quốc gia Hà Nội đã có dịp diện kiến tân Tổng Bí thư. Cuộc gặp gỡ diễn ra hết sức giản dị nhưng vô cùng ấm cúng và thân mật. Buổi gặp mặt thân tình ấy đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng tốt đẹp về một vị Tổng Bí thư rất nhân văn, trọng nghĩa tình và hết sức gần gũi với anh em.

Trong không khí thân thiết và cởi mở, tôi đã ngỏ lời xin Tổng Bí thư một số hình ảnh thời sinh viên để trưng bày trong phòng truyền thống. Chúng tôi thật bất ngờ khi được nghe Tổng Bí thư say sưa chia sẻ những kỷ niệm đẹp về thời gian học tập dưới mái trường Đại học Tổng hợp và hứa sẽ tặng phòng truyền thống Nhà trường những kỷ vật mà Giáo sư Nguyễn Phú Trọng đã nâng niu, gìn giữ suốt hơn nửa thế kỷ qua. Sau đó phòng truyền thống đã nhận được những tư liệu quý, trong đó có cuốn luận văn tốt nghiệp "Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu" do thầy Đinh Gia Khánh hướng dẫn và những tấm hình chụp với các bạn sinh viên khoá 8 khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Nhà tư tưởng có tầm nhìn chiến lược
Không chỉ là một nhà lãnh đạo bình dị, khiêm tốn, chân thành, gần gũi anh em, sâu sát thực tế, gắn bó với nhân dân và luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng, Tổng Bí thư còn là nhà tư tưởng có tầm nhìn chiến lược.

Tôi còn nhớ trong buổi gặp gỡ các nhà khoa học dự Hội thảo quốc tế về Việt Nam học lần thứ 5 ngày 15/12/2016, các học giả nước ngoài tất thảy đều ngỡ ngàng và bày tỏ sự ngưỡng mộ khi GS. Nguyễn Phú Trọng thể hiện kiến thức uyên bác và đưa ra ý kiến thuyết phục, rằng chỉ trong vòng 30 năm nữa thôi (nghĩa là vào dịp kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 100) Việt Nam sẽ đứng vào hàng ngũ các nước phát triển.

Với ý chí đó của người đứng đầu Đảng, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Tư tưởng lớn của Tổng Bí thư đã được quán triệt tới toàn Đảng toàn dân là phải khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để đưa đất nước đi lên.

Là một nhà khoa học trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, Giáo sư Nguyễn Phú Trọng hiểu sâu sắc tầm quan trọng của văn hoá đối với sự phát triển bền vững của Đất nước.

Tại Hội nghị văn hoá toàn quốc ngày 24/11/2021, cùng với việc nhấn mạnh tư tưởng "văn hóa soi đường cho quốc dân đi" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư đã đưa ra quan điểm có tính nền tảng "văn hoá là hồn cốt của dân tộc". Đó chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc, là tài nguyên vô tận giúp đất nước tạo ra lợi thế con người trong quá trình hội nhập và đi lên trong quá trình toàn cầu hoá.

Cũng chính từ tư tưởng này mà người đứng đầu Đảng đã đưa ra triết lý "ngoại giao cây tre" mềm dẻo dựa trên những nguyên tắc kiên định vững vàng. Đó là sự phát triển trong tình hình mới tư tưởng ngoại giao "dĩ bất biến ứng vạn biến" của Hồ Chủ tịch.

Không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Barack Obama đã bỏ qua các nguyên tắc ngoại giao của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để trân trọng mời và tiếp Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục ở Nhà Trắng, mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai nước và mới đây Tổng thống Joe Biden lại một lần nữa phá lệ nhận lời mời của người đứng đầu Đảng sang thăm chính thức Việt Nam, nâng vị thế đất nước lên một tầm cao mới.

Củng cố niềm tin của Dân đối với Đảng
Di sản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại cho Đảng và dân tộc thật đồ sộ. Đóng góp của một trí thức lớn cho sự nghiệp phát triển đất nước thật vô cùng lớn lao, khó lòng kể hết. Nhưng lịch sử sẽ mãi nhớ ghi công lao của ông cho một sự nghiệp vĩ đại. Đó là củng cố niềm tin của Dân đối với Đảng.

Trong quá trình mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo ở các cấp đã thoái hoá, biến chất, lao vào con đường tham nhũng. Tệ nạn tham nhũng không chỉ làm tổn hại đến công quỹ quốc gia mà nghiêm trọng hơn là đã làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng, với chế độ. Đã có lúc chúng ta từng coi, đây có thể là quốc nạn, là nguy cơ làm sụp đổ chế độ, khuynh đảo quốc gia.

Là người thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, coi cội nguồn sức mạnh của Đảng là Nhân dân mà niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng là động lực, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đích thân phát động và trực tiếp chỉ đạo công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực không có giới hạn, không có vùng cấm. Công việc thật gian nan, khó khăn, phức tạp mà nếu không có bản lĩnh, quyết tâm, tài thao lược và nhân cách trong sáng thì khó có thể đạt được thành công như hôm nay.

Thành quả lớn nhất của công cuộc đấu tranh phòng chống tham những là củng cố được lòng tin của Nhân dân với Đảng, với sự nghiệp cách mạng và từ đó tạo nên khí thế hồ hởi trong toàn dân, biến thành quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân dốc lòng thực hiện các quyết sách được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra, thực hiện khát vọng đưa Đất nước đi tới phồn vinh.

Công cuộc phòng chống tham nhũng thành công còn giúp cho việc phát triển một bộ máy lãnh đạo trong sạch, vững mạnh, đủ sức vượt qua mọi khó khăn thử thách đưa đất nước lên hàng những quốc gia hùng cường như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước.

Đất nước, Nhân dân, Đảng, các lực lượng vũ trang mãi nhớ ghi công lao to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước sẽ luôn khắc ghi hình ảnh một trí thức uyên bác, giàu lòng nhân ái, bình dị giữa đời thường, đã xả thân vì sự nghiệp lớn của Đảng và dân tộc.
Xin được kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn Giáo sư!


Yêu nước ST.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – Nhà lý luận xuất sắc, liêm chính của Đảng

  Tháng 12-1967, sau khi tốt nghiệp Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội), đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tiếp nhận về làm biên tập viên Tạp chí Học tập, nay là Tạp chí Cộng sản. Kể từ đó, cả cuộc đời đồng chí gắn bó với công tác lý luận của Đảng cho dù gánh vác các trọng trách khác nhau trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đặc biệt cả khi đã trở thành Tổng Bí thư của Đảng. Đồng chí là một nhà lý luận xuất sắc với nhiều cống hiến to lớn, quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước ta. 

Người chủ trì tổng kết, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Nếu nói lý luận về đường lối đổi mới là những luận điểm sâu sắc, toàn diện về xây dựng, phát triển đất nước ta trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, thì nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam là vấn đề trung tâm, cốt lõi, chi phối của hệ thống lý luận đó. Chính từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ những bài học kinh nghiệm thành công, thất bại của các nước trên thế giới trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực và việc tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức ngày càng rõ ràng hơn những đặc trưng quan trọng nhất của mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Mô hình đó bắt đầu được khẳng định một cách cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) với mục tiêu khái quát là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, với 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Để thực hiện được mục tiêu khái quát đó, Đảng ta chủ trương thực hiện 7 phương hướng gắn với 7 lĩnh vực chủ yếu của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội, có ý nghĩa như con đường, cách thức để đạt được đích đến là các đặc trưng của chế độ xã hội, bao gồm: (1) Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại; (3) Thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng về hình thức sở hữu; (4) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; (5) Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; (6) Thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cần phải nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đã là một bước tiến rất quan trọng, cơ bản về nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới từ sau năm 1991, bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi rất nhanh chóng và phức tạp, trong đó sự tan rã của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới do Liên Xô dẫn đầu, đẩy tới một thời kỳ vô cùng khó khăn cho phong trào công nhân và cộng sản toàn thế giới. Mặt khác, thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước, nhất là việc nhận thức và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, kể cả những vấn đề nội bộ đất nước ta cũng như những vấn đề trong quan hệ quốc tế, đã mang lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, giúp cho chúng ta nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn những nội dung, yêu cầu, các giải pháp cần thiết để xây dựng, phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Cũng trong quá trình đó, Đảng ta nhận thấy có những nội dung về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta nêu ra và xác định trong Cương lĩnh năm 1991 hoặc là chưa đầy đủ, toàn diện, hoặc là đã bị thực tiễn vượt qua. Do đó, việc tiếp tục bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị của Đảng để hoàn thiện thêm một bước nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội của nước ta trở thành một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi thực tiễn có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh mới. Và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người trực tiếp chỉ đạo việc triển khai nghiên cứu, tổng kết, chuẩn bị cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và nội dung các vấn đề bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).

Đại hội XI của Đảng năm 2011 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được nhận thức rõ hơn, được bổ sung, hoàn thiện một bước quan trọng. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 xác định, xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng: (1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (2) Do nhân dân làm chủ; (3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (4) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; (7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; và (8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Từ 6 đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam xác định trong Cương lĩnh năm 1991 đến 8 đặc trưng được xác định trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã là bước tiến rất xa, bước chuyển rất quan trọng trong nhận thức lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 đã đưa nội dung “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thành đặc trưng thứ nhất, thể hiện mục tiêu tổng quát, tính chất ưu việt của chế độ xã hội Việt Nam. Đặc trưng về Nhà nước Việt Nam được đưa vào Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, như một đặc trưng không thể thiếu của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam - “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Đây không chỉ là sự xác định tính chất nhà nước mà Việt Nam hướng tới xây dựng, hoàn thiện trong quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội, mà còn thể hiện sự trưởng thành, tính khoa học khách quan của Đảng ta trong nhận thức tính quy luật chung của sự phát triển nhà nước trong tiến trình lịch sử của nhân loại. Một số đặc trưng khác của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng được cập nhật, bổ sung, phát triển, nhằm làm rõ hơn tính chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với điều kiện riêng có của Việt Nam.

Cùng với việc bổ sung, phát triển các đặc trưng, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 cũng bổ sung, phát triển, cập nhật, làm rõ thêm 8 phương hướng xây dựng, phát triển đất nước, nhất là xác định rõ phương hướng về kinh tế là “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, và phương hướng xây dựng nhà nước là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Để thực hiện 8 phương hướng trên, lần đầu tiên, Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng đã chỉ ra và xác định các mối quan hệ lớn phải chú trọng nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện các phương hướng xây dựng và phát triển đất nước. Đó là các mối quan hệ giữa: đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;...  Từ sau Đại XI đến nay, Đảng ta cũng bổ sung hai mối quan hệ: giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Với trách nhiệm là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, người phụ trách công tác lý luận của Đảng trong nhiều năm, đồng chí Nguyễn Phú Trọng không chỉ có công lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, tổng kết, đổi mới, phát triển nhận thức của Đảng ta về đường lối đổi mới, về mô hình chủ nghĩa xã hội riêng có của Việt Nam, mà còn trực tiếp nghiên cứu, công bố các bài viết với tư duy lý luận sâu sắc và thực tiễn. Tháng 4-2012, trong bài thuyết trình tại Trường Đảng Trung ương Cu Ba Ni-cô Lô-pết với chủ đề “Vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - Từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam”, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, đánh giá tình hình thế giới và những vấn đề đặt ra sau khi Liên Xô tan rã, những cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ nước Mỹ và các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ ở nhiều nước tư bản phát triển, và chỉ ra rằng, “không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa” hàng loạt vấn đề đang đặt ra trong bối cảnh thế giới đương đại. Điều này xuất phát từ bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa. Cho dù có những thay đổi nhất định về xã hội do tác động của sự phát triển khoa học và công nghệ, dưới áp lực cuộc đấu tranh của các giai cấp lao động, cho dù có quảng cáo, hay tô vẽ bằng cả một hệ thống truyền thông, báo chí khổng lồ về “dân chủ, tự do”, thì bản chất chủ nghĩa tư bản vẫn không thể thay đổi, các thế lực thống trị vẫn là đại diện cho ý chí của các tập đoàn tư bản. Và do đó, nó không thể mang lại cái mà nhân dân lao động và toàn nhân loại tiến bộ những giá trị cần có, phải có: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Trong khi không chỉ trong học thuyết khoa học mà trên thực tế sinh động hằng ngày, đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, là những giá trị mà chủ nghĩa xã hội coi như mục đích lý tưởng để hiện thực hóa bằng những nỗ lực liên tục, không mệt mỏi và được minh chứng không thể phủ nhận trên thực tế.

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng có bài viết quan trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết không chỉ tiếp tục khẳng định những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội, mà còn là một bản luận cương cơ bản, toàn diện, mang tầm khái quát cao về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Từ nhận thức lý luận, chỉ ra những nội dung cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, đồng chí chứng minh cho sự đúng đắn của những vấn đề lý luận, đường lối đó bằng những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới của nước ta. Và cũng từ đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa

Trong toàn bộ hoạt động lý luận của mình, đồng chí Nguyễn Phú Trọng dành sự quan tâm đặc biệt cho những vấn đề về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo thống kê sơ bộ có thể thấy phân nửa các bài viết của đồng chí đã công bố là viết về Đảng, về những vấn đề trực tiếp liên quan đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên những bình diện khác nhau. Điều này xuất phát từ nhận thức có tính nguyên tắc nhất quán của đồng chí: “chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa” bởi vì “sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhấn mạnh quan điểm nhất quán, coi công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng coi đó như là một logic tất yếu, một vấn đề do các yếu tố khách quan xã hội quy định, bởi vì Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác tổ chức, cán bộ được đồng chí xác định “là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ; sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”.

Nhận thức lý luận của đồng chí Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng bao quát một phổ rộng, toàn diện những vấn đề liên quan, từ mục tiêu, tính chất, các nguyên tắc hoạt động, phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, đến các lĩnh vực cụ thể, như công tác tư tưởng, lý luận, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, kỷ luật, kỷ cương, văn hóa trong Đảng...

Trước hết, về bản chất của Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, luận giải rất sâu sắc trong bài “Hiểu thế nào về bản chất của Đảng ta?”, đăng tải trên Tạp chí Cộng sản từ tháng 3-1996. Trong bài viết, đồng chí đã dựa vào toàn bộ lịch sử hoạt động của Đảng, những luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng để luận giải, minh chứng, làm rõ bản chất của Đảng được xác định trong các văn kiện của Đảng; qua đó cũng chỉ ra một số biểu hiện không phù hợp trong nhận thức của cán bộ, đảng viên về bản chất của Đảng. Đồng chí chỉ rõ, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng do Đại hội VII của Đảng năm 1991 thông qua “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, là sự khẳng định rõ bản chất giai cấp của Đảng, đồng thời thể hiện ý nghĩa, tính chất nhân văn, dân tộc của Đảng. Hơn nữa, điều đó cũng thể hiện nguyên tắc trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu của tổ chức đảng mà Người đã khai sinh, lý tưởng của cuộc cách mạng mà Người đã phát động và lãnh đạo. Bởi chính Người đã khẳng định rằng Đảng ta là Đảng của giai cấp đồng thời là Đảng của dân tộc, rằng Đảng mà Người phụng sự là “Đảng Việt Nam”. Nhưng để có thể hoàn thành được trách nhiệm “đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”, Đảng phải thường xuyên tăng cường xây dựng, chỉnh đốn, phải “giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng”, phải không ngừng tăng cường “bản chất cách mạng và khoa học, ý chí kiên định và trí tuệ tiên phong, đạo đức mẫu mực và ý thức tổ chức kỷ luật chặt chẽ... của giai cấp công nhân”.

Là một nhà lãnh đạo chính trị dày dạn kinh nghiệm, lại có tri thức phong phú của nhà lý luận, sự trải nghiệm thực tế lâu năm của một nhà báo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hiểu rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đồng chí thường xuyên quan tâm việc xây dựng, phát triển hệ thống công tác tư tưởng của Đảng, từ Ban Tuyên giáo Trung ương đến các lĩnh vực báo chí, truyền thông, văn học, nghệ thuật... Tinh thần mà đồng chí nhiều lần nhấn mạnh “Tiền hô hậu ủng/ Nhất hô bá ứng/ Trên dưới đồng lòng/ Dọc ngang thông suốt” cũng có thể coi là một yêu cầu, một phương châm có ý nghĩa chỉ đạo đối với công tác tư tưởng của Đảng. Đó cũng là đòi hỏi, trách nhiệm đối với lĩnh vực công tác tư tưởng phải thực hiện để đóng góp vào sự nghiệp chung của cách mạng. Đối với công tác lý luận, đồng chí yêu cầu “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”; phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương, định hướng, chính sách phát triển, khơi dậy khát vọng và phát huy ý chí quyết tâm vươn lên của cả dân tộc...”.

Công tác tổ chức, cán bộ là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, với chế độ, như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “mọi việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Song, đó lại là công việc xây dựng con người, là công tác con người, vô cùng phức tạp, tinh tế, dễ va chạm đến danh dự, quyền lợi. Vì thế, đồng chí yêu cầu không thể nóng vội, phải quan tâm bảo vệ cán bộ, nhưng cũng phải kiên quyết với những khuyết điểm, hạn chế của cán bộ để ứng xử một cách hợp lý. Đặc biệt, đồng chí nhấn mạnh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình một cách tự giác và nghiêm túc, phải thực hiện kiên trì, bền bỉ, làm thường xuyên, liên tục, như “đánh răng, rửa mặt, quét nhà, rửa bát hằng ngày” như Bác Hồ đã dạy. Theo đồng chí, để làm tốt công tác tổ chức, cán bộ, phải làm tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kiểm tra thường xuyên, đánh giá lựa chọn chặt chẽ để bố trí, sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc; đồng thời phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn đẩy lùi những hạn chế, yếu kém, kiên quyết đưa ra khỏi tổ chức đảng, nhất là ra khỏi những vị trí lãnh đạo, quản lý, những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, tham ô, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, để làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phải tiến hành xây dựng Đảng về đạo đức, về trách nhiệm tiên phong gương mẫu, nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Nhưng để giải quyết tận gốc rễ những hạn chế, yếu kém trong Đảng, thì phải tìm ra được nguyên nhân của nó, mà theo đồng chí, đó chính là do nguyên nhân chủ quan, do sự yếu kém, thiếu kiên quyết trong công tác giáo dục, lãnh đạo, quản lý; do sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính của một số cán bộ, đảng viên; sự thiếu gương mẫu của một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.

Cùng với công tác tư tưởng, tổ chức, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, đưa ra nhiều luận điểm lý luận một cách toàn diện về các lĩnh vực công tác của Đảng, như kiểm tra, kỷ luật, dân vận, đổi mới phương thức lãnh đạo - cầm quyền của Đảng, xây dựng văn hóa trong Đảng...  Trên nền của tất cả những lĩnh vực đó, nổi bật lên vấn đề nhân dân, được đồng chí nhắc đến, nhấn mạnh nhiều nhất, sâu sắc nhất. Nhân dân được đặt ra, lý giải và nhận định trên tất cả các chiều cạnh, từ vai trò và vị trí nhân dân đối với chế độ, Đảng, Nhà nước và xã hội; từ sức mạnh của nhân dân với vai trò là động lực, nguồn lực quan trọng nhất của phát triển; đến nhân dân là mục tiêu, động lực của cách mạng, trung tâm của mọi chiến lược phát triển; các yêu cầu và giải pháp nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước. Đặc biệt, đồng chí còn phân tích cụ thể, chỉ ra bản chất sâu xa của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, từ đó làm rõ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước với nhân dân; chỉ ra yêu cầu có tính nguyên tắc về tinh thần, thái độ phục vụ của cán bộ, đảng viên đối với nhân dân. Trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, đồng chí nói: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Đây không chỉ là một quan điểm xuất phát từ tấm lòng thương yêu hết mực nhân dân, một tinh thần “luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu”, mà hơn thế nữa, còn là sự nhận thức sâu sắc về cội nguồn làm nên sức mạnh của Đảng chính là niềm tin của nhân dân. Trong câu nói của đồng chí ta bắt gặp ý nghĩa sâu sắc của nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”.  

Đổi mới nhận thức lý luận nhiều lĩnh vực dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Cùng với những vấn đề nền tảng, căn cốt của lý luận về đường lối đổi mới là nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, di sản lý luận chính trị của đồng chí Nguyễn Phú Trọng bao quát hầu hết các vấn đề, các lĩnh vực trong đời sống xã hội của đất nước.

Về vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, đó là “một kiểu kinh tế thị trường mới" trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”. Khi bàn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, đồng chí luôn nhấn mạnh một thuộc tính quan trọng của nó, đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Thuộc tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường Việt Nam được hiểu là “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”. Trong nền kinh tế ấy, “mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn”.  Nhấn mạnh và thực hiện có hiệu quả thuộc tính này chính là một nguyên tắc, là cơ sở để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước, bảo đảm cho tính ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Trên cơ sở phân tích, làm rõ tính chất, nội dung, đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng chí khẳng định đây là “một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta”, là thành quả phát triển lý luận từ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn công cuộc đổi mới của Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.   

Về vấn đề văn hóa, đồng chí Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhận thức của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò to lớn của văn hóa, ngay trong mở đầu bài phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24-11-2021, đồng chí Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hóa còn thì Dân tộc còn…”. Đồng chí tổng kết khái quát nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà chúng ta đang hướng tới xây dựng, có nội dung: Thứ nhất, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; thứ hai, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; thứ ba, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước; thứ tư, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại; và thứ năm, mục tiêu là, xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.

Về lĩnh vực đối ngoại, trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã trở thành một thuật ngữ phổ biến trên thế giới. Nó được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập và chỉ rõ nội dung trong bài phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ngày 14-12-2021. Đó là “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”..., thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”. Đó là, mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân... Biết nhu, biết cương, biết thời, biết thế; biết mình, biết người, biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!”. Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam là kết quả sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là sự kế thừa, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu, thân thiện và nhân văn của dân tộc. Khẳng định trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đồng chí cũng đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những thành tựu nổi bật về ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn và hiệu quả của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Về vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cùng với việc trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo triển khai thực hiện quyết liệt trên thực tế, với tinh thần kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, đồng chí Nguyễn Phú Trọng cũng là người đóng góp quan trọng vào tổng kết lý luận, khái quát những vấn đề có tính quy luật, nhằm bảo đảm hiệu quả toàn diện của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ thực tế phòng, chống tham nhũng tiêu cực trong nước và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí đưa ra 6 bài học lớn. Đó là: (1) Phải có quyết tâm chính trị cao, sự lãnh đạo thống nhất của Đảng; (2) Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là chống “giặc nội xâm”, vì thế phải kiên quyết, kiên trì, không ngừng nghỉ..; (3) Kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngừa, phát hiện với xử lý kịp thời, đồng bộ, nghiêm minh; (4) Phải gắn chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; (5) Kiểm soát được quyền lực nhà nước; (6) Có giải pháp phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ những bài học kinh nghiệm này, đồng chí yêu cầu định hướng cho công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: Một là, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; hai là, tiếp tục xây dựng đồng bộ, hoàn thiện thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế - xã hội; ba là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, thanh tra, kiểm toán; bốn là, tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; năm là, tiếp tục hoàn thiện bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan phòng, chống tham nhũng. Năm định hướng trên đây cho thấy nhận thức lý luận chính trị của đồng chí Tổng Bí thư về tham nhũng, tiêu cực rất toàn diện, trong đó “chống” và “xây” quan hệ biện chứng với nhau. “Chống” đồng thời với “xây” và “xây” để bảo đảm sự phát triển vững mạnh... 

Cả cuộc đời hoạt động chính trị - xã hội đều gắn liền với công tác lý luận của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại di sản lớn về lý luận chính trị. Đồng chí đã công bố hàng trăm bài báo, bài viết nghiên cứu, xuất bản gần 30 cuốn sách. Là một nhà lý luận xuất sắc của Đảng và Nhà nước, mặc dù bản thân đã phát hiện, đề xuất nhiều vấn đề lý luận về các lĩnh vực đời sống chính trị - xã hội, song đồng chí không bao giờ tự nhận về mình, luôn coi đó là thành tựu chung của Đảng. Những thành tựu lý luận của đồng chí đã đóng góp to lớn trong xây dựng cơ sở khoa học - thực tiễn cho quá trình hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới, và sẽ còn có ý nghĩa lâu dài trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng, của dân tộc. Cùng với những thành tựu lý luận to lớn của một nhà lý luận xuất sắc của Đảng, của Nhà nước ta, tinh thần liêm chính, khiêm tốn trong khoa học của đồng chí Tổng Bí thư sẽ là bài học trong sáng, đáng trân trọng để lại cho mai sau./.