Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Thủ tướng: Hà Nội phải tiên phong trong chuyển đổi số.

 Với vị thế Thủ đô đặc biệt quan trọng, Hà Nội phải tiên phong phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số, theo Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Sáng 28/6, UBND TP Hà Nội tổ chức hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm thực hiện Đề án 06 của Chính phủ; đánh giá kết quả thí điểm lập hồ sơ sức khỏe điện tử, cấp phiếu lý lịch tư pháp trên VNeID và công bố vận hành các nền tảng, ứng dụng của Đề án 06.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong phát triển kinh tế xã hội thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Do vậy, các bộ ngành, địa phương cần thúc đẩy tăng trưởng nhanh và bền vững dựa trên nền tảng số, đổi mới sáng tạo.

Một trong những điểm sáng của chuyển đổi số ở Việt Nam hai năm qua là Đề án 06 về phát triển ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, ban hành tháng 1/2022. Để đẩy mạnh chuyển đổi số và triển khai có hiệu quả đề án, Thủ tướng yêu cầu các bộ ngành, địa phương "không nói không, không nói khó, không nói có nhưng không làm" và quyết tâm "đã nói là làm, đã làm là có kết quả", "chỉ bàn làm, không bàn lùi".

Riêng Hà Nội với vai trò, vị thế đặc biệt quan trọng là Thủ đô, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, đầu tàu kinh tế - văn hóa - khoa học - giáo dục của cả nước, Thủ tướng yêu cầu phải đi đầu, tiên phong trong đổi số và phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số, hướng tới xã hội văn minh, hiện đại.

"Hai năm rưỡi vừa qua là chặng đường không ngắn nhưng cũng chưa dài đối với nhiệm vụ thực hiện Đề án 06 ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Phía trước còn nhiều công việc và khó khăn, thách thức, nhưng chúng ta không lùi bước", lãnh đạo Chính phủ nói.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị về thực hiện Đề án 06 của Hà Nội, sáng 28/6. Ảnh: Nhật Bắc

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Hội nghị về thực hiện Đề án 06 của Hà Nội, sáng 28/6. Ảnh: Nhật Bắc

Chủ tịch UBND TP Hà Nội Trần Sỹ Thanh cho biết thành phố đã tiên phong thí điểm nhiều giải pháp mang tính đột phá. Đơn cử như xây dựng hệ thống Hồ sơ sức khỏe điện tử; hỗ trợ 100% phí cung cấp thông tin lý lịch tư pháp trên ứng dụng VNeID; triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền và thu thuế khoán; chi trả an sinh xã hội, chỉ trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội không dùng tiền mặt; thanh toán giá trông giữ xe không dùng tiền mặt.

Theo Chủ tịch Hà Nội, những giải pháp nêu trên đã tạo bứt phá trong phát triển kinh tế xã hội, nâng tầm giá trị văn hóa của Thủ đô và huy động trí tuệ của người dân cho chuyển đổi số. "Hà Nội sẽ hành động quyết liệt, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng", ông nói.

Thượng tướng Lương Tam Quang, Bộ trưởng Công an, đánh giá cao phương pháp triển khai Đề án 06 của Hà Nội. Ông đề nghị thành phố chỉ đạo 11 quận, huyện chưa hoàn thành số hóa dữ liệu hộ tịch nhanh chóng xây dựng lộ trình chi tiết để hoàn thành dứt điểm trong 6 tháng cuối năm. Hà Nội cũng cần đẩy nhanh việc tạo lập, kết nối và chia sẻ dữ liệu.

Tại hội nghị, UBND TP Hà Nội công bố vận hành một số nền tảng, ứng dụng của Đề án 06 trên địa bàn gồm: Công dân Thủ đô số (iHanoi) - kênh kết nối giữa chính quyền với người dân, doanh nghiệp; hồ sơ sức khỏe điện tử trên VneID - tạo nền tảng khám chữa bệnh từ xa; hệ thống phòng họp thông minh, không giấy (i-Cabinet).

Xử phạt người trúng đấu giá đất vi phạm thanh toán.

 Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, khai thác khoáng sản vi phạm nghĩa vụ thanh toán sẽ bị xử lý để ngăn chặn bỏ cọc, lũng đoạn thị trường.

Chiều 27/6, Quốc hội thông qua Luật đấu giá tài sản sửa đổi, trong đó bổ sung quy định xử lý vi phạm đối với người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, khai thác khoáng sản mà không thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, người trúng đấu giá vi phạm sẽ bị cấm tham gia đấu giá với loại tài sản đó trong 6 tháng đến 5 năm. Quyết định cấm được thông báo cho người vi phạm, các tổ chức liên quan và đăng tải trên Cổng thông tin đấu giá tài sản quốc gia. Quy định này nhằm ngăn chặn hành vi bỏ cọc, lũng đoạn thị trường, bảo đảm tính minh bạch, an toàn trong hoạt động đấu giá.

Trước đó, nhiều đại biểu đề nghị nghiên cứu chế tài xử lý vi phạm với người trúng đấu giá mà không nộp tiền trúng đấu giá với các loại tài sản khác ngoài quyền sử dụng đất và quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng chỉ nên quy định xử lý người vi phạm ở hai loại tài sản này vì đặc thù, có giá trị lớn, ảnh hưởng lớn đến thị trường bất động sản, chứng khoán, giá cả vật liệu xây dựng.

Các đại biểu bấm nút thông qua Luật đấu giá tài sản sửa đổi. Ảnh: Media Quốc hội

Các đại biểu bấm nút thông qua Luật đấu giá tài sản sửa đổi. Ảnh: Media Quốc hội

Bên cạnh đó, luật cũng đã quy định người tham gia đấu giá, người trúng đấu giá, vi phạm các điều cấm có thể bị kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Các hành vi cấm bao gồm: Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ giả mạo để đăng ký tham gia đấu giá; thông đồng, móc nối để dìm giá, làm sai lệch kết quả; cản trở, gây rối tại cuộc đấu giá; đe dọa, cưỡng ép đấu giá viên, người tham gia đấu giá khác.

Muốn đấu giá cần đặt trước 5-20% giá khởi điểm

Luật quy định người tham gia đấu giá phải nộp tiền đặt trước. Tiền đặt trước do tổ chức hành nghề đấu giá tài sản và người có tài sản đấu giá thỏa thuận, nhưng tối thiểu là 5% và tối đa là 20% giá khởi điểm.

Trường hợp đấu giá quyền khai thác khoáng sản mà giá khởi điểm chưa xác định được bằng tiền thì tiền đặt trước được xác định theo quy định về khoáng sản. Nếu xác định được giá khởi điểm thì tiền đặt trước tối thiểu là 10% và tối đa là 20% so với giá khởi điểm.

Đấu giá quyền sử dụng đất với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư thì tiền đặt trước tối thiểu là 10% và tối đa là 20% so với giá khởi điểm.

Vợ, chồng, anh ruột, chị ruột, em ruột bị cấm tham gia phiên đấu giá đối với cùng một tài sản, tránh tình trạng thông đồng, dìm giá hay "quân xanh, quân đỏ".

Luật đấu giá tài sản sửa đổi có hiệu lực từ 1/1/2025.

Chuyên gia quân sự được nhận thù lao đặc biệt.

 Chuyên gia quân sự sẽ được nhận thù lao đặc biệt, hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân và ưu tiên nhà công vụ.

Chiều 27/6, Quốc hội thông qua dự Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp. Điều 66 quy định chế độ, chính sách đối với chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành tại cơ sở công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh nòng cốt.

Theo đó, chuyên gia được đàm phán và hưởng lương, thưởng theo thỏa thuận với cơ sở công nghiệp quốc phòng; được Nhà nước bảo đảm nguồn lực, cơ sở vật chất thực hiện nhiệm vụ; được ưu tiên bố trí nhà ở công vụ, hỗ trợ tiền thuê nhà ở, hỗ trợ phương tiện đi lại trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Người có nguyện vọng phục vụ lâu dài được xem xét tuyển dụng giữ chức vụ của sĩ quan và ưu tiên phong cấp bậc quân hàm sĩ quan; hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân; hưởng thù lao đặc biệt và chế độ ưu đãi khác theo hợp đồng lao động.

Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này và mức tối đa tiền lương cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư trong trường hợp sử dụng ngân sách nhà nước.

Các loại khí tài của Việt Nam tại Triển lãm quốc phòng 2022. Ảnh: Giang Huy

Các loại khí tài của Việt Nam tại Triển lãm quốc phòng 2022. Ảnh: Giang Huy

Trước đó, đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Quốc phòng, cho biết phát triển vũ khí, khí tài là lĩnh vực rất khó, các nước xuất khẩu vũ khí đều không chuyển giao công nghệ lõi. Vì vậy, Việt Nam phải tự sản xuất một số loại vũ khí, không phụ thuộc vào nhập khẩu.

Mấu chốt của phát triển công nghệ lõi là ở cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân lực cho ngành công nghiệp quốc phòng, an ninh. Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông quân đội (Viettel) "được như ngày hôm nay là do có cơ chế đặc thù thu hút nhân lực".

"Nếu làm ở nước ngoài họ có thể nhận lương 300-400 triệu đồng mỗi tháng thì về Việt Nam chúng ta cũng phải trả ít nhất 150 triệu đồng", ông Giang nói, nhấn mạnh đây là những người giỏi nên phải có chính sách riêng để đãi ngộ.

Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh

Luật quy định lập Quỹ công nghiệp quốc phòng, an ninh - quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập ở trung ương, do Chính phủ quản lý. Quỹ sẽ hỗ trợ thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt.

Thường vụ Quốc hội cho biết qua rà soát và lấy ý kiến, đa số đại biểu tán thành quy định về xây dựng Quỹ để hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh. Đây là giải pháp, cơ chế đặc thù, vượt trội, có ý nghĩa chiến lược. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước có nền công nghiệp quốc phòng phát triển đều có các quỹ tài chính phục vụ cho lĩnh vực này.

Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp có 7 chương, 34 điều, hiệu lực từ ngày 1/7/2025.

Thủ tướng đề nghị Việt - Trung hợp tác xây dựng các công trình lớn.

 Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, đề nghị hai bên hợp tác xây dựng các công trình lớn, hiệu quả thực chất, bền vững, đẩy nhanh kết nối hạ tầng giao thông.

Trong cuộc hội kiến tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh chiều 26/6, Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc coi trọng cao độ và luôn coi quan hệ với Việt Nam là hướng ưu tiên trong tổng thể chính sách ngoại giao láng giềng, khẳng định ủng hộ Việt Nam bảo vệ độc lập dân tộc và tôn nghiêm quốc gia.

Chủ tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh hai bên cần tăng cường tin cậy chính trị, duy trì trao đổi cấp cao thường xuyên, đẩy mạnh giao lưu, trao đổi kênh Đảng và tăng cường hợp tác giữa các bộ ngành quan trọng như ngoại giao, quốc phòng, công an.

Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị hai bên hợp tác xây dựng các công trình lớn, mang tính biểu tượng cao và hiệu quả thực chất, bền vững. Ông cũng muốn hai nước đẩy nhanh kết nối hạ tầng giao thông, nhất là hợp tác kết nối đường sắt, đường bộ, cửa khẩu trong khuôn khổ "Hai hành lang, một vành đai" với "Vành đai và con đường".

Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh chiều 26/6/2024. Ảnh: Đoàn Bắc

Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh chiều 26/6/2024. Ảnh: Dương Giang

Thủ tướng đề nghị Trung Quốc tạo điều kiện cho các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như sầu riêng đông lạnh, dừa tươi, gạo, tạo thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam sang Trung Á và châu Âu qua Trung Quốc.

Lãnh đạo Việt Nam cũng mong muốn hai bên thúc đẩy hợp tác địa phương trở thành động lực tăng trưởng mới, nghiên cứu xây dựng thí điểm các khu hợp tác kinh tế qua biên giới, mở rộng hợp tác kinh tế cửa khẩu, xây dựng cửa khẩu thông minh. Các địa phương hai nước chủ động hợp tác, kết nối các chiến lược phát triển vùng miền; mở rộng hợp tác tài chính, ngân hàng, giáo dục, y tế.

Ông Tập nhất trí xem xét lựa chọn triển khai thí điểm khu kinh tế qua biên giới và nói Trung Quốc sẵn sàng mở rộng nhập khẩu hàng hóa chất lượng cao của Việt Nam. Chủ tịch Trung Quốc khẳng định nước này ủng hộ Việt Nam đẩy nhanh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng Trung Quốc và các nước xây dựng chuỗi cung ứng, sản xuất bền vững tại khu vực, thế giới.

Chủ tịch Tập Cận Bình cho rằng việc Trung Quốc tiếp tục cải cách toàn diện, phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới sẽ đem lại cơ hội để hai bên triển khai hợp tác thương mại, hợp tác kết nối giao thông đường bộ, đường sắt, kết nối kinh tế số. Chính phủ Trung Quốc ủng hộ doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt trong những lĩnh vực công nghệ cao, ngành nghề mới nổi.

Hai bên cũng nhất trí cùng kiểm soát và xử lý thỏa đáng bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định trên biển. Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị hai bên thực hiện nghiêm túc nhận thức chung cấp cao, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) năm 1982, không để bất đồng trên biển ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chiều cùng ngày hội kiến Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc Vương Hộ Ninh. Thủ tướng đề nghị các cấp, các ngành hai bên đổi mới tư duy, triển khai thực chất các thỏa thuận và nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, nhất là Tuyên bố chung về tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược theo định hướng "6 hơn".

Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc Vương Hộ Ninh, chiều 26/6, tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Ảnh: Đoàn Bắc

Thủ tướng Phạm Minh Chính hội kiến Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc Vương Hộ Ninh tại Bắc Kinh chiều 26/6. Ảnh: Đoàn Bắc

Ông Vương Hộ Ninh khẳng định sẵn sàng thúc đẩy cơ quan Chính hiệp các cấp Trung Quốc tăng cường giao lưu trao đổi, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, thúc đẩy làm sâu sắc hợp tác thực chất giữa hai bên.

Ông Vương Hộ Ninh giới thiệu với Thủ tướng một số thành quả sáng tạo mới về lý luận của đảng Cộng sản Trung Quốc, nhất là về đường lối "hai kết hợp" (xây dựng chủ nghĩa xã hội kết hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn của Trung Quốc và văn hóa truyền thống), "hiện đại hóa kiểu Trung Quốc", phát triển "lực lượng sản xuất chất lượng mới".

Thủ tướng Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị các nhà tiên phong lần thứ 15 của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) tại thành phố Đại Liên, tỉnh Liêu Ninh và làm việc tại Trung Quốc từ 24 đến 27/6. Chiều 24/6, Thủ tướng đã hội đàm với Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường tại Đại Liên, thảo luận về các biện pháp tăng cường quan hệ song phương trên các lĩnh vực.

Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

 


Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hình thức chính trị của xã hội, trong đó toàn bộ những thể chế, thiết chế, cơ chế, quy chế được thể chế hóa thành luật pháp, thể hiện và bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Đó là một hệ thống các tổ chức, nguyên tắc hoạt động và cơ chế vận hành, dựa trên pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, bảo đảm quyền lực thực tế thuộc về nhân dân trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Cấu trúc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gồm 3 thành tố cơ bản: Một là, chủ thể quyền lực, là toàn thể nhân dân, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Hai là, hệ thống tổ chức, thiết chế chính trị lãnh đạo, quản lý và đại diện cho nhân dân, như đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị - xã hội. Ba là, hệ thống cơ chế, công cụ, phương tiện để thực hành dân chủ, bảo đảm sự thống nhất giữa quan hệ trao quyền lực và nhận quyền lực; giữa thực thi quyền lực với giám sát thực thi quyền lực.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa khác đã đưa giai cấp công nhân và quần chúng lao động từ địa vị những người nô lệ bị bóc lột và áp bức lên địa vị những người chủ của xã hội. Với sự xuất hiện nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - Nhà nước Xô viết, xây dựng nền dân chủ phục vụ lợi ích cho đa số nhân dân lao động - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời.

Việc thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đảng cộng sản khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo nhà nước và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa là những tiền đề, nguyên tắc dẫn tới xác lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, một nền dân chủ mới về chất, cao hơn so với nền dân chủ tư sản và các nền dân chủ trước đó. Theo V.I.Lênin: “Xô-viết tựu trung là một hình thức và một kiểu chế độ dân chủ vô cùng cao hơn, chính là vì do chỗ nó tập hợp được quần chúng công nông và lôi cuốn họ tham gia sinh hoạt chính trị, nên nó là cơ quan gần “nhân dân” nhất”[1]. Dân chủ xã hội chủ nghĩa xuất hiện trong thắng lợi của cách mạng chính trị giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động, gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu mới - nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ này có một quá trình phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài mà giai cấp công nhân, nhân dân lao động dựa trên nhà nước của mình để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 37, “Cách mạng vô sản và tên phản bội Cau-xky” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.383.

Quan niệm nền dân chủ

 


Trong các nghiên cứu khoa học ở nước ta về vấn đề dân chủ, nền dân chủ hay chế độ dân chủ là hai khái niệm không đồng nhất, nhưng có cùng bản chất, tùy theo từng trường hợp cụ thể có thể sử dụng thay thế cho phù hợp.

Chế độ dân chủ, là khái niệm dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân; còn khái niệm nền dân chủ phản ánh trạng thái dân chủ trong tính chỉnh thể với hệ thống các thiết chế dân chủ được xác lập và thực thi trong hiện thực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Theo đó, nền dân chủ là khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn mực xã hội nhằm thực thi quyền lực, bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền, xã hội và cá nhân.

Với tư cách là một chỉnh thể xã hội hoàn chỉnh, nền dân chủ là một phạm trù lịch sử, vì nó có sự ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định và sẽ mất đi khi trong xã hội không còn giai cấp. Tính lịch sử của nền dân chủ còn thể hiện qua quá trình hình thành, phát triển, vận động từ chỗ chưa có dân chủ đến có dân chủ, đến tồn tại, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa Mác - Lênin nêu rõ quá trình phát triển của dân chủ là: “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”[1]. Do vậy, hình thức của các nền dân chủ là đa dạng, vì chính thể của mỗi quốc gia không chỉ chịu sự chi phối của thể chế chính trị mà còn chịu sự kiềm chế của các điều kiện thực tế của các chính thể khác nhau. Không có mô hình dân chủ và chế độ chính trị chung cho mọi quốc gia, dân tộc.

Xét về cấu trúc, nền dân chủ được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận, cả khía cạnh vật chất, tinh thần, yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế, nguyên tắc và các giá trị, chuẩn mực dân chủ... Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể hiện thực trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ và chi phối giá trị dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản tiến bộ, phi dân chủ; sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị - xã hội; sự hiện hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 33, “Nhà nước và cách mạng” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.206.

Quan niệm về dân chủ

 


Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người và cộng đồng người. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau. Thuật ngữ “dân chủ” xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến IV trước Công nguyên tại Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, dân chủ được viết là Demokratos, trong đó Démos nghĩa là nhân dân và kratos nghĩa là quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân chủ được hiểu là nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị dịch giản lược là quyền lực của nhân dân hay quyền lực thuộc về nhân dân.

Trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử khác nhau, tùy theo sự vận động biến đổi của thực tiễn dân chủ, khái niệm dân chủ được nhận thức cũng đa dạng. Đến nay, mặc dù vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau nhưng đều có những nhận thức chung tương đối thống nhất khái niệm về dân chủ.

Dân chủ là một giá trị xã hội, hình thức tổ chức nhà nước, một chế độ chính trị mà ở đó những quyền cơ bản của con người được pháp luật thừa nhận, bảo vệ và thể chế thành các nguyên tắc, quy định quyền lợi, trách nhiệm của nhân dân đối với nhà nước, cộng đng và ngược lại.

Dân chủ là một giá trị xã hội mang tính nhân văn và tính nhân loại sâu sắc. Ở nghĩa này, dân chủ mang những giá trị chung của toàn nhân loại. Giá trị xã hội của dân chủ, một mặt phản ánh trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của con người, của công dân và sự tham gia của họ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Mặt khác, thể hiện ở những nguyên tắc, hình thức phổ quát nhất của dân chủ là: nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nguyên tắc bầu cử tự do, nguyên tắc tôn trọng và bình đẳng trước pháp luật…, hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Giá trị nhân văn của dân chủ là kết quả sự phát triển tiến bộ của các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội và các giá trị dân chủ đến lượt mình cũng thâm nhập, tác động làm lành mạnh hóa, dân chủ hóa và nhân văn hóa các quan hệ xã hội, các hoạt động xã hội của con người trên các cấp độ tồn tại của nó. Mỗi bước tiến của dân chủ phản ánh bước tiến về quyền của con người. Dân chủ phát triển càng cao, quyền con người càng được khẳng định, tự do, bình đẳng trong xã hội càng cao.

Dân chủ ngày càng trở thành tiêu chí, thước đo của sự tiến bộ xã hội, trình độ văn minh của loài người đạt được. Giá trị nhân văn của dân chủ được xác định như một lý tưởng nhân đạo, nó gắn liền với sự bình đẳng, công bằng xã hội và tự do.

Những giá trị của dân chủ không chỉ được tạo ra từ quyền lực chính trị, từ yếu tố nhà nước mà còn phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế, khoa học công nghệ, cơ cấu xã hội - giai cấp, trình độ quản lý xã hội, trình độ dân trí, đặc trưng văn hóa, lịch sử của dân tộc, luật pháp quốc tế và toàn cầu hóa.

Dân chủ là một hình thức nhà nước, một chế độ chính trị. Theo nghĩa này, dân chủ được hiểu là chế độ dân chủ. Đây là hình thức tất yếu của việc tổ chức và thực thi quyền dân chủ của nhân dân trong xã hội có giai cấp. Lịch sử phát triển của dân chủ đến nay xuất hiện ba chế độ dân chủ (nền dân chủ) khác nhau: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Điểm chung nhất của các chế độ dân chủ là đều thể hiện ra trong hiện thực đời sống xã hội, trước hết và chủ yếu ở hình thức nhà nước tương ứng. Nhà nước, một mặt, thừa nhận quyền lực chính trị của nhân dân, quyền tự do, bình đẳng của công dân trong việc xác định tổ chức, cơ cấu nhà nước, quản lý nhà nước; mặt khác, thi hành có tổ chức, có hệ thống cưỡng chế bằng pháp luật đối với mọi người để bảo đảm dân chủ chung cho toàn xã hội. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.

Tuy nhiên, không phải chế độ chính trị, chế độ nhà nước nào cũng là chế độ dân chủ. Một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ tiến bộ phải thừa nhận và bảo đảm quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân như V.I.Lênin quan niệm: “dân chủ là sự thống trị của đa số”[1], theo đó, mức độ, phạm vi tham gia thật sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát triển của một chế độ dân chủ, phản ánh những vấn đề cốt lõi nhất của dân chủ.

Trong xã hội có giai cấp, dân chủ trước hết và chủ yếu là dân chủ của giai cấp thống trị. Không có dân chủ trừu tượng, phi giai cấp, ngoài giai cấp. Bản chất của dân chủ được thể hiện ở tính giai cấp của nó. Đây là là tiêu chí để phân biệt bản chất khác nhau của các chế độ dân chủ.

Trong một chế độ dân chủ nhất định, để tồn tại và bảo đảm quyền thống trị xã hội, giai cấp thống trị không chỉ bảo đảm dân chủ của giai cấp mình mà còn phải bảo đảm dân chủ chung cho toàn xã hội. Do đó, chế độ dân chủ không chỉ duy nhất là thiết chế quyền lực nhà nước mà còn có những hình thức thiết chế quyền lực khác của xã hội, do nhân dân lập nên, bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân.

Dân chủ là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đấu tranh cho dân chủ trở thành mục tiêu, nội dung đấu tranh giai cấp - một trong những động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của xã hội có giai cấp. Dân chủ vừa mang bản chất của giai cấp thống trị vừa có tính nhân dân và tính dân tộc. Chế độ dân chủ ra đời, tồn tại, phát triển và sẽ tiêu vong cùng với giai cấp và nhà nước.

Dân chủ là một phạm trù lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử đều đã ghi dấu mốc quan trọng trên bước đường phát triển dân chủ và thể hiện sự đấu tranh không khoan nhượng với những yếu tố phi dân chủ (sự độc tài, chuyên chế, phát xít...), trong cuộc đấu tranh giành dân chủ, nhân loại đã phải trả giá đắt bằng cả máu, xương của mình.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ dân chủ không phải là sản phẩm của tự nhiên, cũng không phải là bẩm sinh, càng không phải là tặng phẩm của giới siêu nhân nào đó, mà là kết quả của quá trình đấu tranh trong trường kỳ lịch sử của nhân loại vì sự tiến bộ, văn minh.

Mỗi bước tiến của dân chủ phản ánh bước tiến về quyền của con người. Dân chủ phát triển càng cao, quyền con người càng được khẳng định; tự do, bình đẳng trong xã hội càng cao. Do vậy, với tính chất là một giá trị nhân văn (giá trị văn hóa) của nhân loại, dân chủ ngày càng trở thành tiêu chí, thước đo của sự tiến bộ xã hội, trình độ văn minh của loài người. Hiểu theo nghĩa này, dân chủ đã có bước phát triển từ thấp tới cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện, hầu như không có sự “đứt gãy” trong suốt chiều dài lịch sử từ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy đến ngày nay, kể cả khi xã hội đạt tới trạng thái cộng sản chủ nghĩa.

Dân chủ là nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt của các cộng đồng trên cơ sở sự tự do, bình đẳng giữa các thành viên, thiểu số phục tùng đa số và tôn trọng, bảo vệ thiểu số. Với nghĩa này, dân chủ tồn tại ở khắp mọi nơi có tổ chức, có quyền lực và quản lý xã hội. Tùy từng cấp độ của dân chủ mà người ta nói đến dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội từ xã, phường, thị trấn, thôn, khối phố, gia đình, trường học, các tổ chức tôn giáo đến các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các tổ chức khu vực và tổ chức quốc tế hiện đại… đều sử dụng các nguyên tắc, cơ chế dân chủ.

Dân chủ là điều kiện để hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện của công dân, cá nhân. Ðó là sự hình thành thái độ, trách nhiệm, tính tích cực chính trị, nhu cầu và sự tự giác tham gia vào các quá trình chính trị - xã hội. Dân chủ không chỉ là phạm trù chính trị mà còn là phạm trù đạo đức, mang giá trị đạo đức tốt đẹp.

 Có thể thấy, dân chủ là một phạm trù đa nghĩa với nhiều tầng bản chất và các hình thức lịch sử khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ là một phạm trù chính trị - lịch sử, khi nhà nước xuất hiện, vấn đề dân chủ - quyền lực của dân được xây dựng thành một chế độ dân chủ, hay một nền dân chủ, biểu hiện tập trung ở chế độ nhà nước.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 32, “Toàn bộ chính quyền về tay các Xô-Viết” (1917), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật., Hà Nội, 2005, tr.515.

Vai trò, trách nhiệm của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hiện thực hóa nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

 


          Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quán triệt sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức đúng đắn tính tất yếu, thực chất, đặc điểm con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta.

Quân đội cụ thể hóa những đặc trưng, nhiệm vụ và phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong xác định mục tiêu, nhiệm vụ theo chức năng nhiệm vụ phù hợp với đặc điểm, tình hình và yêu cầu nhiệm cách mạng giai đoạn mới. Quân đội thực hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để hiện thực hóa những đặc trưng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Quân đội là lực lượng tích cực, chủ động tham gia tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về mô hình, con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Với ưu thế về tổ chức, về lực lượng khoa học, được rèn luyện trong môi trường quân sự dân chủ - kỷ luật, tự giác; đội ngũ cán bộ, nghiên cứu được trải nghiệm thực tiễn công tác... là điều kiện quan trọng tham gia có chất lượng hiệu quả nhiệm vụ này.

Quân đội còn là lực lượng tích cực, chủ động tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Để phát huy vai trò của Quân đội trong hiện thực hóa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, cần quán triệt, triển khai thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh”; không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, nâng cao chất lượng nguồn lực con người, nhất là nguồn lực sĩ quan chất lượng cao, từng bước đáp ứng mục tiêu xây dựng Quân đội tiến lên hiện đại vào năm 2030.

Thách thức từ bên trong trong công cuộc đổi mới hiện nay

 


Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn[1]. Kinh tế vĩ mô ổn định chưa vững chắc; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Hơn nữa, do tác động hết sức lớn của suy thóai kinh tế toàn cầu đến nền kinh của Việt Nam đang là một thách thức to lớn. Nhu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh lớn. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, lãng phí; việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chậm trễ. Hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra nhiều vấn đề mới, nhất là các vấn đề cạnh tranh thu hút đầu tư và xuất nhập khẩu, lao động, việc làm, bảo vệ môi trường, luật pháp... Trên một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được hưởng các thành quả của phát triển kinh tế - xã hội, đời sống còn nhiều khó khăn, khoảng cách giàu - nghèo còn lớn. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư, thị trường, nhiều quốc gia mới trỗi dậy có thể đẩy kinh tế nước ta tụt hậu xa hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển kinh tế về cơ bản vẫn phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên, vào vốn và lao động trình độ thấp, thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao.

Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa còn tiềm ẩn. Về chính trị, phải cảnh giác với nguy cơ sai lầm về đường lối. Về tư tưởng, vẫn không thể xem thường những biểu hiện suy thóai tư tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4, (khóa XII) đã chỉ ra. Về văn hóa, trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa rất dễ xảy ra xu hướng coi nhẹ văn hóa, không giữ gìn và phát huy được bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc, để đạo đức xã hội bị suy đồi... Về kinh tế, kinh tế tư nhân được xác định là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, kinh tế tư nhân không tránh khỏi nguy cơ tự phát đi chệch định hướng xã hội chủ nghĩa và thóat ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, có những mặt tiêu cực, như “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm pháp luật để trục lợi bất chính… Bên cạnh đó, kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể chưa thể hiện được vai trò chủ đạo và nòng cốt trong phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.

         Tình trạng tham nhũng, lãng phí. Tham nhũng ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, liên kết thành các nhóm lợi ích. Chúng đang tận dụng đến mức tối đa những kẽ hở, những yếu kém trong lãnh đạo quản lý, những bất cập của hệ thống pháp luật, cùng với sự buông lỏng trong định hướng chính trị - xã hội để vơ vét làm giàu bất chính; làm cạn kiệt tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; hoặc chà đạp lên lợi ích quốc gia và đạo lý dân tộc; lơ là trong công tác lãnh đạo quản lý, vi phạm dân chủ và quyền lợi, lợi ích của dân; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ, đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu họa khôn lường. Đó là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, là yếu tố cản trở phát triển xã hội. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đang là một thách thức lớn đối với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Thách thức từ biểu hiện suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Đảng ta nhận định hết sức sâu sắc và mạnh mẽ: Sự suy thóai về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay đặt ra sứ mệnh đối với Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta là phải giữ vững và phát triển đi tới mục tiêu cuối cùng. Đại hội XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm là: “Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”[2], xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ....



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.108.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.118.