Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị nhằm phá hủy tận gốc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ trắng trợn xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác luận điệu này là yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

1. Nhà văn Blaga Dimitrova của Bulgaria đã viết: “Niềm hy vọng có nhiều tên gọi khác nhau, song ở Việt Nam, niềm hy vọng được tượng trưng là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đất nước còn chìm đắm trong đêm trường nô lệ, chính Người đã mở ra cánh cửa hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Có lẽ, không ngôn từ nào có thể diễn tả hết được những cống hiến, hy sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng và nhân dân Việt Nam”.

Không riêng nhà văn Blaga Dimitrova mà rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu văn hóa quốc tế, các nguyên thủ đã ghi nhận, đánh giá Hồ Chí Minh là một nhân vật đã làm nên dấu ấn bước ngoặt vĩ đại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn để lại những dấu ấn khó phai trong tiến trình lịch sử phát triển tư tưởng, văn hóa của nhân loại.

Thế nhưng, bất chấp sự thật đã được lịch sử khắc ghi, các thế lực thù địch lại luôn hằn học với điều đó, tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với âm mưu “hạ bệ thần tượng”, họ không ngần ngại tuyên bố: Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ suy diễn rằng, để được nhân dân ủng hộ, Đảng phải có sức lôi cuốn.

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Để có sức lôi cuốn, Đảng phải coi trọng công tác tuyên truyền và trong tuyên truyền, phải đặt trọng tâm vào chính sách “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ lập luận rằng, “thần thánh hóa lãnh tụ” là thủ đoạn chính trị mà Đảng sử dụng để tập hợp, đoàn kết, nâng cao lòng tự hào dân tộc, để cổ vũ tinh thần, nô lệ hóa quần chúng; đồng thời, tạo bình phong, chỗ dựa an toàn, củng cố quyền lực cho những người lãnh đạo cấp cao hiện nay. Từ đó, họ quy chụp việc Đảng giữ gìn thi hài, xây dựng Lăng Bác; lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; vận động cán bộ, đảng viên, nhân dân học tập và làm theo Bác là “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”.

2. Một số người thiếu thiện chí hoặc cố tình hướng lái dư luận lu loa rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người bằng xương, bằng thịt; “thần thánh hóa” đồng nghĩa với việc khai tử con người thật của Người. Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức thâm độc, nham hiểm nhằm hạ thấp thanh danh, uy tín, vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, qua đó nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra “khoảng chân không chính trị” trong xã hội để hệ tư tưởng tư sản chiếm chỗ, chi phối, hòng dẫn dắt Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Sự thật là các thế lực thù địch đã đánh đồng việc Đảng, nhân dân Việt Nam yêu quý, kính trọng, tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự “thần thánh hóa lãnh tụ”. Họ không nhận thức hoặc cố tình không hiểu rằng, lòng biết ơn, ghi nhớ công lao, tôn vinh những anh hùng, người có công với đất nước là truyền thống, đạo lý nhân văn và lẽ sống tốt đẹp của dân tộc, nhân dân Việt Nam. Truyền thống đó đã được đúc kết qua những câu tục ngữ như: “Uống nước nhớ nguồn”; “Ăn quả nhớ người trồng cây”...

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt luôn tôn kính, thờ phụng những anh hùng dân tộc, bậc tiền nhân có công lao to lớn với quê hương, đất nước. Vì vậy, việc xây dựng Lăng Bác và giữ gìn thi hài Người là hoàn toàn xuất phát từ sự yêu quý, kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, chứ không phải do Đảng “thần thánh hóa lãnh tụ” như các thế lực thù địch thêu dệt. Về điều này, xin nhắc lại lời nhà báo Hayde Xantamaria (Cu Ba) đã đánh giá: “Chủ tịch Hồ Chí Minh được người dân Việt Nam yêu quý như một người thân. Tình yêu của họ đối với Người vô cùng sâu sắc và không bờ bến. Đây không phải là tình yêu thần thoại mà là tình yêu và sự kính trọng thật sự”.

Trên thực tế, không riêng Việt Nam, mà nhiều nước trên thế giới cũng có văn hóa tôn vinh những người có cống hiến to lớn cho đất nước. Ở Mỹ, George Washington (1732-1799) là tổng thống đầu tiên, được người Mỹ suy tôn là “Người cha già của đất nước” và để vinh danh ông, Mỹ đã xây dựng Đài tưởng niệm Washington, công trình kiến trúc bằng đá cao nhất thế giới. Ở Ấn Độ, Mahatma Gandhi (1869-1948) được người dân hết sức tôn kính gọi bằng những cái tên thân thương như: Cha kính yêu, tâm hồn vĩ đại, lãnh tụ tinh thần của dân tộc. Ở Trung Quốc, Chủ tịch Mao Trạch Đông được coi là “hiện thân của nền Cộng hòa nhân dân Trung Hoa”...  

3. Điều rất đáng tự hào là Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ được yêu quý, kính trọng ở Việt Nam mà Người cũng được nhân dân thế giới nể phục, tôn vinh. Năm 1987, tại khóa họp lần thứ 24, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất”. Với nghị quyết này, UNESCO đã ghi nhận những đóng góp to lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với cả nhân loại, đồng thời tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong những “nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại”.

 Từ đó đến nay, hoạt động vinh danh Người đã được tổ chức ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao Việt Nam, đến cuối năm 2023, đã có 37 tượng/tượng đài, 13 khu tưởng niệm, 6 trường lớp và 21 đại lộ, đường phố, công viên mang tên Hồ Chí Minh được xây dựng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những hoạt động đó xuất phát từ sự yêu mến, lòng kính trọng và công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bằng chứng xác đáng nhất để bác bỏ luận điệu “thần thánh hóa” cá nhân. Sinh thời, Người chưa bao giờ coi mình là “thánh nhân”, mà chỉ tự nhận là một người luôn đau đáu một nỗi niềm là làm sao cho đất nước được độc lập, nhân dân được tự do, có ăn, có mặc, có học... Nghiên cứu về Người, một học giả nước ngoài từng hỏi Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Hồ Chí Minh là một con người hay một vị thánh?”.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trả lời rằng: Hồ Chí Minh trước hết là một con người, cuối cùng cũng là một con người, còn vĩ đại như đức Chúa, đức Phật thì các bạn đã thừa nhận. Người cũng luôn gương mẫu và lên án những biểu hiện “sùng bái cá nhân”, “thần thánh hóa lãnh tụ”; đồng thời, đề cao vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, tôn trọng nhân dân, quan tâm, giải quyết những khó khăn, vướng mắc của nhân dân, tận tâm, tận lực, tận hiến cho cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Không phải ngẫu nhiên mà David Hamberstam, phóng viên tờ báo New York Times (Mỹ) từng viết: “Trên thế giới có quốc gia người ta đề cao lãnh tụ dữ lắm, đó là sùng bái cá nhân. Còn cụ Hồ Chí Minh thì cương quyết không tìm cái vỏ bề ngoài lộng lẫy của quyền uy. Như thế cụ tự tin và tin chắc vào quan hệ của mình với dân tộc, với lịch sử, đến nỗi cụ chẳng cần đến tượng, đền đài, sách báo và những nhà nhiếp ảnh để chứng minh điều đó cho mình” (dẫn theo Giáo sư Trần Văn Giàu, sách “Hồ Chí Minh vĩ đại một con người”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật, năm 2013, trang 74-75).

Thực tế cho thấy, mỗi quốc gia trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng của hàng triệu con người.

Thấm nhuần truyền thống, đạo lý của dân tộc, Đảng đã nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 9 khóa II (4-1956), Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp cách mạng của Đảng là một sự nghiệp vĩ đại, do công lao to lớn của toàn Đảng, toàn dân và của Hồ Chủ tịch. Hồ Chủ tịch là lãnh tụ thiên tài của Đảng, của nhân dân, của dân tộc. Vì vậy, Đảng đề cao vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn kính Chủ tịch Hồ Chí Minh là một lẽ tự nhiên, thường tình, hợp đạo lý, hợp lòng dân.

Nhân dân, dân tộc Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh bởi chính Người đã khai sáng, mở đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đơm hoa kết trái, bởi Người đã trọn đời dâng hiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và bởi Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông, đất nước ta. Tình cảm, tình yêu, sự trân quý, ngưỡng mộ đó là hoàn toàn xuất phát từ trái tim muôn dân đất Việt, chứ không phải là sự gò ép gượng gạo, giả tạo.

Từ những luận cứ trên, có thể khẳng định, luận điệu Đảng Cộng sản Việt Nam “thần thánh hóa” Chủ tịch Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ và không có cơ sở khoa học. Đây là sự xuyên tạc, vu cáo trắng trợn nhằm bôi nhọ, làm lu mờ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phủ nhận những đóng góp, cống hiến vĩ đại của Người đối với Đảng, nhân dân, dân tộc và cách mạng Việt Nam

 

Chia sẻ với đồng bào lũ lụt Điện Biên

Cùng đoàn thiện nguyện đến thăm, tặng quà các gia đình bị ảnh hưởng bởi mưa lũ vừa qua tại xã Mường Pồn (huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) do Hội Phụ nữ hai phòng (Phòng Chính trị và Phòng Hậu cần-Kỹ thuật) của Sư đoàn 363, Quân chủng Phòng không-Không quân phối hợp với Câu lạc bộ Thiện nguyện trái tim xanh TP Hải Phòng tổ chức, chúng tôi càng hiểu thêm việc làm ý nghĩa nhân văn này.

Ông Quàng Văn Tiến, Chủ tịch UBND xã Mường Pồn chia sẻ: Mường Pồn là xã vùng cao, thuần nông, có 11 bản với 1.107 hộ dân; trong đó, một số bản giáp biên giới, trình độ dân trí không đồng đều, đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn. Trận mưa, lũ quét vừa qua xảy ra tại đây đã khiến 4 người thiệt mạng, 3 người mất tích; 20 ngôi nhà bị đổ sập, cuốn trôi; hàng trăm ngôi nhà bị hư hỏng; hoa màu và vật nuôi bị thiệt hại nặng, Quốc lộ 12 đi qua xã Mường Pồn cũng bị tê liệt...

Chia sẻ với đồng bào lũ lụt Điện Biên

Thấu hiểu được những khó khăn, vất vả của bà con nơi đây, Hội Phụ nữ hai phòng của Sư đoàn 363 và Câu lạc bộ Thiện nguyện trái tim xanh TP Hải Phòng đã tổ chức kêu gọi, vận động các tổ chức và cá nhân có tấm lòng hảo tâm trong xã hội tham gia ủng hộ để tổ chức chương trình.

Vượt qua gần 600km, nhiều đoạn đèo dốc cao, đoàn đã đến thăm 3 bản (bản Mường Pồn 1, bản Lĩnh và Tin Tốc) của xã Mường Pồn. Tại các nơi đến thăm, đoàn đã gửi lời thăm hỏi sức khỏe và chia sẻ với người dân về những thiệt hại do mưa lũ gây ra, động viên người dân cố gắng vượt qua những mất mát, đau thương, sớm ổn định cuộc sống; đồng thời trao gần 600 phần quà với tổng trị giá 400 triệu đồng tặng các gia đình bị thiệt hại.

Trong trận mưa lũ vừa qua, ngôi nhà của bà Lò Thị Phong, ở bản Mường Pồn 1 bị bùn đất từ trên núi sạt xuống làm gãy cột, sắp đổ. Trận lũ cũng đã cuốn đi toàn bộ kế sinh nhai của gia đình bà, gồm một đôi lợn nái và 15 con lợn con, một đàn ngan hơn 50 con. Thửa ruộng ngoài đồng cũng chất đầy đất đá... Sau khi nhận được quà từ đoàn thiện nguyện, bà Lò Thị Phong xúc động chia sẻ: "Mưa lũ khiến gia đình tôi bị thiệt hại hết. Bộ đội, các cô chú hỗ trợ tiền, mì ăn liền, thức ăn, gạo. Cảm ơn bộ đội và mọi người nhiều lắm...".

Thiếu tá QNCN Đỗ Thị Thu Hà, y sĩ-Chủ tịch Hội Phụ nữ hai phòng của Sư đoàn 363, cho biết: “Thấu hiểu và chia sẻ những khó khăn của người dân nơi đây, chúng tôi đã tích cực ủng hộ và kêu gọi các tấm lòng hảo tâm cùng tham gia. Tuy món quà không lớn nhưng đó là tình cảm, sự quan tâm, sẻ chia của cán bộ, hội viên. Thông qua đó, chúng tôi muốn chung tay cùng cộng đồng hỗ trợ, chia sẻ với những người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai”.

 

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ

Nhằm giúp đỡ bà con trong Khu Kinh tế - Quốc phòng A So, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế thu hoạch lúa trước mùa mưa bão, Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92, Quân khu 4 huy động gần 500 ngày công của cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện xuống đồng giúp dân thu hoạch vụ lúa Hè Thu năm 2024, để lại tình cảm tốt đẹp trong lòng nhân dân.

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ


Sáng sớm, trên cánh đồng lúa xã Đông Sơn, huyện A Lưới, hình ảnh bộ đội Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 cùng với bà con háo hức thu hoạch lúa giống như ngày hội. Những bông lúa vàng óng dưới nắng sớm trên cánh đồng giữa thung lũng A So như ánh lên sự vui mừng của người dân vì gặt hái đúng thời vụ. Những bông lúa ấy được cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 vác trên vai nặng trĩu từ ruộng lên bờ rồi về tận nhà dân.

Quên đi mệt mỏi dưới cái nắng gắt oi bức của những ngày đầu Thu, thi đua lập công chào mừng Ngày Quốc khánh 2-9, gạt từng giọt mồ hôi chảy dài trên má, chị Nguyễn Thị Thích, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 chia sẻ: “Nhìn bông lúa chín vàng, chúng tôi thêm phấn khởi bởi thành quả của bà con sau hơn 3 tháng trông chờ. Do vậy, chúng tôi tự giác giúp người dân thu hoạch lúa với tinh thần trách nhiệm cao nhất”.

Trò chuyện với chúng tôi, chị Hồ Thị Hơn, xã Đông Sơn, huyện A Lưới, hồ hởi nói: “Lúa chín vàng, gia đình khá lo lắng bởi mùa mưa bão đến gần. Được bộ đội và các bạn trẻ giúp đỡ gia đình thu hoạch, chúng tôi rất vui mừng và cảm ơn nhiều lắm”.

Đến xã Lâm Đớt, địa phương có diện tích trồng lúa lớn nhất huyện A Lưới, đông đảo cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 nô nức giúp dân thu hoạch lúa. Dịp này đang vào chính vụ lúa Hè Thu, tuy nhiên diện tích trồng lúa của người dân địa phương chủ yếu ở khu vực đồi núi dốc nên việc thu hoạch gặp nhiều khó khăn, nhất là công cụ, nhân lực và máy móc hỗ trợ.  

Mặc dù tiết trời ở A Lưới khắc nghiệt, mưa nắng thất thường, ngày nắng nóng, chiều tối có mưa dông, với phương châm “lúa chín tới đâu, thu hoạch tới đó”, gần 40 cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 vượt nắng, thắng mưa hỗ trợ 10 hộ dân có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách thu hoạch và chở lúa về tận nhà.

Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ
 

Ông Hồ Thông, thôn A Đớt, xã Lâm Đớt, cho biết: “Gia đình có 3 sào lúa đã chín vàng, bản thân thì già yếu, tôi rất lo lắng vì không có nhân lực. Được cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 giúp đỡ gia đình thu hoạch và mang lúa về tận nhà, tôi rất vui mừng, thêm yêu quý Bộ đội Cụ Hồ”.

Theo Thượng tá Lê Văn Hòa, Đoàn trưởng Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92, với phương châm “Ở đâu dân khó, ở đó có Bộ đội Cụ Hồ”, thời gian qua, đơn vị chủ động phối hợp với 4 xã trong Khu Kinh tế - Quốc phòng A So nắm tình hình địa bàn, gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh khó khăn về nhân lực để bố trí lực lượng giúp đỡ thu hoạch lúa. Mặc dù tiết trời khắc nghiệt nhưng bằng tình cảm và trách nhiệm, cán bộ, nhân viên, trí thức trẻ tình nguyện Đoàn Kinh tế - Quốc phòng 92 nêu cao tinh thần tự giác, tận tâm, tận tụy giúp đỡ đồng bào thu hoạch gần 30ha lúa. Qua đó, kịp thời động viên bà con tích cực lao động sản xuất, vươn lên thoát nghèo, tô thắm thêm tình cảm quân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn biên giới.

 

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan

Nhằm chủ động ứng phó với bão Yagi, Cục Cứu hộ - Cứu nạn (Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam) vừa có Công điện gửi các Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Quân chủng: Hải quân, Phòng không - Không quân; Bộ tư lệnh: Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Thủ đô Hà Nội; Quân đoàn 12, 3, 4; Binh chủng: Pháo binh, Đặc công, Tăng thiết giáp, Công binh, Thông tin liên lạc, Hóa học; Binh đoàn: 11, 12, 15, 16, 18.

Theo bản tin của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, hiện nay bão Yagi đang hoạt động ở vùng biển phía Đông đảo Luzon (Philippines). Dự báo khoảng chiều 3-9 bão Yagi đi vào Biển Đông (cơn bão số 3), trong khoảng từ ngày 4 đến 6-9, bão số 3 trên vùng biển Đông Bắc Biển Đông, gió mạnh tối đa lên tới cấp 12, giật cấp 15. Ngoài ra khu vực Nam bộ, Tây Nguyên xảy ra mưa vừa, mưa to, cục bộ có nơi mưa rất to; nguy cơ xảy ra lũ quét, sạt lở đất và ngập úng tại các khu vực trũng, thấp.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan

Để chủ động ứng phó với diễn biến của bão trên Biển Đông và mưa lớn có thể gây ra lũ quét, sạt lở đất, ngập lụt vùng trũng thấp, khu đô thị tại vùng núi phía Bắc, khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên, Cục Cứu hộ - Cứu nạn đề nghị các đơn vị quân đội thực hiện một số nội dung sau:

Duy trì nghiêm chế độ trực, theo dõi nắm chắc tình hình thời tiết, khí tượng, thủy văn. Phối hợp với chính quyền địa phương kiểm tra, vận động tuyên truyền, hướng dẫn người dân các biện pháp chủ động ứng phó; chủ động điều động lực lượng, phương tiện, di dời người và tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm.

Bộ tư lệnh Quân khu: 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9; Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội chỉ đạo Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố (quận, huyện) nắm chắc tình hình di chuyển của bão Yagi, mưa lớn khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên; rà soát, bổ sung các kế hoạch, phương án; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn sẵn sàng lực lượng, phương tiện xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống; bảo đảm an toàn tuyệt đối lực lượng, phương tiện khi đi làm nhiệm vụ.

Quân đội chủ động ứng phó với bão Yagi và các hình thái thời tiết cực đoan
 

Bộ tư lệnh Bộ đội Biên phòng chỉ đạo Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh, thành phố ven biển từ Quảng Ninh đến Bình Thuận phối hợp với Bộ Chỉ huy Quân sự các tỉnh, thành phố và các cơ quan chức năng quản lý chặt chẽ các phương tiện ra khơi, tổ chức kiểm đếm, thông báo kịp thời cho chủ các phương tiện, thuyền trưởng các tàu, thuyền đang hoạt động trên biển biết vị trí, hướng di chuyển và diễn biến của bão Yagi để chủ động phòng tránh, thoát ra hoặc không di chuyển vào khu vực nguy hiểm, thường xuyên duy trì thông tin liên lạc, sẵn sàng xử lý kịp thời các tình huống có thể xảy ra.

Quân chủng Hải quân, Bộ tư lệnh Cảnh sát biển chỉ đạo các đơn vị bảo đảm an toàn cho các phương tiện đang hoạt động trên biển; sẵn sàng lực lượng, phương tiện tham gia cứu hộ, cứu nạn khi có yêu cầu.

Quân chủng Phòng không - Không quân, Binh đoàn 18 sẵn sàng lực lượng, phương tiện bay tìm kiếm cứu nạn khi có lệnh của Bộ Quốc phòng.

Bộ tư lệnh các Quân đoàn, Binh chủng, Binh đoàn có biện pháp bảo đảm an toàn doanh trại, kho tàng; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương sẵn sàng lực lượng, phương tiện ứng phó với mưa lớn, lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất trên địa bàn, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả.

Các đơn vị tổ chức triển khai thực hiện và báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu (qua Cục Cứu hộ - Cứu nạn) để giúp Bộ theo dõi, chỉ đạo.

Cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn nhà trường với đơn vị

 

Thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, những năm qua, Học viện Kỹ thuật Quân sự (KTQS) đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, sáng tạo, phù hợp, mang lại hiệu quả thiết thực. Để làm rõ hơn nội dung này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện KTQS.

Phóng viên (PV): Thưa đồng chí, Học viện KTQS đã tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nào để thực hiện tốt phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Đảng ủy, Ban giám đốc Học viện KTQS luôn chủ động tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng về công tác giáo dục-đào tạo. Căn cứ Kế hoạch số 619/KH-TM ngày 9-4-2021 của Bộ Tổng Tham mưu về thực hiện phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Học viện đã đề ra nhiều giải pháp đồng bộ, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ với các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục-đào tạo; phát triển chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học; xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục ngang tầm nhiệm vụ...

Cập nhật kiến thức, nâng cao chất lượng đào tạo, gắn nhà trường với đơn vị
 

Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái, Giám đốc Học viện Kỹ thuật Quân sự trò chuyện, động viên các học viên. Ảnh: TRẦN DŨNG

PV: Kết quả đạt được trên những mặt công tác nói trên như thế nào, thưa đồng chí?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Giai đoạn 2021-2024, Học viện đã ký kết và triển khai thực hiện chương trình phối hợp, hợp tác về giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học với 8 đầu mối đơn vị trong toàn quân. Việc hợp tác này mang lại những kết quả hết sức tích cực, như: Hằng năm, Học viện phối hợp tổ chức các lớp đào tạo ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức về thiết kế, chế tạo, an toàn thông tin, tác chiến điện tử, ngoại ngữ chuyên ngành kỹ thuật cho các đơn vị. Học viện đã phối hợp, lấy ý kiến các đơn vị về chuẩn đầu ra và khung chương trình đào tạo cho các đối tượng, từ đó đã ban hành 23 chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ, 56 chương trình đào tạo trình độ thạc sĩ, 50 chương trình đào tạo kỹ sư quân sự theo quy trình 5 năm, 2 chương trình đào tạo kỹ sư quân sự chất lượng cao. Ngoài ra, Học viện cũng đã làm tốt công tác phối hợp với các đơn vị trong việc tổ chức cho học viên đi thực tập, cán bộ, giảng viên đi luân chuyển, thực tế tại đơn vị với lưu lượng hằng năm khoảng 600 lượt học viên thực tập và 50 lượt cán bộ, giảng viên luân chuyển, thực tế.

Trong 3 năm qua, Học viện đã mời 1.694 lượt cán bộ, chỉ huy các đơn vị tham gia giảng dạy, hướng dẫn và tham gia hội đồng chấm đồ án tốt nghiệp, luận văn, luận án cho học viên. Học viện cũng đã phối hợp với các đơn vị trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo nhiều sản phẩm, trang bị kỹ thuật mới phục vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm kỹ thuật, sản xuất vật tư kỹ thuật, linh kiện thay thế. Các sản phẩm của Học viện đã được các cơ quan, đơn vị sử dụng đánh giá cao, điển hình như: Bệ quay cho đài ra-đa cảnh giới tầm trung, sóng mét RV; hệ thống sô-na chủ động, thụ động cho tàu hải quân; thiết bị chế áp phương tiện bay không người lái flycam; thiết bị tập bắn súng TBS-19 dùng cho huấn luyện bắn súng tiểu liên...

Một nội dung quan trọng là Học viện KTQS luôn chú trọng đổi mới nội dung, chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu cập nhật trình độ, kiến thức và kỹ năng của cán bộ kỹ thuật trước sự thay đổi nhanh chóng của khoa học, công nghệ và sự phát triển của vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới. Theo đó, Học viện đã điều chỉnh các chương trình đào tạo theo hướng nâng cao khả năng sáng tạo, năng lực thực hành, thực tế, tác phong chỉ huy cho học viên, bám sát yêu cầu thực tiễn của đơn vị. Ví dụ như, các chương trình đào tạo đã được điều chỉnh để bảo đảm từ năm thứ ba, mỗi năm học sẽ có 2-4 tuần thực tập tại đơn vị. Cùng với đó, Học viện tập trung đổi mới công tác diễn tập cuối khóa bảo đảm phù hợp với cương vị, chức trách của học viên sau khi tốt nghiệp, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tổ chức biên chế, sát thực tế công tác huấn luyện chiến đấu của đơn vị...

Học viện đã xây dựng và triển khai thực hiện tốt các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên, bảo đảm đội ngũ giảng viên đủ số lượng, cơ cấu chuyên môn phù hợp, chất lượng tốt. Hiện nay, đội ngũ cán bộ, giảng viên của Học viện có 6 giáo sư, 86 phó giáo sư, 525 tiến sĩ.

PV: Thưa đồng chí, để thực hiện tốt hơn nữa phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, Học viện có kiến nghị, đề xuất gì?

 Trung tướng, GS, TS Lê Minh Thái: Học viện KTQS mong cấp trên tiếp tục quan tâm đầu tư, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị bổ sung một số trang bị kỹ thuật mới phù hợp, góp phần để nhà trường sát với thực tiễn đơn vị; cho phép cán bộ, giảng viên của Học viện tham gia huấn luyện chuyển giao công nghệ, các đoàn công tác sửa chữa, bảo dưỡng trang bị kỹ thuật mới do các đối tác, chuyên gia nước ngoài thực hiện để xây dựng các quy trình công tác kỹ thuật phục vụ đào tạo. Học viện cũng mong các đơn vị chủ động đề xuất các lớp bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ kỹ thuật của đơn vị mình, đặt ra nhiệm vụ kỹ thuật cùng với Học viện triển khai thực hiện bảo đảm sự phối hợp chủ động, tích cực từ nhà trường và từ đơn vị.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

PHƯƠNG HIỀN (thực hiện)

Đối ngoại đảng và quan hệ giữa Đảng Cộng Sản Việt Nam và các đảng chính trị Ấn Độ.

 Trong những năm qua, công tác đối ngoại của Đảng ta đạt được nhiều kết quả quan trọng, trên cơ sở không ngừng tăng cường quan hệ với các chính đảng trên thế giới cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trong đó có các đảng chính trị ở Ấn Độ. Những hoạt động hợp tác giữa Đảng ta và các đảng chính trị Ấn Độ góp phần quan trọng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa Việt Nam - Ấn Độ ngày càng phát triển.

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã phát triển chính sách đối ngoại đảng toàn diện, trên diện rộng và có chiều sâu. Trong đó, Đảng ta coi trọng phát triển quan hệ với các đảng phái chính trị ở Ấn Độ, bởi hai nước chia sẻ nhiều giá trị chung về lòng yêu nước, truyền thống nhân văn, yêu chuộng hòa bình và được gắn kết chặt chẽ bởi lý tưởng cao cả của các vị “Cha già dân tộc” Ma-hát-ma Gan-đi và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, kể từ khi thiết lập quan hệ đối tác chiến lược năm 2007 và nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2016, hợp tác giữa hai nước ngày càng thực chất và phát huy hiệu quả trên cả năm trụ cột chính trị - ngoại giao, kinh tế, thương mại, quốc phòng - an ninh, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hóa, giao lưu nhân dân. Những kết quả mà hai nước đạt được hôm nay có sự đóng góp to lớn từ hoạt động đối ngoại đảng cũng như sự hợp tác giữa Đảng ta và các đảng chính trị ở Ấn Độ, đặc biệt là với đảng chính trị cầm quyền từ năm 2014 đến nay là Đảng BJP.

Công tác đối ngoại của Đảng ta luôn được đổi mới trong lý luận và thực tiễn, đã góp phần quan trọng vào việc hoạch định những bước phát triển mới và tạo cơ sở mới cho đối ngoại đảng trong thời đại mới.

Đối ngoại Đảng: Những đổi mới từ lý luận đến thực tiễn

Hơn 94 năm qua, Đảng ta đã quán triệt sứ mệnh, vai trò, vị trí lịch sử, ra sức tìm tòi thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm hoàn thiện, điều chỉnh và đổi mới trong chính sách đối ngoại của Đảng. Ở từng thời kỳ, từng giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, công tác đối ngoại đảng luôn có một vị trí, vai trò đặc biệt và có những đóng góp quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa(1).

Giai đoạn trước thời kỳ đổi mới, trong bối cảnh quan hệ quốc tế và chính trị thế giới bị chi phối bởi sự đối lập giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa và hệ thống tư bản chủ nghĩa, Đảng ta chủ yếu phát triển quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản, công nhân, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng và tiến bộ(2).

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta rất coi trọng việc củng cố, mở rộng và tăng cường các mối quan hệ với chính đảng ở các nước trên thế giới. Tư duy về quan hệ đối ngoại đảng của Đảng ta ngày càng được phát triển. Cụ thể là, Đại hội VI (năm 1986) của Đảng nhấn mạnh chủ trương tiếp tục tăng cường quan hệ với lực lượng cộng sản, công nhân quốc tế. Từ Đại hội VII (năm 1991), Đảng ta từng bước mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các đảng khác, chủ trương “sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới”Tại các kỳ Đại hội VIII (năm 1996), Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006), Đại hội XI (năm 2011), Đại hội XII (năm 2016), Đảng chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác. Ngày 18-2-2019, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 32-CT/TW, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới”, đây là dấu mốc quan trọng thể hiện sự phát triển về tư duy, lý luận, khẳng định vai trò quan trọng của đối ngoại đảng. Chỉ thị số 32-CT/TW nhấn mạnh, “tăng cường đối ngoại đảng là định hướng chiến lược đối ngoại quan trọng hàng đầu” và “là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng làm công tác đối ngoại là nòng cốt”; đề ra nhiệm vụ mở rộng và đưa các mối quan hệ đối ngoại đảng đi vào chiều sâu, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương, tranh thủ sự ủng hộ và tạo thêm sự hỗ trợ về mặt chính trị cho quan hệ nhà nước cũng như đối ngoại nhân dân.

Đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta nêu rõ đối ngoại phải giữ vai trò tiên phong trong tạo dựng và gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước. Đây không chỉ là nhận thức mới, mà còn là yêu cầu cao hơn đối với công tác đối ngoại nói chung và đối ngoại đảng nói riêng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Như vậy, trong hơn 94 năm qua, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ tình hình và nhiệm vụ quốc tế trong từng giai đoạn lịch sử. Trước khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), thông qua tiếp xúc, trao đổi với Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản, Đảng ta đã bước đầu hình thành một số nhận thức và nguyên tắc xây dựng mối quan hệ với các đảng anh em. Sau khi thành lập nước, Đảng ta đã đưa ra các nguyên tắc chỉ đạo trong thực hiện đối ngoại đảng, đó là độc lập, tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội. Đảng ta không quan hệ với các đảng, tổ chức cực đoan(3). Qua các kỳ đại hội, Đảng ta đã đưa ra các hướng dẫn cho sự phát triển công tác đối ngoại của Đảng, chỉ ra các phương hướng thúc đẩy đối ngoại đảng. Đối ngoại đảng không chỉ là mặt trận không thể thiếu trong các chủ trương của Đảng ta, mà còn là một bộ phận quan trọng trong đường lối ngoại giao tổng thể của Việt Nam. Trước sự phát triển của tình hình mới, đối ngoại đảng đã trở thành một kênh quan trọng để Việt Nam phát triển quan hệ đối ngoại, thể hiện hình ảnh tốt đẹp của Đảng ta đối với các nước trên thế giới, một nền tảng quan trọng để quan sát, nghiên cứu thế giới, đồng thời là kênh quan trọng để rút kinh nghiệm từ các nước, phục vụ cho sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Trên thực tiễn, trong việc xây dựng quan hệ với các đảng bạn, Đảng ta đã đạt được kết quả to lớn với những đặc điểm sau:

Thứ nhất, Đảng ta là một phần của Quốc tế Cộng sản và có quan hệ sâu sắc với Đảng Cộng sản Liên Xô kể từ khi thành lập. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và biến động ở Đông Âu, Đảng ta nhanh chóng thiết lập liên lạc và duy trì quan hệ bình thường với các đảng cộng sản mới thành lập và các đảng cánh tả đổi tên của các nước Đông Âu cũ. Cơ quan chính thức chịu trách nhiệm giải quyết các mối quan hệ với các đảng quốc tế là Ban Đối ngoại Trung ương Đảng với nhiệm vụ theo dõi tình hình quốc tế và tham mưu với Ban Chấp hành Trung ương và trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về đường lối, chủ trương lớn liên quan đến công tác đối ngoại, kịp thời đề xuất chủ trương đối với những vấn đề lớn đặt ra trong quan hệ với các đảng bạn. 

Thứ hai, Đảng ta bắt đầu thiết lập quan hệ hữu nghị với các đảng phái chính trị hợp pháp của tất cả các nước thay vì chỉ bó hẹp phạm vi các đảng cộng sản và đảng công nhân quốc tế. Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, đặc biệt là sau năm 1986, Đảng ta đã mở rộng các mối quan hệ chính thức với các đảng cánh tả theo khuynh hướng giải phóng dân tộc; ưu tiên cao nhất quan hệ với Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Nhân dân Campuchia và các đảng cộng sản, công nhân cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa là thành viên Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV). Hiện nay, với tinh thần tiếp tục phát huy tính chủ động, sáng tạo, triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục duy trì, thúc đẩy quan hệ với nhiều đảng cầm quyền, tham chính và các đảng có vai trò quan trọng tại các nước lớn, đối tác quan trọng, các nước trong khu vực và bạn bè truyền thống. Cho đến nay, Đảng ta có quan hệ với 245 chính đảng ở 111 quốc gia trên thế giới, trong đó có 96 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 28 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính, cho thấy một bối cảnh đối ngoại đảng toàn diện, rộng lớn và đa tầng.

Thứ ba, Đảng ta coi trọng cả trao đổi song phương và đa phương. Theo đó, áp dụng các cơ chế tổ chức hội thảo lý luận (với Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản Pháp), trao đổi lý luận (với Đảng Cộng sản Nhật Bản), đối thoại chính sách (với Đảng Dân chủ xã hội Đức), tham vấn với các đảng lớn và chính đảng trên thế giới(4). Trên bình diện song phương, thông qua các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến, gửi thư, điện giữa lãnh đạo Đảng ta và chính đảng các nước trên thế giới, ngoại giao chính đảng đã góp phần tăng cường trao đổi và đối thoại, tăng cường sự tin cậy chính trị. Đặc biệt, việc tổ chức các hội thảo lý luận giữa Đảng ta và các đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới, như Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, có ý nghĩa quan trọng để tổng kết và chia sẻ các thành tựu về lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. Đảng ta ký kết các thỏa thuận đào tạo, cử hàng nghìn lượt cán bộ sang Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Nhân dân Singapore và các chính đảng tại Australia mỗi năm, cùng nhiều khóa đào tạo khác cho cán bộ các cấp.

Về hợp tác đa phương chính đảng, những năm gần đây, Đảng ta tích cực tham gia nhiều cơ chế đối thoại đa phương chính đảng ở châu Á và trên thế giới. Những hoạt động này góp phần giới thiệu kinh nghiệm quản trị đất nước, chuyển tải thông điệp của Đảng ta, tăng cường sự hiểu biết của các chính đảng đối với Đảng ta nói riêng, đất nước nói chung, từ đó nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam tại khu vực và trên thế giới(5).

Như vậy, có thể thấy, đối ngoại đảng đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Đó là tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, củng cố sự tin cậy chính trị và cùng trao đổi, đề ra những phương hướng hợp tác hiệu quả hơn trong thời gian tới với các đảng lãnh đạo và các nước láng giềng. Ngoài ra, đối với các chính đảng cầm quyền hoặc có vị thế quan trọng ở các quốc gia không cùng chế độ chính trị, Đảng ta duy trì và thúc đẩy mối quan hệ trao đổi, đối thoại thực chất và hiệu quả, thể hiện vai trò tích cực và năng động.

Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và các đảng chính trị ở Ấn Độ

Tháng 9-2016, nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Việt Nam và Ấn Độ đã nâng cấp từ “quan hệ đối tác chiến lược” lên “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện”. Kết quả tốt đẹp này được tiếp tục phát huy với việc củng cố, tăng cường quan hệ chính trị giữa hai nước, trong đó có đối ngoại đảng. Theo đó, Đảng ta có quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp với các đảng của Ấn Độ, như: Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI), Đảng Cộng sản Ấn Độ Marxist (CPI-M), Đảng Quốc Đại (INC), Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) và Đảng Khối Tiến lên toàn Ấn (AIFB).

Với Đảng Cộng sản Ấn Độ (CPI), Đảng ta có quan hệ chính thức từ năm 1978 và cho đến nay, quan hệ giữa hai Đảng luôn phát triển tốt đẹp. Đảng CPI luôn tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước đây, cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta hiện nay. Đảng CPI đánh giá cao những thành tựu của công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng, tích cực ủng hộ và thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Ấn Độ và Việt Nam. Hai đảng thường xuyên cử đoàn đại biểu tham dự đại hội Đảng của nhau và trao đổi điện mừng trong các dịp đại hội và bầu lãnh đạo mới. Về phía Đảng bạn, có chuyến thăm của lãnh đạo Đảng CPI đến Việt Nam (tháng 6-1985), tham dự Đại hội VIII (tháng 6-1996), Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng ta. Nhân dịp Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng CPI đã cử đồng chí Shameem Faizee, Bí thư Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Báo New Age, tham gia đoàn nhà báo đưa tin về Đại hội của Đảng ta. Đảng CPI đã gửi điện mừng Đại hội XI, Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng ta và gửi điện mừng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Khi được tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ấn Độ Doraisamy Raja đã gửi thư chia buồn đến Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với Đảng Cộng sản Ấn Độ Marxist (CPI-M), quan hệ chính thức giữa Đảng CPI-M và Đảng ta được thiết lập từ năm 1978 và phát triển tốt đẹp tới nay. Đảng CPI-M đánh giá cao vai trò của Đảng ta, hoan nghênh sự nghiệp đổi mới và những thành tựu đạt được, cũng như kinh nghiệm xây dựng tổ chức, hệ thống chính trị và bảo đảm bình đẳng xã hội của Việt Nam. Trong nhiều năm qua, Đảng CPI-M luôn coi trọng quan hệ hợp tác với Việt Nam và Đảng ta, luôn chia sẻ và ủng hộ lập trường của ta trên nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề Biển Đông, ủng hộ việc Chính phủ Ấn Độ tăng cường quan hệ hợp tác nhiều mặt và đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Hai bên thường xuyên cử đoàn dự đại hội của nhau và trao đổi điện mừng.

Đáng chú ý, Đảng CPI-M rất tích cực phối hợp với Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ và các cơ quan đại diện của Việt Nam trong việc tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày Quốc khánh Việt Nam, Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và giao lưu hữu nghị nhân dân giữa hai nước, nhất là liên hoan hữu nghị nhân dân hằng năm được tổ chức luân phiên tại mỗi nước. Đây là những hoạt động ý nghĩa, có sức lan tỏa rộng rãi nhằm tăng cường sự hiểu biết và đoàn kết, cũng như tạo cơ hội cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nhân dân hai nước.

Với Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP), trong quan hệ với Đảng ta, nhân chuyến thăm Việt Nam vào tháng 1-2001, Thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee bày tỏ mong muốn thiết lập quan hệ chính thức giữa hai đảng. Lãnh đạo BJP có thiện cảm với nhân dân Việt Nam ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ của ta trước đây cũng như công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay, coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ nhiều mặt với Việt Nam.

Về phía Việt Nam, Đảng ta đã thiết lập quan hệ chính thức với Đảng BJP nhân chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (tháng 4-2003), luôn có sự chủ động, tích cực trong quan hệ với BJP thông qua các cuộc tiếp xúc cấp cao. Có thể kể đến một số cuộc gặp gỡ quan trọng như Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh gặp gỡ Thủ tướng Ấn Độ A. B. Vajpayee, khi đó là lãnh đạo Đảng BJP (tháng 4-2003); Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có buổi tiếp xúc với Phó Chủ tịch Đảng BJP, bà N. Heptullah (tháng 11-2013); Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi điện chúc mừng ban lãnh đạo BJP sau thắng lợi tại cuộc tổng tuyển cử vào tháng 5-2014, chúc mừng ông Amit Shah được bầu làm Chủ tịch BJP vào tháng 7-2014 và gặp gỡ lãnh đạo Đảng BJP, Thủ tướng Ấn Độ N. Modi (tháng 9-2016). Tháng 5-2018, theo Chương trình Khách quý, ông Sarbanada Sonowal, Thủ hiến bang Assam, đồng thời là lãnh đạo cấp cao BJP, đã thăm Việt Nam, khẳng định Chính phủ Ấn Độ do Đảng BJP cầm quyền hiện nay rất coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Trong các năm 2018 và 2019, Đảng ta lần lượt cử đoàn do đồng chí Nguyễn Ngọc Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam dẫn đầu và đoàn do đồng chí Huỳnh Tấn Việt, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên dẫn đầu thăm Ấn Độ theo Chương trình Khách Quý, trong đó có các cuộc trao đổi thiết thực, được phía bạn đánh giá cao. Tháng 1-2022, Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương Lê Hoài Trung hội đàm trực tuyến với Trưởng Ban Quốc tế và Nghị sĩ, cựu Bộ trưởng của BJP. Nhân dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, tháng 4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm trực tuyến với Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi. Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa sự tin cậy chính trị, tiếp xúc cấp cao và trên các kênh Đảng, Chính phủ, Quốc hội và nhân dân giữa hai nước. Có thể thấy, trong các buổi tiếp xúc, làm việc, các nhà lãnh đạo BJP đều khẳng định Chính phủ Ấn Độ do Đảng BJP cầm quyền hiện nay rất coi trọng và mong muốn tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam. Ngày 7-6-2024, nhân dịp Ấn Độ tổ chức thành công bầu cử Hạ viện lần thứ 18 và Thủ tướng Ấn Độ N. Modi tái đắc cử, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gửi thư chúc mừng tới Thủ tướng N. Modi, bày tỏ mong muốn tiếp tục đưa quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ phát triển sâu rộng hơn nữa, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, cũng như đóng góp vào hòa bình, hợp tác ở khu vực và trên toàn thế giới.

Ngày 20-7-2024, khi được tin đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ trần, Tổng thống Ấn Độ Droupadi Murmu và Thủ tướng Ấn Độ N. Modi thay mặt Chính phủ và nhân dân Ấn Độ đã gửi lời chia buồn sâu sắc trước mất mát lớn lao của Việt Nam; bày tỏ kính trọng đối với cuộc đời, sự nghiệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với sự gắn bó sâu sắc hơn bao giờ hết giữa hai Chính phủ nói chung, cũng như giữa Đảng ta và Đảng cầm quyền BJP, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có chuyến thăm chính thức Ấn Độ theo lời mời của Thủ tướng Ấn Độ N. Modi (từ ngày 30-7 đến 1-8-2024). Trong chuyến thăm, Thủ tướng Phạm Minh Chính và các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã thảo luận, đề ra phương hướng đưa quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ ngày càng phát triển mạnh mẽ, thực chất, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực.

Với Đảng Quốc Đại (INC), đây là chính đảng lớn và lâu đời nhất ở Ấn Độ, theo khuynh hướng chính trị tư sản, tư tưởng dân chủ xã hội, chủ trương xây dựng Ấn Độ trở thành một quốc gia hiện đại, có nền kinh tế độc lập, tự chủ, gồm hai thành phần nhà nước và tư nhân. Quan hệ chính thức giữa Đảng ta với Đảng INC được đánh dấu bằng chuyến thăm Ấn Độ của Tổng Bí thư Lê Duẩn vào năm 1984 và phát triển tốt đẹp từ đó đến nay. Đảng INC đã cử đoàn tham dự và gửi điện mừng các kỳ đại hội của Đảng ta. Tháng 12-2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã gửi điện mừng ông Rahul Gandhi được bầu làm Chủ tịch Đảng INC.

Nhìn chung, quan hệ giữa đảng ta với các đảng chính trị Ấn Độ phát triển hết sức tốt đẹp. Trên cơ sở đó, để triển khai hiệu quả Kết luận số 73-TB/TW, ngày 8-2-2012, của Bộ Chính trị khóa XI, “Về tăng cường quan hệ đối ngoại của Đảng trong tình hình mới”, Chỉ thị số 32-CT/TW, ngày 18-2-2019, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ đối ngoại đảng trong tình hình mới”, Đảng ta không ngừng tăng cường quan hệ với các đảng chính trị Ấn Độ thông qua tiếp xúc, trao đổi đoàn để thông tin về những thành tựu phát triển chính trị, kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian qua, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các đảng bạn đối với lập trường của ta về các vấn đề quốc tế. Với các đảng cộng sản, cánh tả tại Ấn Độ, Đảng ta trao đổi thông tin, tài liệu, ấn phẩm, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm với các đảng bạn, giới thiệu với bạn về đường lối đổi mới và chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam. Với Đảng BJP cầm quyền và Đảng INC, Đảng ta chủ động đưa hoạt động kinh tế, thương mại vào nội dung hợp tác. Đặc biệt với Đảng BJP, Đảng ta tranh thủ vị thế đảng cầm quyền của bạn để thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống và đối tác chiến lược giữa hai nước. Với các tổ chức quần chúng nhân dân, Ban Đối ngoại Trung ương và Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam đã phối hợp và thúc đẩy quan hệ hợp tác với Tổ chức Hòa bình và đoàn kết toàn Ấn (AIPSO), Ủy ban đoàn kết Ấn Độ - Việt Nam (IVSC) và các tổ chức nhân dân khác. Như vậy, trong thời gian tới, quan hệ giữa Đảng ta và các đảng chính trị Ấn Độ sẽ tiếp tục được thúc đẩy toàn diện, hiệu quả với nhiều hình thức và cấp độ./.