Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

“Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy…”

 “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với cán bộ tỉnh Thanh Hóa, ngày 20-2-1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt. Mặc dù phải chỉ đạo kháng chiến nhưng Bác vẫn dành thời gian đi thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân dân các địa phương, trong đó có tỉnh Thanh Hóa.

Lời căn dặn trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là: Cán bộ phải là mắt xích quan trọng, là dây chuyền của bộ máy, giúp cho bộ máy hoạt động có chất lượng, hiệu quả. Người còn nhấn mạnh, khẳng định vị trí, vai trò to lớn của đội ngũ cán bộ, theo đó, cán bộ là cái gốc của mọi công việc và cái gốc của cán bộ chính là đạo đức cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng không được giáo dục, không được tập hợp thành một khối thống nhất thì cách mạng cũng không đi đến thành công. Trách nhiệm của người cán bộ là người tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân và tập hợp quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất mới tạo ra sức mạnh tổng hợp và đưa cách mạng đến thành công. Cán bộ còn là cầu nối, là dây chuyền của bộ máy, phải thực sự tận tâm, tận lực với công việc, thực sự là tấm gương trước quần chúng nhân dân, thực sự là công bộc của dân.

Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lời căn dặn của Bác vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa to lớn, là tư tưởng chỉ đạo trong công tác cán bộ của Đảng ta, đồng thời là yêu cầu, đòi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ trong quân đội nói riêng phải không ngừng học tập, tu dưỡng về phẩm chất, năng lực, thực sự là hạt nhân đoàn kết, gương mẫu, tiêu biểu về mọi mặt, tận tâm tận lực với công việc, là tấm gương sáng trong từng đơn vị để cán bộ, chiến sĩ học tập, noi theo, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ

 Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên ngày 13-3-1960, trong thời điểm miền Bắc đang tiến hành khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN); quân và dân miền Nam đang đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng mới.

Quan điểm trên đây của Người cùng với đường lối, chủ trương đề ra tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu hành động của các tầng lớp Nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường cách mạng XHCN, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ngược lại, con người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Năm 1975, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc-kỷ nguyên độc lập, hòa bình, thống nhất, cả nước đi lên CNXH.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay có nhiều chuyển biến mau chóng, phức tạp, câu nói của Bác: “CNXH là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là mục tiêu lý tưởng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta hướng tới.

Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn đức, luyện tài, phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực tự cường, cần, kiệm xây dựng đất nước, xây dựng quân đội vững mạnh.

Ra mắt bộ sách mới về Bác Hồ: “Rèn nhân cách - Luyện tài năng”

 Nhân dịp kỉ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2024) và 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2024), nhằm giúp các em học sinh có thêm tư liệu tìm hiểu về Bác Hồ kính yêu, phấn đấu, học tập, rèn luyện theo gương sáng của Người, Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản bộ sách “Rèn nhân cách - Luyện tài năng”.

Bộ sách gồm 5 cuốn với 5 chủ điểm: Yêu nước; Đoàn kết; Khiêm tốn; Giản dị; Tiết kiệm. Những câu chuyện về Bác được các tác giả là các giảng viên thế hệ 8X Tạ Văn Sang, Bùi Văn Như, Phạm Văn Hòa sưu tầm và kể lại một cách ngắn gọn, súc tích.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ muôn vàn kính yêu của chúng ta là tấm gương sáng về đạo đức, tác phong và phẩm chất cách mạng để các thế hệ thời đại mới học tập và noi theo. Sinh thời, bằng hành động, việc làm cụ thể, Bác đã luôn gợi mở cho chúng ta rất nhiều bài học thực tế về lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần đoàn kết, nếp sống kỉ luật, giản dị, liêm khiết, suốt đời phấn đấu hi sinh vì sự nghiệp cách mạng, vì hạnh phúc của nhân dân.

Giản dị, trước hết là lối sống đơn giản, không phô trương, không coi nặng tiền bạc. Giản dị từ cách diễn đạt, sinh hoạt, trang phục, nơi ăn chốn ở nhưng lại trọng nghĩa, trọng tình, tinh tế và sâu sắc trong đối nhân xử thế, được đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế kính trọng.

Tiết kiệm là sử dụng chừng mực, đúng mức, không phí phạm tiền bạc, của cải, sức lực, thời gian. Tiết kiệm cũng được hiểu là sự dành dụm, tích lũy do biết quản lí, chi phí tiêu dùng đúng mức. Với Bác, tiết kiệm không chỉ là câu chuyện chiếc phong bì, tờ bản tin, bữa cơm… ở phòng làm việc, cơ quan, công xưởng mà còn rộng lớn hơn, tiết kiệm là đức tính hữu ích cho xã hội. Bác đưa ra những quan điểm về tiết kiệm một cách gần gũi, dễ hiểu và giúp mọi người ai cũng có thể thực hành tiết kiệm được.

Khiêm tốn là có ý thức và thái độ đúng mực trong việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình hơn người. Trong cuộc sống, khiêm tốn thể hiện từ lời ăn, tiếng nói, cách ứng xử, truy cầu học hỏi, không ngừng hoàn thiện bản thân. Để rèn luyện đức tính khiêm tốn đúng mức, chúng ta cần hạn chế khoe khoang hay phô trương, không coi mình là “bậc thượng đẳng” quan trọng hơn nhiều so với người khác, biết tiếp thu ý kiến và trân trọng những gì người khác mang lại cho mình. Đọc những chuyện kể về Bác, chúng ta nhận thấy trong bất kể hoàn cảnh nào, Bác Hồ cũng luôn là người mực thước, khiêm cung.

Yêu nước, tình yêu đất nước hay lòng ái quốc, là cảm xúc, tình cảm, tinh thần yêu thương tích cực dành cho quê hương, đất nước, cội nguồn của một cá nhân hay một cộng đồng. Tình yêu đất nước, quê hương thể hiện ở niềm tự hào về những thành tựu của văn hóa, lịch sử, truyền thống… cũng như mong muốn được bảo vệ, giữ gìn, cống hiến hết mình cho nhân dân, cho Tổ quốc. Đọc những chuyện kể về Bác, chúng ta thấy một cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân và tận hiến đời mình cho dân tộc Việt Nam.

Đoàn kết là kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung. Tinh thần đoàn kết rất quan trọng, cần nhất quán, gắn bó, thống nhất một lòng, có thế sức mạnh và trí tuệ mới nhân lên, vượt qua được những thử thách của cuộc sống. Để rèn luyện đức tính đoàn kết, chúng ta nên rèn luyện, xây dựng tinh thần đồng đội, tăng cường kĩ năng hợp tác, giao tiếp, giải quyết vấn đề, gây dựng niềm tin, biết đồng thuận cũng như tôn trọng sự khác biệt. Trong suốt cuộc đời mình, Người cũng luôn tận tâm, tận lực quan tâm, nuôi dưỡng, gây dựng, gắn bó, đoàn kết mọi người, mọi nhà, mọi vùng miền, mọi tầng lớp nhân dân trong nước cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Những câu chuyện kể ngắn gọn, ý nghĩa về Bác Hồ được giới thiệu trong bộ sách "Rèn nhân cách - Luyện tài năng" sẽ làm sáng rõ thêm những phẩm cách cao quý của một vị lãnh tụ - danh nhân văn hóa, suốt đời vì dân vì nước. Phẩm chất, tư cách, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng cũng như những chuyện kể về Bác luôn để lại cảm xúc sâu đậm và có ý nghĩa sâu sắc với mỗi chúng ta.

Trong dịp này, nhiều ấn phẩm viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản như: “Búp Sen Xanh”, “Thầy giáo Nguyễn Tất Thành ở trường Dục Thanh”, “Tấm chân dung Bác Hồ”, “Từ Làng Sen”; “Bác Hồ sống mãi”, “Bác Hồ viết Tuyên ngôn Độc lập”, “Bác Hồ viết Di chúc và Di chúc của Bác Hồ”, “Bác Hồ kính yêu”, “Kể chuyện Bác Hồ”, “Suốt đời học Bác”, “Những thiếu nhi bên Bác ngày ấy”…/.

 

Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi…

 Lời trên được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu trong bài “Một công nhân gương mẫu”, đăng trên Báo Nhân Dân, số ra ngày 29-3-1955, khi mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, nhưng cũng còn nhiều khó khăn, cùng lúc phải thực hiện cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, vì vậy cần phải có sự nỗ lực cố gắng, đẩy mạnh thi đua.

Người chỉ rõ: Muốn thi đua đạt kết quả tốt thì đầu óc phải suy nghĩ, tìm tòi và phải có sáng kiến thì mới thu được kết quả tốt, cũng như chân tay phải cần cù nhanh nhẹn, có như vậy kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công.

Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp cách mạng nước ta tuy đã đạt được những thành tựu to lớn sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Lời dạy của Người: “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi… cũng như tay chân phải cần cù nhanh nhẹn” vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục được Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, các tổ chức chính trị xã hội… hiện thực hóa thành các phong trào thi đua sâu rộng… Để thực hiện tốt nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đòi hỏi nội dung, hình thức, phương pháp thi đua phải sát với yêu cầu thực tiễn của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân; từ phong trào nhỏ, quy mô nhỏ, tiến tới phong trào lớn và quy mô lớn.

Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn thi đua có kết quả tốt, thì đầu óc cần phải suy nghĩ tìm tòi...” và “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát triển, yêu cầu cao; thời cơ, thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen. Điều đó đặt ra cho công tác thi đua phải tiếp tục đổi mới, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả, thực sự là động lực thúc đẩy toàn quân hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.


Bồi dưỡng thế hệ cách mạng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin tưởng vào các thế hệ đoàn viên, thanh niên Việt Nam. Trước lúc đi xa, Bác đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với đoàn viên, thanh niên. Người căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên””.

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau

Được Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu viết từ tháng 5/1965, bản Di chúc thực sự là kết tinh trí tuệ và tình cảm của Bác; là những lời di huấn thiêng liêng nhất Người muốn gửi lại toàn dân tộc trước lúc đi xa. Nội dung Di chúc đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng như xây dựng Đảng; bồi dưỡng thế hệ cách mạng; giáo dục đạo đức, truyền thống… qua đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện và khả năng dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Bác với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Trong đó, Người đặc biệt nhấn mạnh việc chăm lo, giáo dục đoàn viên, thanh niên. Theo Bác, cách mạng là sự nghiệp lâu dài; vì vậy Đảng phải có lực lượng nòng cốt là đoàn viên, thanh niên. Muốn xây dựng Đảng phải quan tâm giáo dục thế hệ trẻ, đoàn viên, thanh niên; Đảng, Nhà nước và nhân dân cần quan tâm, chăm lo đoàn viên, thanh niên với tư cách là những chủ nhân tương lai của đất nước.

Người viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ” (1). Đây là kết quả tổng kết, đúc rút từ chính thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ cách mạng. Lời căn dặn này của Bác trong Di chúc có giá trị định hướng việc giáo dục rèn luyện và phát huy mọi khả năng của đoàn viên, thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Cùng với đó, Người nhấn mạnh: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết” (2). Việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau thể hiện trong “Di chúc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết là bồi dưỡng lý tưởng cộng sản; giáo dục truyền thống yêu nước; bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo lực lượng kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đó là sự quan tâm, chăm lo cho sự nghiệp cách mạng, vun trồng “cái gốc” để sự nghiệp của các thế hệ đi trước luôn được thế hệ trẻ gìn giữ, phát huy, phát triển. Đồng thời, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc còn thể hiện nhãn quan chính trị sáng suốt, tầm nhìn sâu sắc của Bác đối với vận mệnh của dân tộc; có giá trị cả với hiện tại và tương lai của đất nước.

Giáo dục thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định vị trí vai trò của đoàn viên, thanh niên trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ năm 1925, Bác đã khẳng định trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”: “Hỡi Đông Dương đáng thương hại. Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh” (3). Theo Người, thanh niên là bộ phận trẻ, khỏe, dám nghĩ, dám làm, giàu ý chí, nghị lực và ước mơ; “Thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội… Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và dân quân tự vệ…” (4). Do vậy, tập hợp, giáo dục, rèn luyện đoàn viên, thanh niên luôn là vấn đề quan trọng của sự nghiệp cách mạng.

Đặc biệt, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần quan tâm, giáo dục đạo đức cách mạng để đoàn viên, thanh niên “thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” (5). Thấm nhuần và thực hiện căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 55 năm qua, Đảng ta đã luôn quan tâm chăm lo, xây dựng, bồi dưỡng, rèn luyện các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Thanh niên Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, đóng góp quan trọng trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, thế hệ trẻ Việt Nam đã và đang chứng tỏ bản lĩnh, sức trẻ, sự sáng tạo và tinh thần dám nghĩ, dám làm; luôn trung thành với sự lãnh đạo của Đảng, kiên định lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Đại đa số thanh niên Việt Nam đã ra sức tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi phương diện, tích cực lao động sản xuất, tiến vào khoa học - công nghệ, để cùng với toàn Đảng, toàn dân thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những phong trào thi đua, như Thanh niên tình nguyện, Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ học đường,... được đông đảo đoàn viên, thanh niên, sinh viên và học sinh hưởng ứng đã trở thành động lực cho sự phát triển của các địa phương trong cả nước.

Tuy nhiên, mặt trái nền kinh tế thị trường và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đang tác động tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, ý chí phấn đấu của đoàn viên thanh niên hiện nay. Một bộ phận đoàn viên, thanh niên vì vậy đã có những biểu hiện phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống hưởng thụ, thực dụng; ngại cống hiến, thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội;…

Trước thực trạng trên, tiếp tục thực hiện căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc về bồi dưỡng thế hệ cách mạng, thời gian tới, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đoàn viên, thanh niên với nội dung và phương pháp thích hợp làm cơ sở cho nâng cao bản lĩnh chính trị, thức trách nhiệm, giữ vững niềm tin của đoàn viên, thanh niên vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn các cấp trong tập hợp, giáo dục và đưa đoàn viên, thanh niên vào các phong trào hành động cách mạng. Chú trọng nâng cao chất lượng các phong trào thi đua của tuổi trẻ cả nước; nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến gắn với đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Đặc biệt, cần quan tâm xây dựng môi trường xã hội tích cực, tạo cơ hội thuận lợi để đoàn viên, thanh niên phát triển bản thân và cống hiến cho sự nghiệp phát triển của đất nước. Hoàn thiện hệ thống chính sách, quan tâm, chăm lo toàn diện đời sống vật chất, tinh thần và nhu cầu, lợi ích chính đáng của thanh niên. Đồng thời, chủ động khắc phục tư tưởng hoài nghi, hoang mang, dao động, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Kiên trì xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam có đạo đức cách mạng, có ý thức chấp hành kỷ luật, có văn hóa, lối sống lành mạnh... là lực lượng nòng cốt trong xây dựng đất nước Việt Nam “to đẹp hơn, đàng hoàng hơn", như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời./.

 



 

“Bất kỳ việc to việc nhỏ, phải chịu khó giải thích cho mọi người dân hiểu rõ thì dân sẽ vui lòng làm, mà việc gì cũng thành công”

 Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài: “Công trái”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1859, ngày 11 tháng 7 năm 1951. Đây là giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đảng và Nhà nước ta phát hành công trái để phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc đi đến thành công. Mặc dù cuộc phát hành công trái nhìn chung đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra; nhưng có địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu; đặc biệt, so với việc Liên Xô phát hành công trái thì ta còn hạn chế. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích và chỉ ra lý do những địa phương, đơn vị chưa đạt chỉ tiêu là do cán bộ những nơi đó tuyên truyền, giải thích chưa rõ, thậm chí quan liêu, mệnh lệnh.

Hồ Chí Minh khẳng định, trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bất kỳ từ “việc to” đến “việc nhỏ”, nếu biết cách và kiên trì tuyên truyền, giải thích, động viên quần chúng nhân dân để họ hiểu rõ thì sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và việc gì cũng sẽ đem lại thành công. Lời dạy đó không chỉ dành cho một người, một việc mà còn dành cho mọi cán bộ, đảng viên trong tất cả mọi việc. Qua đây, Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh những tác động tiêu cực của bệnh quan liêu, mệnh lệnh đối với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.

Lời dạy trên đây của Hồ Chí Minh là sự khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng; đồng thời, cũng nói lên tầm quan trọng đặc biệt của công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giác ngộ, đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng khó khăn, phức tạp hơn, trong khi đó các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, kích động, chia rẽ nhân dân với Đảng. Thực tế đó càng đòi hỏi phải quán triệt và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền.

“Mọi người công dân - già trẻ gái trai - đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà”

 “Mọi người công dân-già trẻ gái trai-đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà. Mọi người phải nâng cao tinh thần trách nhiệm cần kiệm xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội”- Là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện với nhân dân và cán bộ tỉnh Hải Dương khi Người về thăm và làm việc tại địa phương, ngày 26-7-1962. Đây là thời kỳ miền Bắc đang đẩy mạnh xây dựng CNXH; miền Nam chiến đấu anh dũng chống đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất nước nhà.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới chế độ mới-chế độ Dân chủ nhân dân, mọi công dân phải có tinh thần làm chủ đất nước, phải khắc phục tư tưởng làm thuê, làm mướn dưới chế độ thuộc địa, nửa phong kiến và phải chống chủ nghĩa cá nhân. Phải không ngừng phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, nhất là cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần mình vì mọi người, mọi người vì mình, đề cao trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập, công tác và thực hành tiết kiệm, thật sự là người chủ xây dựng đất nước.

Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, dân tộc ngày càng gay gắt; sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa thực tiễn to lớn; bởi, chỉ có đề cao tinh thần tự lực, tự cường, làm chủ mới có sự sáng tạo và chỉ có sáng tạo mới tạo ra những giá trị đáp ứng cho sự phát triển bền vững và bảo đảm cho thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Lời Bác dạy có ý nghĩa quan trọng, thiết thực đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; bảo đảm cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong bất luận mọi điều kiện, hoàn cảnh phải tuyệt đối trung thành và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; ra sức học tập nâng cao trình độ mọi mặt; tích cực phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, bảo quản, giữ gìn, khai thác và phát huy tốt nhất sức mạnh của vũ khí, trang bị; thực hành cần, kiệm, liêm, chính; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, thờ ơ, ngại rèn luyện, kém phấn đấu; nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD “mẫu mực, tiêu biểu”

“Nhờ tinh thần anh dũng và lòng yêu nước của toàn thể Nhân dân Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi”

 Đó là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8-1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, đã lật đổ chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước, toàn dân ta nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hy sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ngày nay, quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

Cách mạng Tháng Tám thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong đồng bào Công giáo

 inh thần dân tộc và lòng yêu nước của đồng bào Công giáo Việt Nam như những viên than hồng âm ỷ cháy, khi Cách mạng Tháng Tám đến đã thổi bùng lên thành biển lửa, làm thay đổi diện mạo của Giáo hội với hầu hết người Công giáo đã đứng về phía Cách mạng.

Đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XVII. Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tôn giáo - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, ngay từ thời kỳ đầu Công giáo vào Việt Nam, đã xuất hiện những linh mục, tín hữu Công giáo người Việt có tư tưởng Công giáo đồng hành cùng dân tộc, tiêu biểu như linh mục Đặng Đức Tuấn (1806 - 1874) đã dâng kế sách chống Pháp (còn gọi là “Minh đạo bình Tây sách”); giáo dân Đinh Văn Điền ở Yên Mô- Ninh Bình, năm 1868 đã mật tâu với vua kế sách để đánh Pháp bằng việc canh tân đất nước, luyện tập võ bị sẵn sàng đánh Pháp; nhân sĩ người Công giáo Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một nhà cải cách có lòng yêu nước, đã đã chủ trương làm cuộc cách mạng trong giáo dục để chấn hưng dân trí, phát triển đất nước.

Đầu thế kỷ XX, ở vùng đất Nghệ Tĩnh dưới sự lãnh đạo của nhà trí sĩ yêu nước Phan Bội Châu với phong trào Đông Du - Duy Tân, một tổ chức yêu nước cách mạng riêng cho người Công giáo được thành lập với tên gọi Duy Tân Giáo đồ hội. Ban lãnh đạo Hội gồm 3 linh mục: Đậu Quang Lĩnh, Nguyễn Thần Đồng, Nguyễn Tường và thầy giảng đạo Mai Lão Bạng. “Chương trình hoạt động của hội là: Tuyên truyền, giải thích cho giáo sĩ, giáo dân Việt Nam về tinh thần yêu nước, xóa bỏ thành kiến đối với những người yêu nước chống Pháp;  Tổ chức các hội buôn hay cơ sở công nghệ để làm kinh tài cho phong trào Đông Du; Vận động các nhà phú hữu Công giáo đóng góp tài chính cho phong trào; Vận động thanh niên Công giáo cùng với thanh niên bên lương xuất gia tu học ở Nhật Bản”, PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương cho biết.

Còn theo TS. Pham Huy Thông, Phó Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Tôn giáo học - Viện Trí Việt, tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của người Công giáo Việt Nam thời kỳ Cách mạng Tháng Tám được biểu lộ qua nhiều hoạt động, như: tháng 7/1945, những nhạc sĩ Công giáo như Hùng Lân, Nguyễn Khắc Xuyên, Tâm Bảo… đã họp nhau tại phố Phủ Doãn (Hà Nội) để lập ra một nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh với chủ trương: “Về nội dung: Phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, về nghệ thuật: lấy dân ca cổ truyền làm cấu trúc âm thanh”. Trước đó trong thánh nhạc Công giáo, từ ca từ đến giai điệu đều là ở nước ngoài đưa vào.

Trong ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, mặc dù bị bề trên là các giáo sĩ người nước ngoài cấm đoán, nhưng 200 chủng sinh Đại Chủng viện Xuân Bích vẫn tập hợp để biểu thị ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh. Thiết kế kỳ đài cho Lễ Tuyên ngôn Độc lập là họa sĩ người Công giáo Lê Văn Đệ và chỉ huy đoàn quân nhạc cử bài “Tiến quân ca” hôm đó cũng là nhạc sĩ người Công giáo Đinh Ngọc Liên.

Nhiều Tòa Giám mục như Hà Nội, Thái Bình tu sĩ, linh mục đã tập trung hô các khẩu hiệu: “Các giáo sĩ nước ngoài hãy về nước, giáo hội Việt Nam để cho người Việt Nam”, những giáo phận này sau đó phải thay vị Tổng đại diện người nước ngoài bằng các linh mục người Việt. Tại Sài Gòn, không chỉ giáo dân mà có cả linh mục tham gia diễu hành ủng ủng hộ Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Những người Công giáo kháng chiến Nam Bộ ra tuyên bố: “Xét rằng, người Pháp xâm chiếm đất nước Việt Nam chúng ta và áp bức nhân dân Việt Nam trong 80 năm. Xét rằng, người Pháp thờ Chúa mà không sống yêu thương và công bằng như Chúa dạy mà tham lam đến độ không ngần ngại đàn áp nhân dân Việt Nam. Chúng ta phải đem cả con tim và trí tuệ bảo vệ sự sống còn của dân tộc chúng ta…” (1).

Đặc biệt, hào khí của Cách mạng Tháng Tám đã tác động đến hàng giáo sĩ cấp cao của Giáo hội tại Việt Nam qua việc các giám mục gửi thư cho Đức Giáo hoàng. “Cả 4 giám mục người Việt Nam lúc đó cùng ký tên vào bức điện gửi Tòa Thánh và Kitô hữu toàn thế giới đề nghị ủng hộ nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời bày tỏ quyết tâm bảo vệ đất nước đến cùng”, TS. Phạm Huy Thông nhấn mạnh.

Theo PGS.TS. Nguyễn Hồng Dương: Cách mạng Tháng Tám đã thôi thúc người Công giáo vùng lên cùng dân tộc giành lấy chính quyền. Người Công giáo huyện Kim Sơn (Ninh Bình) tham gia cướp chính quyền từ tay kẻ xâm lược, tổ chức mít tinh, biểu tình, đoàn người đa số là thanh niên Công giáo rực rỡ cờ đỏ sao vàng và căng khẩu hiệu vừa đi vừa hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Ủng hộ mặt trận Việt Minh”. Hàng chục vạn đồng bào Công giáo ở Vinh, Huế, Thái Bình, giương cao cờ đỏ sao vàng, xuống đường ủng hộ Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong lúc Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa ra đời còn non trẻ bị các thế lực giặc trong thù ngoài vây phá, đồng bào Công giáo cả nước đã thể hiện quyết tâm đứng lên bảo vệ Chính phủ Hồ Chí Minh. Điển hình là các giám mục, linh mục, giáo dân vùng Vinh - HàTĩnh - Quảng Bình gửi thư lên Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định quyết tâm: “Dù phải hy sinh xương máu để kiến thiết nước nhà tự do hạnh phúc hoàn toàn thì chúng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại”. Trong thư hồi âm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng cảm ơn: “Tôi thay mặt Chính phủ cảm ơn bức thư các vị đã gửi cho chúng tôi. Trong thư viết: “Dù phải hy sinh xương máu để kiến thiết một nước nhà tự do hạnh phúc hoàn toàn, thì chúng tôi cũng sẵn sàng không ngần ngại”. Câu nói nhiệt thành đó tỏ rằng các vị là những người chân chính yêu nước, đồng thời cũng là những chân chính của tín đồ của Đức Giêsu. Đức Giêsu hy sinh vì muốn loài người được tự do hạnh phúc, đồng bào cả lương cả giáo cũng vì tự do hạnh phúc cho toàn dân mà hy sinh phấn đấu” (2).

Hưởng ứng “Tuần lễ vàng” của Chính phủ cách mạng, Giám mục Giáo phận Bùi Chu Hồ Ngọc Cẩm thể hiện tinh thần kính Chúa, yêu nước bằng cách giữ lại cây thánh giá để phụng sự Thiên Chúa, dây chuyền vàng thì ủng hộ cho kháng chiến kiến quốc của dân tộc. Giám mục Hồ Ngọc Cẩn viết: “Phàn tôi khi thụ phong Giám mục, có một đấng biếu tôi Thánh giá và dây đeo thực bằng vàng. Nhưng tôi nghĩ, trên có giời che, dưới có đất chở. Trên phải phụng sự Thiên Chúa, dưới cũng không quên Tổ quốc. Vậy trong lúc này, tôi cũng vui lòng chia của quý này làm hai. Thánh giá tôi giữ lại để phụng sự Thiên Chúa, dây đeo tôi xin dùng để phụng sự quốc gia” (3).

Từ những minh chứng sống động trên, TS. Phạm Huy Thông khẳng định: Tinh thần yêu nước của người Công giáo như những viên than hồng âm ỷ cháy, khi Cách mạng tháng Tám đến đã thổi bùng lên thành biển lửa, làm thay đổi diện mạo của Giáo hội với hầu hết người Công giáo đã đứng về phía Cách mạng, khiến Giám mục Cassaigne phải thốt lên ngạc nhiên: “Họ đã cải biến người An Nam của chúng ta đi mất rồi”. Cũng theo TS. Phạm Huy Thông, lòng yêu nước của người Công giáo Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trân trọng. Ngay sau Quốc khánh, trong Chính phủ Cách mạng có nhiều gương mặt Công giáo, như bác sĩ Vũ Đình Tụng - Bộ trưởng Y tế, Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hà - Bộ trưởng Kinh tế, nhân sĩ Ngô Tử Hạ - Bộ trưởng Cựu chiến binh. Hai Giám mục Lê Hữu Từ và Hồ Ngọc Cẩn là cố vấn Chính phủ, Linh mục Phạm Bá Trực là Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội khóa đầu tiên./.

 

 

“Cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào Nhân dân…”

 “Cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào Nhân dân; trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của Nhân dân là vô cùng vô tận”. Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong bài nói chuyện tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc, ngày 14-9-1959.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, qua thực tiễn hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Người cho rằng, Nhân dân rất thông minh, sáng tạo, là nguồn sức mạnh vô tận. Thực tiễn đã chứng minh, thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược và trong sự nghiệp đổi mới đất nước đều xuất phát từ đường lối, quan điểm “lấy dân làm gốc”.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ là việc riêng của các cơ quan Nhà nước, của cán bộ, đảng viên, mà có sự tham gia tích cực của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Hoạt động của quần chúng Nhân dân theo phương châm đó, trước hết, là giúp cho các tổ chức Đảng và cơ quan Nhà nước khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, đề cao trách nhiệm trước Nhân dân, tôn trọng ý kiến và nguyện vọng của nhân dân; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thấm nhuần lời Bác dạy, trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, thương yêu, tôn trọng bộ đội. Mối quan hệ cán-binh được xây dựng trên cơ sở tình thương yêu đồng chí, đồng đội, được tôi luyện, thiết lập vững chắc qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, vừa là thuộc tính bản chất của một quân đội cách mạng, vừa là một trong những cơ sở tạo nên sức mạnh, vượt mọi khó khăn thử thách, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. 


Giá trị văn hoá trong Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước toàn dân và toàn thế giới về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn độc lập của Người là áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện có giá trị cao về tư tưởng, lý luận, văn hoá vô cùng đặc sắc, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại; là nơi kết tinh và toả sáng những nét đẹp văn hoá rất tiêu biểu của dân tộc như: yêu nước, đoàn kết, nhân ái, khoan dung và yêu chuộng hoà bình.

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chí Minh soạn thảo là sự khái quát cao nhất về khát vọng của dân tộc Việt Nam trong việc khẳng định chủ quyền dân tộc để xác lập quyền dân tộc và quyền con người trong thời đại mới. Chính Người từng khẳng định: “Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản yêu cầu gửi cho Hội nghị Véc xây mà cụ Hồ đã viết năm 1919 và Chương trình Việt Minh cụ Hồ đã viết năm 1941. Hơn nữa bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của tiền bối như các cụ Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay” [1]. Đó là sự hy sinh cao quý của những người con ưu tú của dân tộc, đấu tranh bền bỉ không tiếc xương máu của bản thân cho sự nghiệp cao cả.

Người viết: “Bản Tuyên ngôn độc lập là hoa là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường... Bản Tuyên ngôn độc lập là một trang vẻ vang trong lịch sử Việt Nam” [2]. Từ những giá trị đó mà người viết Tuyên ngôn được xem là linh hồn của dân tộc Việt Nam, là hiện thân của chủ nghĩa dân tộc chân chính. Vì vậy, Tuyên ngôn không chỉ là sự kết tinh của văn hóa dân tộc và nhân loại mà còn chuyển tải được sự nghiệp văn hóa Hồ Chí Minh mà trong đó nội dung của Tuyên ngôn đã xác lập các khái niệm, phạm trù văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại.

Nếu nhìn văn hóa ở góc độ hoạt động thực tiễn để tạo ra giá trị vật chất và tinh thần, nhà văn hóa lớn của Colombia khẳng định: “Bản thân cách mạng cũng là một sự nghiệp văn hóa, nó biểu hiện trọn vẹn một thiên hướng và khả năng sáng tạo, chứng minh và đòi hỏi ở tất cả chúng ta một niềm tin sâu sắc ở tương lai” [3]. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì khẳng định: “Sự nghiệp văn hóa quan trọng nhất của Người là đã lãnh đạo toàn dân đánh đuổi giặc ngoại xâm trong thời đại mới, giành lại cho nhân dân những quyền sống của con người, một cuộc sống có văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa” [4]. Nói như vậy, Hồ Chí Minh thực sự là một nhà văn hóa kiệt xuất và sự nghiệp cách mạng của Người chính là sự nghiệp văn hóa, giá trị văn hóa mà Hồ Chí Minh xác lập dựa trên giá trị của loài người.

Nói đến văn hóa là nói tới giá trị, là bàn tới trình độ con người trong các mối quan hệ xã hội và tự nhiên, trong đó nổi lên là tầm trí tuệ văn hóa. Từ phương diện này chúng ta thấy Tuyên ngôn độc lập năm 1945, là một điển mẫu của việc sử dụng tri thức trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội. Đó là việc, Người đã kế thừa giá trị văn hóa nhân loại trong việc khẳng định quyền con người. Mở đầu Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã dùng các khái niệm như “tất cả mọi người...”, “người ta sinh ra...”, để mở đầu cho sự khẳng định điều tự nhiên của con người văn minh, tiến bộ phải được thừa hưởng giá trị “tự do”, “bình đẳng”...

Như vậy, cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp đã xác lập một giá trị văn hóa mà không ai có thể chối cãi, Người gọi đó là lẽ phải, là chân lý hiển nhiên của con người. Có thể nói Hồ Chí Minh đến với cách mạng, xác lập sự nghiệp mới của cách mạng từ giá trị văn hóa của nhân loại. Một sự trùng hợp đến lạ lùng, đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh ngồi trong căn nhà của một gia đình tư sản dân tộc để viết Tuyên ngôn độc lập mà mở đầu cũng chính là sự kế thừa những giá trị văn hóa của tư sản để khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Ở sự trùng hợp lạ lùng này có nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định đây là cơ sở để Người “phát huy khả năng tiên tri, tiên giác về một nền văn hóa nhân văn của thời đại mới mang tính phổ quát của toàn nhân loại. Với nguồn lực văn hóa lớn lao và tươi mới như vậy, Hồ Chí Minh đã cùng với cả dân tộc ta làm nên sự nghiệp chính trị vĩ đại: giành độc lập, tự do cho dân tộc và nhân dân, đem lại hạnh phúc cho con người” [5].

Văn hóa là một kho tàng kiến thức của con người về thiên nhiên, cuộc sống cũng như đánh giá sự tồn tại mà giá trị của nó có thể tăng cường lòng tin vào tính hoàn thiện không ngừng của con người. Muốn tồn tại, cùng với việc xây dựng, chắt chiu những giá trị văn hóa, thì phải loại bỏ khỏi cuộc sống những tư tưởng và hành vi phản văn hóa. Trên phương diện đó, chúng ta thấy điểm chung của văn hóa được biểu hiện ở trình độ tri thức làm người - trình độ người là văn hóa. Trình độ người ở đây, được hiểu là sự tôn trọng về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [6]. Đặc trưng của văn hóa là sự tiếp biến và vượt gộp. Có nghĩa là tiếp thu những giá trị văn hóa của nhân loại từ đó biến đổi thành cái riêng cái đặc sắc của chính mình; còn vượt gộp là thâu thái những giá trị văn hóa của nhân loại từ đó vượt lên trên tất cả. Về phương diện này, mở đầu Tuyên ngôn độc lập năm 1945, chúng ta thấy rất rõ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu giá trị văn hóa của nhân loại mà trực tiếp là di sản văn hóa về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để nâng nó lên thành quyền dân tộc, Người viết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [7]. Người gọi đó là lẽ phải - tức là chân lý khách quan, hiển nhiên. Từ giá trị văn hóa này mà nhân loại không thể phủ nhận quyền con người và quyền dân tộc của cách mạng Việt Nam cho dù họ không muốn. Vì vậy mà quyền dân tộc được Hồ Chí Minh xác lập đã trở thành một giá trị phổ biến trong thế giới đương đại hiện nay.

Khẳng định và xác lập về chủ quyền của một dân tộc độc lập cũng chính là sự sáng tạo ra một sự nghiệp văn hóa mới của Hồ Chí Minh. Chúng ta biết, chủ nghĩa thực dân là một vết nhơ của lịch sử, là phản văn hóa. Đấu tranh đánh đổ chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ một vết nhơ của lịch sử là một sự nghiệp văn hóa vĩ đại, Người vạch trần bản chất phản văn hóa đó của thực dân: “Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. Từ sự xâm lược thuộc địa, vi phạm quyền dân tộc tất yếu dẫn đến vi phạm các quyền cơ bản của con người như quyền dân chủ, dân sinh, tự do... Cụ thể: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu, cồn, để làm cho nòi giống ta suy nhược” [8].

Có thể nói, Tuyên ngôn độc lập là một sáng tạo văn hóa độc đáo của Hồ Chí Minh. Thông qua Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã thể hiện tính sáng tạo, lưu giữ, giáo dục cho cái đúng, cái tốt, và tạo điều kiện cho cái đẹp được nảy nở trong xã hội. Sau khi vạch trần tội ác man rợ của thực dân Pháp gây ra đối với nhân dân Việt Nam, như việc chúng hai lần bán nước ta cho Nhật, thẳng tay khủng bố Việt Minh, thậm chí khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị, v.v.. Nhưng khi chúng ta giành được thắng lợi “đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo,… cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ” [9]. Đoạn văn trên đã thể hiện trình độ người của quan hệ xã hội. Chúng ta ứng xử với thực dân Pháp trên góc độ của văn hóa người - cốt lõi là văn hóa khoan dung được đúc kết hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, là đặc biệt tôn trọng tính mạng con người. Với tư tưởng này, Hồ Chí Minh thực sự là một nhà chính trị có một nhãn quan văn hóa toàn diện bao quát và sâu sắc.

Từ lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập cho đến đoạn kết của Tuyên ngôn, chúng ta thấy, điều xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều hướng tới một quan hệ văn hóa. Người kiến giải trên góc độ của văn hóa, nền tảng của văn hóa; từ văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức cho đến văn hóa pháp luật. Về văn hóa chính trị, Người tố cáo chủ nghĩa thực dân Pháp thực thi một nền chính trị độc tài, phi dân chủ, phản dân chủ và mất nhân tính, để đi đến khẳng định chủ nghĩa thực dân là thú tính: “Về chính trị - Chúng tuyệt đối không cho dân ta một chút tự do dân chủ nào” [10].

Nhận thức về văn hóa chính trị ở Hồ Chí Minh đã có trước đó, trong tác phẩm Nhật ký trong tù năm 1942, ở mục đọc sách Người đã nêu lên năm điểm lớn của nền văn hóa mới, trong đó về chính trị, Người viết: “Xây dựng một nền chính trị dân quyền”. Chính yếu tố văn hóa trong Tuyên ngôn độc lập đã làm cho Tuyên ngôn trường tồn cùng dân tộc. Là một nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, hơn ai hết, Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng không thể nào có ý thức độc lập, tự do, xây dựng chính trị dân quyền nếu nhân dân còn mù chữ. Vì vậy, Người tố cáo chính sách giáo dục của thực dân “chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học” và “thi hành chính sách ngu dân”. Hành động phản văn hóa của thực dân đã mang một tội ác to lớn “chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”.

Sau khi tố cáo những tội ác của thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đi đến tuyên bố “Xây dựng nước Việt Nam độc lập”, lập lên chế độ dân chủ cộng hòa, thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp. Kể từ đây một sự nghiệp văn hóa mới ra đời. Sự nghiệp văn hóa đó gắn liền với độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, quyền con người và quyền dân tộc được đảm bảo trên thực tế “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” [11]. Để xứng đáng với một nước tự do độc lập, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách, trong đó có hai nhiệm vụ được xem là đỉnh cao của văn hóa là chống nạn đói và nạn dốt. Người chủ trương “phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất”..., và “mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ” [12]. Bởi vì một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; một dân tộc nghèo là một dân tộc hèn. Người xem nghèo đói, dốt nát là một thứ giặc; xem thói quen và những truyền thống lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Cho nên “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập” [13].

Kể từ sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, trên cơ sở pháp lý quốc tế, nhân dân ta đã được tiếp thêm động lực tinh thần để tự mình xây dựng một nền văn hóa mới, trong đó nhân dân là chủ thể của những giá trị văn hóa và sự sáng tạo ra văn hóa.

Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa có ý nghĩa sâu sắc về chính trị, nó trở thành một giá trị văn hóa chính trị trong việc xác lập quyền con người và quyền dân tộc từ đó toát lên giá trị đạo đức của đạo lý và pháp lý. Tuyên ngôn độc lập còn nói với nhân dân Việt Nam rằng, cách mạng Việt Nam quyết thực hiện những mục tiêu cao cả ấy: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc cho đất nước, cho dân tộc, cho con người Việt Nam.

Trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế, khu vực và đất nước hiện nay, tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập vẫn còn giữ nguyên giá trị, ý nghĩa mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Vì vẫn còn phải đấu tranh xây dựng một nền văn hóa chính trị với những chuẩn mực pháp lý và đạo lý trong sự tôn trọng quyền độc lập, quyền tự do, quyền bình đẳng cho mỗi dân tộc, và quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền hạnh phúc cho mỗi con người.

 

 

“Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”

 “Học có tốt, hành mới tốt. Học và hành tốt mới làm trọn nhiệm vụ người thanh niên cách mạng”. Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Bài nói chuyện tại Đại hội Thanh niên Thủ đô”, ngày 30-9-1964.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa và động cơ của việc học tập trong chế độ mới, khắc phục cách tư duy cũ do nền giáo dục thực dân, phong kiến để lại. Người dạy: Học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức để làm tròn nhiệm vụ người chủ nước nhà. Bên cạnh việc xác định động cơ, thái độ học tập đúng đắn, Người yêu cầu tuổi trẻ phải thực hiện học tập toàn diện và học tập phải gắn liền với rèn luyện. Người dạy thanh niên phải ra sức học tập nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự để cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Theo Bác, muốn thành công trong công việc, phải biết kết hợp giữa học và hành một cách chặt chẽ và xuyên suốt. Lấy lý thuyết hỗ trợ cho hành động và ngược lại, lấy hành động để khẳng định sự đúng đắn của lý thuyết. Vận dụng lý thuyết vào hành động thì lý thuyết được kiểm chứng; từ đó rút kinh nghiệm, nâng cao hơn hiệu quả công việc. Học đi đôi với hành là hoàn toàn đúng đắn. Những kiến thức mà chúng ta tiếp thu được từ nhà trường, sách vở… phải được áp dụng vào thực tiễn cuộc sống một cách hiệu quả.

Khắc ghi lời Bác dạy, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tích cực tìm hiểu và làm rõ giá trị hiện thực quan điểm của Bác trong định hướng lý luận cũng như chỉ đạo thực tiễn; quán triệt và thực hiện nghiêm 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện bộ đội; bám sát phương châm huấn luyện “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu; kết hợp chặt chẽ huấn luyện quân sự với giáo dục chính trị; giáo dục-đào tạo gắn với huấn luyện chiến đấu; huấn luyện sát nhiệm vụ, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, lấy thực hành là chính; kết hợp huấn luyện với rèn luyện thể lực bộ đội. Tổ chức có chất lượng các cuộc diễn tập để nâng cao trình độ, khả năng SSCĐ, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


“Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta...”

 Trong bài viết đăng trên Báo Nhân Dân, số 236, từ ngày 9 đến ngày 10-10-1954, với bút danh “C.B”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cả nước nhìn về Thủ đô ta. Thế giới trông vào Thủ đô ta. Tất cả chúng ta phải ra sức giữ gìn trật tự, an ninh, làm cho Thủ đô ta thành một Thủ đô bình yên, tươi đẹp, mạnh khỏe cả về vật chất và tinh thần”.

Mùa Thu lịch sử năm 1945, Hà Nội lần đầu tiên đón Bác Hồ về đọc Tuyên ngôn độc lập sau ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Mùa Thu lịch sử năm 1954, Hà Nội đón Bác Hồ về Thủ đô sau ngày giải phóng. Từ đó đến nay, Hà Nội tiếp nối truyền thống Thăng Long - Đông Đô ngàn năm, ngày một xứng đáng là trái tim cả nước, xứng với danh hiệu Thủ đô anh hùng, thành phố vì hòa bình.

Trong chiến đấu, Hà Nội cùng quân, dân cả nước lập nên nhiều chiến công hào hùng, với cuộc chiến đấu tháng Chạp năm 1946 cùng toàn dân bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm gian khổ chống thực dân Pháp; với trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm tháng 12-1972… Trong hai cuộc chiến tranh chống xâm lược, Hà Nội là địa danh thiêng liêng, là hồn thiêng sông núi, nơi cả nước gửi gắm niềm lạc quan tin tưởng, ý chí tự hào, là điểm tựa tinh thần cho quân và dân cả nước hăng hái đánh giặc.

Trong hòa bình, Hà Nội đang từng bước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn. Hà Nội đổi mới từng ngày, phấn đấu văn minh hiện đại trên nền truyền thống ngàn năm văn hiến, tạo nên gạch nối hài hòa Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Hà Nội là trái tim của cả nước, trung tâm chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Cả nước quan tâm theo dõi, ngưỡng mộ từng bước đi lên của Thủ đô. Vì thế Thủ đô Hà Nội có vinh dự, tự hào to lớn, nhưng đồng thời có trách nhiệm hết sức nặng nề. Hà Nội phải luôn luôn gương mẫu, như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Công tác dân vận của chính quyền khẳng định bản chất của Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”

 Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước.

Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Nghị quyết Trung ương số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã xác định: “Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang” với cơ chế thực hiện là “Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt”. Cơ chế này đã thể hiện rõ tầm quan trọng của chính quyền các cấp trong việc tổ chức thực hiện và sự thành công của công tác dân vận.

Trong thời gian qua, công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước và chính quyền các cấp đã có nhiều chuyển biến tích cực, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế của các địa phương, của đất nước. Đó là, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nâng cao nhận thức, xác định tầm quan trọng của công tác dân vận chính quyền thông qua việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước về công tác dân vận, về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Từ nhiều năm qua, công tác dân vận được chú trọng, nhiều chủ trương về công tác dân vận được ban hành, triển khai, lan tỏa sâu rộng đến cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở đó, các cấp chính quyền cũng đã nâng cao nhận thức, thường xuyên quán triệt, lãnh, chỉ đạo, ban hành kế hoạch, chương trình thực hiện công tác dân vận; đề cao đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, xây dựng và thực hiện phong cách dân vận của cán bộ, công chức, viên chức và người thừa hành công vụ: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

Điểm nổi bật là việc thay đổi nhận thức từ một “chính quyền hành chính, mệnh lệnh” thành “chính quyền phục vụ” nhân dân với nhiều mô hình hiệu quả. Nhiều địa phương đã thực hiện tốt, phát huy có hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm thực hiện tốt dân chủ trong nhân dân, tạo đồng thuận cao nhằm thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Từ phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nay thêm 2 thành tố mới là “Dân giám sát, “Dân thụ hưởng” đã đi vào đời sống thực tiễn hàng ngày đã góp phần thúc đẩy người dân tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề dân sinh cùng với chính quyền các cấp. Công tác đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo và bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân đã được chính quyền các cấp tập trung thực hiện trong thời gian qua. Các cơ quan nhà nước, người đứng đầu các cơ quan nhà nước thực hiện đúng trách nhiệm tổ chức tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân theo đúng pháp luật; đặc biệt các cấp chính quyền tập trung giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo tồn đọng, các vụ khiếu kiện kéo dài, phức tạp, đông người, nhất là tại các địa phương trọng điểm. Công tác cải cách hành chính đã được các địa phương, đơn vị nỗ lực thực hiện trong nhiều năm qua, gắn liền với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước theo hướng dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Các cấp chính quyền thực hiện công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch…, tạo điều kiện cho công dân, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; giải quyết nhanh nhất các hồ sơ hành chính của công dân, doanh nghiệp, không để xảy ra việc nhũng nhiễu, tiêu cực. Nhiều địa phương đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện công khai, dân chủ các quy trình về điều hành, quản lý, xử lý và giải quyết các thủ tục, các chế độ, chính sách liên quan đến người dân và doanh nghiệp…

Công tác dân vận chính quyền đi vào từng ý thức trách nhiệm, hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của Nhà nước ta, của chính quyền địa phương là một minh chứng sống động cho bản chất ưu việt của Nhà nước ta: Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Thực tiễn từ các nền chính trị và hành chính các quốc gia khác trên thế giới cho thấy, không phải Nhà nước, Chính phủ nào cũng thể hiện rõ được bản chất ưu việt này. Dù vậy, các thế lực thù địch vẫn ra sức bóp méo, làm sai lệch bản chất của Nhà nước ta qua các luận điệu xuyên tạc, tìm kiếm các tiêu cực tồn tại đâu đó để nói xấu Đảng và Nhà nước ta, làm mất lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Thực tiễn cũng cho thấy, công tác dân vận của chính quyền trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Tình trạng khiếu kiện đông người, khiếu kiện kéo dài ở những dự án, công trình trọng điểm vẫn còn xảy ra hoặc chưa được giải quyết dứt điểm; vẫn còn nhiều vụ việc gây bức xúc trong Nhân dân; tinh thần “chính quyền phục vụ” ở một số cán bộ, công chức địa phương, sở ngành còn chưa được sâu sắc; vẫn còn tình trạng quan liêu, phiền hà, sách nhiễu với Nhân dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc; công tác nắm tình hình nhân dân, sâu sát đời sống, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng Nhân dân của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cấp chính quyền cơ sở còn nhiều khó khăn, hạn chế; việc ban hành các chủ trương, chính sách của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp có nơi có lúc còn chưa sâu sát với tình hình thực tiễn, chưa đáp ứng, đảm bảo về quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, dẫn đến thiếu khả thi, không hiệu quả...

Nguyên nhân của những hạn chế là do cấp ủy, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan tâm đúng mức, chưa nhận thức đầy đủ về công tác dân vận của chính quyền; một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn xa dân, quan liêu, nhũng nhiễu gây bức xúc trong Nhân dân; chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm với Nhân dân. Công tác kiểm tra, giám sát, chế tài về công tác dân vận của chính quyền chưa thường xuyên, chưa tạo hiệu quả như yêu cầu…

Tổng kết 25 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011), Đảng ta tổng kết rút ra một bài học quan trọng có giá trị làm quan điểm chỉ đạo công tác dân vận trong thời kỳ mới: “Sự nghiệp Cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng sẽ dẫn tới tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”[1]. Tiếp tục bổ sung và phát triển những quan điểm nói trên, tại Đại hội XII, nhìn lại 30 năm đổi mới, Đảng ta đã bổ sung, làm rõ thêm: “Phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”[2].  Đại hội XIII xác định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Như vậy, yêu cầu đối với công tác dân vận đòi hỏi cao hơn; đồng thời bổ sung thêm trong quan điểm “dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng”. Đây là bước phát triển mới trong tư duy, lý luận của Đảng về vai trò của Nhân dân và công tác dân vận trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Động lực thúc đẩy phong trào Nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Công tác dân vận cần quán triệt tinh thần kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân; trong đó quan tâm, coi trọng lợi ích trực tiếp, lợi ích thiết thân của người dân, cá nhân lao động. Lợi ích chung của sự phát triển xã hội được thể hiện một phần quan trọng qua lợi ích chính đáng của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Công tác dân vận cần làm cho mỗi người quan tâm tới quyền làm chủ, tới lợi ích chính đáng của mình; lấy đó làm động lực trực tiếp thúc đẩy hoạt động của họ, góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực hiện nhiệm vụ của tổ chức.

Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để Nhân dân tin tưởng, noi theo. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mất thiết giữa Nhân dân với Đảng. Lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo Đảng và Nhà nước chỉ được củng cố, tăng cương và nâng lên khi Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh; khi những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân.

Quan tâm đến công tác dân vận chính quyền, chính là xây dựng một Chính phủ, một nền hành chính vì Nhân dân phục vụ. Thước đo của công tác dân vận chính quyền chính là sự hài lòng của người dân, ý nghĩa hơn là xây dựng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp. Làm tốt công tác dân vận chính quyền, chính là tạo ra mạch nối quan trọng để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ máu thịt của Đảng, Nhà nước với Nhân dân.

 

 

Đảng phải vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin

 Trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho Báo Pravda (Liên Xô), được Báo Nhân Dân đăng số 4952, ngày 1-11-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “… Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng XHCN đến thành công”.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem Chủ nghĩa Mác-Lênin là kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Người có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng. Đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội TSVM. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao

“… Khen, chê phải đúng mức”

 Sáng 6-11-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Bộ Chính trị để cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ. Khi bàn về chủ trương tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ đi một đợt thực tế dài hạn ở nông thôn, Người đã tán thành chủ trương và có những lời căn dặn quý báu đối với các văn nghệ sĩ đi thực hiện nhiệm vụ này: “… Khen, chê phải đúng mức. Khen nhưng khen quá lời, “suy tôn” người được khen thì chính người được khen xấu hổ. Đập nhưng đập bậy thì người ta không phục...”.

Đây là sự nhắc nhở sâu sắc, có giá trị định hướng về nhận thức, tư tưởng rằng mỗi văn nghệ sĩ cần nêu cao ý thức trách nhiệm, bám sát thực tiễn, khen, chê phải đúng mức. Nói cách khác, Người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải phản ánh trung thực và khách quan cuộc sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng nông thôn.

Thực hiện lời căn dặn của Bác, các thế hệ văn nghệ sĩ nước nhà đã thường xuyên bám sát đời sống nông thôn, lăn lộn trên các chiến trường đầy khói lửa; hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của Nhân dân, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ngày nay, trước bối cảnh phức tạp, khó lường của tình hình, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học sâu sắc định hướng nhận thức, tư tưởng, phương châm hành động của các văn nghệ sĩ; bồi dưỡng cái tâm và cái tài, cổ vũ, động viên các văn nghệ sĩ bám sát cơ sở, đi sâu khám phá cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của Nhân dân, qua đó sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật hay và tốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đối với Quân đội ta, thấm nhuần lời dạy của Bác, đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội đã thường xuyên bám sát các đơn vị cơ sở, nhất là đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; lăn lộn cùng với bộ đội trên các thao trường, bãi tập, nơi bộ đội làm công tác dân vận, tham gia phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... để phản ánh trung thực cuộc sống học tập, công tác và sinh hoạt của bộ đội. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tuyên truyền, cổ vũ, động viên kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những cái xấu, cái tiêu cực, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh, để mỗi đơn vị quân đội thực sự là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

“... phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”

 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bài “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học tập số 12 (tháng 12-1958), khẳng định: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”.

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh là người bàn nhiều về đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng; theo Bác, đạo đức không chỉ là “gốc”, là nền tảng, là sức mạnh và nhân tố chủ chốt của người cách mạng, mà còn là thước đo lòng cao thượng của con người, là gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Đối với người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, thì điều đầu tiên và vô luận trong mọi hoàn cảnh phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết. Ở đây chính là việc đảng viên thực hiện trọn vẹn lời hứa tại lễ kết nạp đảng viên và giải quyết tốt 3 mối quan hệ cơ bản của mỗi con người (với mình, với người và với việc).

Người đảng viên có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại... cũng không rụt rè lùi bước, khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, khiêm tốn, chất phác, không công thần, địa vị, kèn cựa hưởng thụ, thật sự trở thành người “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Người đảng viên thật sự có đức thì bao giờ cũng luôn cố gắng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện năng lực để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, lớp lớp cán bộ, đảng viên trong quân đội luôn không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, trở thành hạt nhân lãnh đạo, trung tâm đoàn kết và là tấm gương sáng về tinh thần sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua; thuyết phục, chinh phục cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền bằng chính đạo đức cách mạng, năng lực, trách nhiệm, tinh thần chịu đựng, vượt qua khó khăn, gian khổ, tận tâm, tận lực, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong giai đoạn hiện nay, để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, giữ vững và không ngừng phát huy tốt phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với việc xây dựng, rèn luyện và phát huy tính tiền phong gương mẫu, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội; nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp.


Tự hào Việt Nam

Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945, với ý chí và quyết tâm, Việt Nam đã khẳng định uy tín, vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại

Sau 79 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và sau gần 40 năm Đổi mới (từ 1986 đến nay), từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận suốt 30 năm, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình với thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4.300 USD năm 2023, tăng gần 60 lần so với năm 1986. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6,5%/năm, thuộc nhóm các nước có mức tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô nền kinh tế năm 2023 đứng thứ 35 thế giới, tăng hơn 95 lần so với năm 1986. Nền tảng kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trong bài viết mới đây: “Xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã nhấn mạnh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất. Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Cùng với đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng nhấn mạnh trong thời gian gần đây, một tinh thần rất quan trọng là cần thống nhất nhận thức về khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, từ đó có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa. Đó là tinh thần phát triển mới đòi hỏi sự nỗ lực cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa đang đặt ra với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam tiếp tục xu hướng phục hồi, kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức phù hợp; cung cầu hàng hóa thiết yếu được bảo đảm, hoạt động mua sắm hàng hóa, tiêu dùng nội địa duy trì mức tăng khá. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế với mức tăng ổn định, khẳng định chuyển đổi cơ cấu ngành đã phát huy hiệu quả, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm, hàng hóa thiết yếu trong nước và gia tăng xuất khẩu. Đầu tư công được đẩy mạnh về số vốn thực hiện, tốc độ tăng tỷ lệ giải ngân ở mức cao, an sinh xã hội được quan tâm kịp thời, hiệu quả. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) ước tính tăng 5,05% so với năm 2022. 

Quy mô thị trường trong nước liên tục tăng với tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 6.231,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với năm 2022. 

Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2023, cả nước có 159,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.521,3 nghìn tỷ đồng. 7 tháng năm 2024, cả nước có hơn 95,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 854,6 nghìn tỷ đồng.

Lao động có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng. Năm 2023, lao động có việc làm là 51,3 triệu người, tăng 683 nghìn người (tương ứng tăng 1,35%) so với năm 2022. Trong khi đó, tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức là 64,9%, giảm 0,9 điểm phần trăm so với năm 2022. Lao động làm công việc tự sản tự tiêu là 3,8 triệu người, giảm 507,6 nghìn người so với năm 2022. Thu nhập bình quân của lao động năm 2023 là 7,1 triệu đồng/tháng, tăng 6,9%, tương ứng tăng 459 nghìn đồng so với năm 2022.

Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022),

Theo công bố của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), chỉ số GII (Bộ công cụ đánh giá xếp hạng năng lực của các hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia) của Việt Nam, năm 2023, xếp hạng thứ 46/132 quốc gia, nền kinh tế trên toàn thế giới, tăng 2 bậc so với năm 2022; trong khu vực ASEAN, chỉ số GII của Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực, xếp hạng sau Singapore (xếp hạng 5), Malaysia (xếp hạng 36) và Thái Lan (xếp hạng 43). Chỉ số nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam xếp hạng 66.

Cùng với phát triển kinh tế, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng quan tâm, đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa - xã hội. Đến nay, văn hóa và đời sống của nhân dân có nhiều chuyển biến ngày càng được cải thiện.

Dân số Việt Nam năm 2023 là 100,3 triệu người. Chất lượng dân số ngày càng được cải thiện. Việt Nam cơ bản duy trì mức sinh thay thế từ năm 2005 trở lại đây. Những thành tựu trong phát triển của y học và công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được cải thiện, tuổi thọ trung bình của dân số Việt Nam năm 2023 là 73,7 tuổi.

Theo kết quả sơ bộ từ Khảo sát mức sống dân cư năm 2023, tình hình đời sống của hộ dân cư được cải thiện. Công tác an sinh xã hội được các cấp từ Trung ương đến địa phương quan tâm thực hiện kịp thời, thiết thực. Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tính đến ngày 19/12/2023, tổng trị giá tiền và quà hỗ trợ cho các đối tượng là hơn 12,3 nghìn tỷ đồng; thu hút nhiều du khách quốc tế tới thăm quan tìm hiểu văn hóa con người Việt Nam. Số liệu của Tổng cục Thống kê nêu rõ, năm 2023, khách quốc tế đến Việt Nam đạt 12,6 triệu lượt người, gấp 3,4 lần năm 2022, vượt xa mục tiêu 8 triệu khách quốc tế của năm 2023. Tính riêng 7 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 10 triệu lượt người, tăng 51,0% so với cùng kỳ 2023.

Việt Nam ngày càng gia tăng vị trí trên trường quốc tế

Tiếp tục phát huy tầm vóc lịch sử của sự kiện 2/9/1945 và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, Việt Nam không ngừng nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, với một tinh thần kiên cường và quyết tâm không thể lay chuyển.

Trước hết, đất nước ta đã duy trì một chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, nhưng vẫn linh hoạt và sáng tạo. Trong bối cảnh thế giới ngày càng phức tạp và đa cực, việc giữ vững nguyên tắc nhưng linh hoạt trong ứng xử giúp Việt Nam vừa bảo vệ được chủ quyền quốc gia, vừa tận dụng được các cơ hội hợp tác quốc tế. Điều này không chỉ giúp đất nước giữ vững hòa bình và ổn định, mà còn tạo đà cho việc xây dựng các mối quan hệ Đối tác chiến lược, cùng nhau chia sẻ lợi ích và trách nhiệm với các quốc gia khác.

Bên cạnh đó, việc nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế là một nhiệm vụ không thể thiếu. Tham gia tích cực vào các sáng kiến toàn cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực như phát triển bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và gìn giữ hòa bình, giúp Việt Nam khẳng định vai trò của mình như một quốc gia có trách nhiệm và đáng tin cậy trên trường quốc tế.  

Để tầm vóc của sự kiện 2/9 mãi mãi lan tỏa, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Điều này không chỉ giúp Việt Nam xây dựng một bản sắc độc đáo và mạnh mẽ trên trường quốc tế, mà còn tạo nên sức hút mềm mại, thu hút sự tôn trọng và ngưỡng mộ từ các quốc gia khác. Mỗi di tích, bài hát, điệu múa, mỗi phong tục, lễ hội là một câu chuyện về lòng kiên cường, sự sáng tạo và tình yêu đất nước - những giá trị đã và đang đưa Việt Nam vươn lên tầm vóc toàn cầu.

Ngoại giao văn hóa cũng là một trong những phương tiện mạnh mẽ giúp Việt Nam lan tỏa tầm vóc của mình ra thế giới. Khi văn hóa Việt được giới thiệu rộng rãi, khi những câu chuyện về lòng kiên cường và tinh thần đoàn kết được chia sẻ, thế giới sẽ hiểu hơn, yêu mến hơn và tôn trọng đất nước chúng ta hơn. Từ những hoạt động văn hóa, nghệ thuật, đến các chương trình trao đổi giáo dục và giao lưu nhân dân, tất cả đều góp phần xây dựng một hình ảnh Việt Nam đẹp đẽ, năng động và đầy tiềm năng.

Từ ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945, Việt Nam đã và đang tiếp tục viết lên những trang sử hào hùng và đầy tự hào trên trường quốc tế. Chúng ta chứng minh được rằng, dù nhỏ bé về diện tích nhưng với ý chí và quyết tâm, Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế của mình, đóng góp cho hòa bình và thịnh vượng chung của nhân loại./.

 

 

“Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”

 Đó là lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, Dân, Chính ở cơ quan Trung ương vào khoảng đầu tháng 2-1953, khi nước ta đang đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự cảm về một giai đoạn mới của cách mạng nước ta sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi-giai đoạn kiến thiết và xây dựng. Do vậy, rất cần phải củng cố sự đoàn kết, thống nhất và phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, trong đó có đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, có một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa nêu cao tính tiền phong, gương mẫu, chưa chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng. Thậm chí, một bộ phận cán bộ, đảng viên có thành kiến, chưa nhìn nhận, đánh giá đúng về trí thức, làm cho nhiều trí thức trong các cơ quan Nhà nước cho rằng, Đảng không coi trọng trí thức.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò to lớn của trí thức trong phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chăm sóc sức khỏe nhân dân và mối quan hệ giữa trí thức với cách mạng; đồng thời cũng đưa ra tiêu chuẩn về người trí thức chân chính. Lời dạy của Người không chỉ giúp chúng ta có nhận thức và thái độ đúng về trí thức mà còn là một cơ sở để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương xây dựng đội ngũ trí thức cách mạng. Đây cũng là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mỗi trí thức và là cơ sở để đấu tranh với những nhận thức, quan điểm, tư tưởng sai trái về trí thức.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội ta luôn coi trọng, đánh giá đúng vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Trên cơ sở đó, quán triệt, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trong quân đội; không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo tại các học viện, nhà trường trong toàn quân và có chính sách đúng, cách làm hợp lý để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong quân đội. Cùng với việc đào tạo đội ngũ trí thức về chuyên môn, nghiệp vụ, các cấp trong toàn quân thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ trí thức về lập trường tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, làm cho đội ngũ trí thức tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng; kịp thời phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Coi trọng liêm sỉ, biết giữ thể diện và uy tín trước dân là trách nhiệm chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay

 Lịch sử nhân loại cho thấy, khi văn hóa đạo đức liêm, chính suy đồi có thể kìm hãm, thậm chí là nguyên nhân gây ra suy sụp cả một chế độ xã hội, một vương triều... Bởi vậy, việc trang bị tri thức về văn hóa đạo đức cùng với văn hóa chính trị, giáo dục văn hóa đạo đức liêm chính và văn hóa chính trị cho mọi cán bộ, công chức, viên chức, trước hết cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ hết sức cần thiết và cấp bách để chúng ta có được một xã hội đề cao các giá trị đạo đức liêm, chính, dân chủ, pháp quyền, công bằng, nhân văn.

  Sự nguy hại của tính bất liêm, bất chính

Trong lịch sử xã hội loài người, người cầm quyền hay tất cả những người trong bộ máy công quyền của một chế độ xã hội đang ở thời kỳ thịnh vượng, đang phát triển đều cần có và đều đòi hỏi các đức tính quan trọng là liêm, chính. Hàn Phi (280-233 trước Công nguyên), thời Trung Hoa cổ đại khi bàn về nguy cơ thói hám lợi của người đời cũng nói rằng: “Ham lợi nhỏ tức là hại đến lợi lớn”. Còn xét trên bình diện xã hội rộng lớn hơn, thì một đất nước, như Mạnh Tử (372-289 trước Công nguyên) cho rằng, nếu mà “ai cũng tham lợi, thì nước lâm nguy”. Đó đều là những bài học về sự liêm, chính mà người đời xưa nhắc nhở và chúng ta cần ghi nhớ.

Tháng 6-1949, nhằm giáo dục tinh thần và đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài “Cần, kiệm, liêm, chính” dưới bút danh Lê Quyết Thắng, trong đó Người giải thích rất rõ nội dung của các khái niệm này. Bài báo ra đời cách đây đã 75 năm, song những chỉ dẫn dễ hiểu mà hết sức sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các đức tính cần, kiệm, liêm, chính vẫn giữ nguyên giá trị giáo dục rất thiết thực đối với mỗi cán bộ, đảng viên ngày nay, đặc biệt là đối với cán bộ lãnh đạo các cấp đang giữ những trọng trách trong hệ thống chính trị ở nước ta.