Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là “Đảng toàn dân”

Chống phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa, mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền, “đại diện cho toàn dân tộc”(!).

Có thể khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.

Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước, thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không, điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy, số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.

Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộcchăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.

Sưu tầm

“Nhân quyền cao hơn chủ quyền” – sự đòi hỏi phi lý

Nhân quyền là một giá trị vừa mang tính phổ quát của nhân loại, vừa có nét riêng của mỗi quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, triệt để lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch đã, đang tuyệt đối hóa, cho rằng “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, nhằm kích động gây mất ổn định chính trị, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia độc lập, có chủ quyền. Đây là sự đòi hỏi hết sức phi lý cần vạch trần, đấu tranh bác bỏ.

Nhằm thúc đẩy và bảo đảm quyền con người, năm 1948, Liên hợp quốc ra Tuyên bố thế giới về quyền con người. Từ đây việc bảo đảm quyền con người trở thành nguyên tắc, nghĩa vụ chung của quốc tế, nhưng quyền ấy cũng có giới hạn nhất định tùy vào mỗi quốc gia, dân tộc. Song, với mưu đồ chính trị đen tối, các thế lực phản động đã lợi dụng tính phổ biến của nhân quyền để ngụy biện rằng: con người và các quyền con người phải được đặt ở vị trí tối cao, bất khả xâm phạm cả trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Từ đó, họ đưa ra luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và để đảm bảo nhân quyền cần thiết có thể can thiệp, thậm chí xâm phạm chủ quyền, v.v.

Chống phá về nhân quyền là nội dung trọng tâm của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam. Bằng luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, họ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện yêu sách của họ; thậm chí lấy việc bảo đảm “nhân quyền” cho cá nhân một số người vi phạm pháp luật làm điều kiện để thực hiện đàm phán, cam kết thương mại, kinh tế, đối ngoại, v.v. Thủ đoạn chính của họ vẫn là lợi dụng vấn đề về “dân chủ”, “quyền con người”,... để xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ Nhà nước ta, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Họ nhai đi nhai lại luận điệu cũ rích, rằng: Nhà nước “Việt Nam đã vi phạm nghiêm trọng các quyền con người”, nhất là quyền tự do ngôn luận, báo chí; đàn áp, phân biệt dân tộc, tôn giáo; “kêu gọi” Việt Nam thả hết các “tù nhân lương tâm”, “lên án” cơ quan chức năng bắt người sai quy định, v.v. Mục đích của họ không có gì khác ngoài tạo cơ sở tinh thần, pháp lý, cổ súy lực lượng phản động, chống đối ở trong nước, can thiệp của nước ngoài để tạo cớ, làm mất ổn định chính trị, gây bạo loạn, lật đổ, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đây là chiêu bài, thủ đoạn không mới, nhưng cực kỳ thâm độc, nguy hiểm hòng can thiệp, xâm phạm chủ quyền, lật đổ chính quyền không thân thiết với họ, nên cần phải nhận rõ, kiên quyết bác bỏ.

Trước hết, về mặt pháp lý, ngay trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền và một số công ước quốc tế đã xác định, phạm vi, giới hạn của quyền con người phải đặt trong mối quan hệ, tổng thể của cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới nhân quyền năm 1948 quy định: các quyền cá nhân sẽ bị hạn chế nếu điều đó là cần thiết để bảo đảm lợi ích chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung của xã hội. Khoản 3, Điều 18 và 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 xác định trách nhiệm xã hội của mỗi người với cộng đồng; được hiểu là trong khi hưởng thụ các quyền, tất cả mọi người đều phải chịu sự hạn chế nhất định, nhằm: “Bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”1, “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật,...”2. Điều này có nghĩa là, quyền của cộng đồng phải được đặt cao hơn quyền của cá nhân; hoàn toàn không có chuyện quyền con người (quyền cá nhân) cao hơn chủ quyền quốc gia, dân tộc. Nói cách khác, quyền con người ở đâu, quốc gia nào, chế độ xã hội nào cũng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật quốc gia đó, không được xâm hại đến quyền của xã hội, quyền và lợi ích của người khác. Luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là sự xuyên tạc, hiểu không đúng luật pháp quốc tế, với mưu đồ đen tối, phản động.

Thứ hai, trong mối quan hệ với “chủ quyền”, “nhân quyền” không thể tách rời và phụ thuộc vào chủ quyền quốc gia, dân tộc. Đây là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển; trong đó, quyền con người chỉ được bảo đảm, thực thi khi quốc gia, dân tộc có độc lập, chủ quyền. Bởi lẽ, quyền con người cơ bản được bảo vệ và thực hiện trước hết phải bằng hiến pháp, pháp luật nhà nước của quốc gia, dân tộc và những biện pháp tương ứng với đạo luật đó và ngược lại. Vì vậy, chủ quyền quốc gia, quyền độc lập, tự quyết của dân tộc là điều kiện tiên quyết, là cơ sở để bảo vệ và thực hiện quyền con người; chỉ có tôn trọng quyền dân tộc tự quyết để nhân dân các nước tự do lựa chọn chế độ chính trị, mô hình kinh tế và con đường phát triển, mới có thể bảo đảm tôn trọng, bảo vệ những quyền cơ bản của mỗi con người. Trong lời mở đầu của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 chỉ rõ: “... Xét rằng điều cốt yếu là nhân quyền phải được một chế độ pháp trị bảo vệ để con người khỏi bị dồn vào thế cùng, phải nổi dậy chống áp bức và bạo quyền”. Khoản 1, Ðiều 1 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 nêu rõ: “Tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết”. Còn lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của các quốc gia trên thế giới đã minh chứng, nếu đất nước bị áp bức, nô lệ thì nhân dân bị dìm trong cảnh lầm than, cùng cực; nhân quyền bị chà đạp nghiêm trọng. Chỉ khi đất nước độc lập, hòa bình thì nhân quyền mới được bảo đảm. Như vậy, chủ quyền quốc gia, quyền dân tộc tự quyết và quyền con người có quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, nhà nước - tổ chức đại diện chủ quyền quốc gia, có trách nhiệm bảo đảm nhân quyền tại quốc gia mình. Không thể một quốc gia hay tổ chức quốc tế nào có thể đảm đương được việc bảo đảm các quyền này của công dân thay cho nhà nước đó. Vì vậy, để bảo đảm quyền con người, thì điều kiện tiên quyết và xuyên suốt là chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng, đất nước phải độc lập, hòa bình. Đồng thời, nhà nước phải lấy điều kiện độc lập dân tộc để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người dân. Đây là mục tiêu định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ quyền con người của các quốc gia trên thế giới.

Thứ ba, đối với Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Việt Nam xây dựng, phát triển đất nước theo con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; luôn coi việc bảo đảm, tạo điều kiện giúp mọi người dân phát triển hài hòa, được thụ hưởng thành tựu về nhân quyền, đạt tới trình độ phát triển chung của loài người là mục đích cao nhất; đồng thời, phát huy tối đa khả năng, sự sáng tạo, thực hiện nghĩa vụ đóng góp, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta biết, Tổ quốc là giá trị thiêng liêng đối với mỗi người dân Việt Nam; chỉ khi nào đất nước được độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia được bảo vệ thì nhân dân mới có hạnh phúc, quyền của mỗi người dân mới được bảo đảm. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhân dân Việt Nam mới được hưởng các quyền độc lập, tự do, mới là người chủ thực sự của đất nước; các quyền cơ bản của người dân mới được đảm bảo. Đặc biệt, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, với đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam đã đạt thành tựu to lớn về nhiều mặt như Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Nhờ đó, các quyền con người về kinh tế, xã hội, văn hóa và dân sự, chính trị của người dân được đảm bảo với chất lượng ngày càng cao. Một trong những điển hình là công cuộc xóa đói, giảm nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều mới) đã giảm từ 9,88% năm 2015 còn 2,75% năm 2020, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và là một trong 30 nước áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được quốc tế ghi nhận. Về tín ngưỡng, tôn giáo, Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân; mọi công dân có quyền theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào. Đến tháng 12/2023, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, hơn 57 nghìn chức sắc, 147 nghìn chức việc, gần 30 nghìn cơ sở thờ tự. Về vấn đề dân tộc, Việt Nam không chỉ bảo đảm các quyền bình đẳng, mà còn có chính sách ưu tiên đặc biệt để các dân tộc phát triển; luôn quan tâm giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa; tạo điều kiện để họ tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội, quản lý nhà nước, ứng cử vào Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội khóa XIV có 86/496 đại biểu là người dân tộc thiểu số thuộc 32 dân tộc khác nhau, chiếm 17,34%, nhiều nhất từ trước đến nay, v.v. Cùng với đó, việc thực hiện chính sách an sinh xã hội; giáo dục, đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng giới,... đều được Việt Nam quan tâm, đảm bảo tốt. Đặc biệt, trong phòng, chống đại dịch Covid-19, thiên tai, Việt Nam đã có chính sách, chủ trương biện pháp để đảm bảo tốt nhất cho mọi người dân, “không ai bị bỏ lại phía sau”, được nhân dân, quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Ngày 14/12/2021, nguyên Tổng thư ký Hội Hữu nghị Pháp - Việt, ngài Jean-Pi-erre Ar-cham-bault đánh giá: một trong những thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là bảo đảm tốt quyền con người; không ai có thể phủ nhận được những kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong lĩnh vực bảo đảm nhân quyền. Từ những thành công về thúc đẩy, bảo vệ quyền con người ở trong nước và sự tích cực chia sẻ kinh nghiệm cũng như sẵn sàng bổ sung nguồn lực trong bảo đảm nhân quyền cho nhiều quốc gia đã nhân lên uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, ngày 11/10/2022, tại trụ sở Liên hợp quốc, Việt Nam đã trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, nhiệm kỳ 2023 - 2025.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cho thấy, một quốc gia mất chủ quyền thì nhân dân của quốc gia đó sẽ không bảo đảm được quyền con người, việc bảo đảm quyền con người chỉ có được trong quốc gia thực sự có chủ quyền. Không thể có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, mà chỉ là sự thống nhất giữa quyền con người và chủ quyền quốc gia. Luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền” chỉ là ngụy biện cho những toan tính chính trị đen tối. Nhà nước Việt Nam nhấn mạnh chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc cao hơn tất cả chỉ với mục đích cốt lõi là giải phóng con người, bảo đảm đầy đủ các quyền cơ bản, phổ biến của con người. Mọi sự suy diễn trái với mục đích này đều là bịa đặt, vu khống nhằm kích động, gây bạo loạn để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia độc lập, có chủ quyền; vi phạm thô bạo luật pháp quốc tế, cần cực lực lên án, đấu tranh bác bỏ.

Sưu tầm

Nhận diện âm mưu lợi dụng không gian mạng kích động “Cách mạng màu” tại Việt Nam

Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện nhiều bài viết, hình ảnh liên quan cuộc xung đột vũ trang ở Myanmar, biểu tình, bạo loạn tại Bangladesh. Các thế lực thù địch, số đối tượng phản động đã triệt để lợi dung không gian mạng để tiến hành các hoạt động chống phá, đăng tải thông tin xấu độc, xuyên tạc, sai sự thật, kích động những người thiếu hiểu biết nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, “cách mạng màu” tại Việt Nam.

Bản chất “Cách mạng màu”

“Cách mạng màu” (Tiếng Anh là colour revolution) hay còn gọi là “cách mạng đường phố”, là thuật ngữ chỉ các cuộc bạo loạn phi vũ trang, bạo lực chính trị có tính chất nhằm lật đổ chính quyền nhà nước đương nhiệm, gây ra khủng hoảng chính trị, đồng thời lập ra bộ máy cầm quyền mới của lực lượng đối lập được Mỹ và phương Tây hậu thuẫn. Các thế lực thù địch bên ngoài câu kết với những đối tượng đối lập, số đối tượng phản động, cơ hội chính trị trong nước dưới chiêu bài tuyên truyền tạo ra một nhà nước, chính phủ mới tốt đẹp hơn, một xã hội văn minh hơn nhưng thực chất là sự bất ổn, bạo động; đời sống người dân rơi vào khó khăn, mất mát, ly tán…

Theo truyền thông phương Tây, “cách mạng màu” được miêu tả rất hấp dẫn, tuyên truyền tạo ra một nhà nước, chính phủ mới tốt đẹp hơn, một xã hội văn minh hơn; người dân có quyền đòi hỏi trách nhiệm dân chủ và yêu sách đối với việc quản lý của chính quyền… Tuy nhiên, trong thực tế cách mạng màu mang tính mị dân, người dân không có quyền lợi gì, thậm chí rơi vào bất ổn, khủng hoảng chính trị kéo dài, mẫu thuẫn giai tầng và dân tộc sâu sắc, kinh tế chậm phát triển, đói nghèo, thương vong gia tăng, hỗn loạn.

“Cách mạng màu” là một bộ phận hợp thành của chiến lược “diễn biến hòa bình” với mục tiêu phá hoại nền độc lập của các quốc gia, dân tộc nhằm chi phối dẫn dắt, truyền bá văn hóa, lối sống dân chủ và nhân quyền Mỹ và phương Tây trên thế giới. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa mục tiêu là lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lập ra đảng phái chính trị đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa do Mỹ và phương Tây định đoạt. Nếu như trước đây, phương Tây và Mỹ tiến hành “cách mạng màu” ở các nước xã hội chủ nghĩa thì hiện nay “cách mạng màu” còn diễn ra ở các nước có xu hướng không thân thiện, có thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng thuộc Trung Đông và Bắc Phi, Đông Âu như Gruzia, Ukraine…

Phương thức tiến hành một cuộc “cách mạng màu’ tại một quốc gia là tác động đến các lĩnh vực của đời sống xã hội như tôn giáo, dân tộc, khiếu kiện đất đai…gây nên các sự việc gây tiêu cực, mâu thuẫn, phản ứng trong đời sống xã hội, dẫn đến tập trung đông người, biểu tình, gây bạo loạn chính trị, chiếm chính quyền. Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện nhiều bài viết, hình ảnh liên quan cuộc xung đột vũ trang ở Myanmar, biểu tình, bạo loạn tại Bangladesh dẫn đến các quốc gia rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và hệ quả của nó vẫn kéo dài đến tận bây giờ. Điển hình là Băngladesh, từ một quốc gia có nền kinh tế ấn tượng, với mức tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội trung bình khoảng 6,6% trong thập kỷ qua, mức sống của người dân được cải thiện đáng kể, tình trạng đói nghèo giảm mạnh thì hiện nay với cuộc khủng hoảng chính trị, quốc gia này đang đối mặt với nền kinh tế trì trệ, đầu tư nước ngoài giảm mạnh do những lo ngại về ANTT, biểu tình kéo dài, bất ổn, tỷ lệ thất nghiệp cao, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.

Tại Việt Nam, từ lâu các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng không gian mạng để tiến hành âm mưu “cách mạng màu” và đã gây ra một số vụ việc phức tạp, gây rối ANTT như: vụ gây rối ANTT liên quan việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981; tụ tập đông người liên quan sự cố môi trường biển do công ty Formosa gây ra tại Hà Tĩnh; biểu tình phản đối Luật An ninh mạng và Dự luật Đặc khu tại Bình Thuận, Bình Dương; gần đây nhất là vụ khủng bố do FULRO lưu vong chỉ đạo vào ngày 11/3/2023…Từ đó có thể thấy, âm mưu tiến hành cuộc “cách mạng màu” của các thế lực thù địch, phản động đối với Việt Nam là không thay đổi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, số đối tượng phản động đã sử dụng không gian mạng lợi dụng các cuộc cách mạng màu ở Myanmar, Bangladesh …để tiến hành thông tin, xuyên tạc, tạo cớ chống phá Việt Nam, có thể nhận diện một số thủ đoạn sau:

- Đăng tải, chia sẻ nhiều bài viết, hình ảnh, video có nội dung tuyên truyền phá hoại tư tưởng, xuyên tạc đường lối chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước; tạo ra khủng hoảng về niềm tin, ý thức hệ và chuẩn mực giá trị trong các tầng lớp xã hội, đặc biệt là cán bộ, đảng viên, tri thức.

- Lợi dụng những vấn đề nóng trong xã hội liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo, khiếu kiện đất đai, chủ quyền biển đảo, các vụ việc, sự kiện nóng…các thế lực thù địch tập trung tuyên truyền, xuyên tạc “chính quyền đàn áp nhân dân”, từ đó kêu gọi tụ tập đông người, biểu tình, đập phá trụ sở…phá hoại sự phát triển của đất nước.

- Sử dụng không gian mạng để phát hiện, lôi kéo, tập hợp lực lượng, xây dựng ngọn cờ, tiến tới hình thành và công khai hoá tổ chức núp dưới danh nghĩa các tổ chức xã hội dân sự, phản biện xã hội, đối tượng chúng nhắm đến là số đối tượng chống đối trong nước, số đối tượng cơ hội chính trị, cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên thoái hoá, biến chất, có tư tưởng, định kiến với Đảng, Nhà nước; lôi kéo số công nhân trong các doanh nghiệp, công ty; tín đồ tôn giáo, người khiếu kiện…

Cảnh giác với thủ đoạn của thế lực thù địch nhằm vào vùng dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước

Hiện nay các thế lực thù địch phản động, không ngừng thực hiện âm mưu chiến lược diễn biến hòa bình, với tính chất ngày càng nguy hiểm và thủ đoạn ngày càng tinh vi. Chúng thường thực hiện những luận điệu, tấn công tác động vào tâm lý người đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo và người lao động, lợi dụng đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn, hạn chế về kiến thức pháp luật, nhận thức chính trị chưa cao còn nên dễ bị tác động; lôi kéo nên chúng dùng thủ đoạn chiêu trò xuyên tạc sự thật về chủ trương đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, là mục tiêu chúng nhằm vào, là động lực, mồi lửa kích động, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập đông người gây mất an ninh chính trị, gây rối trật tự công cộng, biểu tình, bạo loạn đẩy bà con vào con đường xâm phạm ANQG-TTATXH. Các thế lực thù địch luôn thực hiện các chiêu trò tinh vi như, mở các lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo, núp dưới vỏ bọc cung cấp các kiến thức về, chính trị, xã hội, không được kiểm chứng, bịa đặt sai sự thật, đặc biệt lợi dụng các sự kiện điểm nóng, những vụ việc phức tạp diễn ra trên địa bàn, thông qua các lớp tập huấn này và các trang mạng xã hội để xuyên tạc, vấn đề dân tộc, tôn giáo, vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, tiếp tay cho âm mưu ý đồ thâm độc của chúng vu cáo Đảng, Nhà nước đàn áp người đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, tín ngưỡng, người lao động, làm sai lệch cái nhìn của cộng đồng quốc tế. Tinh vi hơn chúng dùng các trang mạng xã hội, để nôi kéo thành lập các nhóm, các lớp học trực tuyến, các thế lực thù địch phản động, và số cầm đầu bất mãn có cơ hội chính trị, phản động lưu vong, hướng dẫn đồng bào các kỹ năng vào các trang mạng khai thác các dữ liệu thông tin, mà chúng đã sắp đặt soạn thảo, với những nội dung xuyên tạc, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Lợi dụng những kẽ hở của pháp luật, thiếu sót của chính quyền địa phương đã kích động phong trào đấu tranh dân chủ, cách mạng màu đòi các quyền tự do dân tộc, tôn giáo.

Khoản 1 điều 24 hiến pháp năm 2013 nêu rõ “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng, và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Ngày 18/11/2016. Quốc hội thông qua luật tín ngưỡng tôn giáo đánh dấu một bước tiến lớn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Việc ban hành luật tín ngưỡng, tôn giáo đã thể chế hóa các quan điểm Đảng, và Hiến pháp năm 2013 nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của mọi người dân hơn nữa Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo với đời sống tín ngưỡng tôn giáo phong phú. Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện chính sách nhất quán, tôn trọng trong quyền bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo và không theo tín ngưỡng tôn giáo, của người dân đảm bảo sự bình đẳng tự do tín ngưỡng tôn giáo của con người, điều kiện lịch sử nước ta đã tạo lên cho người dân tinh thần dân tộc, tính cộng đồng và tiếp thu văn hóa ngoại sinh, và làm phong phú truyền thống văn hóa của dân tộc, thực tiễn cho thấy đời sống tín ngưỡng, tôn giáo tại nước ta ngày càng sôi động là minh chứng rõ ràng cho quyền bảo đảm tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.

Bằng những luận cứ trên cho thấy, bản chất của các thế lực thù địch, phản động, xuyên tạc sai sự thật nhằm thực hiện mưu đồ thâm độc của chúng, gây chia rẽ vùng đồng bào, dân tộc, tôn giáo. Nhằm phá hoại nền tảng chính trị tư tưởng của Đảng, Nhà nước ta, vì vậy chúng ta cần phải thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, pháp luật về dân tộc, tôn giáo, cho nhân dân, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, nhằm loại bỏ, các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhân dân tự nhận diện, đấu tranh phản bác tẩy chay các luận điệu xuyên tạc của chúng ngay từ cơ sở.

- Tiếp tục quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế; văn hóa xã hội, nâng cao đời sống cho đồng bào, dân tộc, thiểu số, vùng tôn giáo, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển, có chính sách bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp, đào tạo bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào, dân tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở biên giới, hải đảo…

- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, vững mạnh về chuyên môn, trình độ, năng lực, uy tín trong nhân dân, phát động phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, phát huy mạnh mẽ vai trò tích cực của các tín đồ, chức sắc, người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Vận dụng quần chúng xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên các địa bàn cơ sở.

- Quan tâm giải quyết các chế độ chính sách cho nhân dân, đặc biệt là giải quyết dứt điểm, các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện, trong nhân dân, không để trở thành điểm nóng mà các thế lực thù địch lợi dụng, để châm ngòi thực hiện âm mưu ý đồ của mình.

- Huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc, đổi mới phương pháp tuyên truyền về nội dung, đa dạng về hình thức để nhân dân dễ nghe, dễ hiểu, nhân dân nâng cao được nhận thức, kiến thức pháp luật, bài trừ luận điệu, của các thế lực thù địch.

- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan đơn vị chức năng, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch phản động, phát hiện xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.

Sưu tầm

Mạng xã hội và góc nhìn của giới trẻ

Cùng với sự phát triển chóng mặt của công nghệ thông tin mỗi chúng ta đều có thể dễ dàng có được những phương tiện để truy cập internet. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu những thông tin hữu ích. Tuy nhiên, mạng xã hội của chúng ta chưa được quản lý triệt để, có rất nhiều “rác thải” thông tin gây ảnh hưởng đến tâm lý, nhân cách, lối sống của người tiếp cận thông tin. Đặc biệt một bộ phận giới trẻ hiện nay chưa phân biệt được hết cái tốt, cái xấu với bản tính tò mò, thích khám phá không phân biệt được đâu là thông tin đúng, đâu là tin giả, tin sai sự thật đang dần xa rời những giá trị truyền thống của dân tộc và sa đà, lún sâu vào những suy nghĩ, hành vi sai trái, lệch lạc.

Trong những năm gần đây, mạng xã hội đã trở nên phổ biến đối với cuộc sống hàng ngày của hầu hết người dân Việt Nam cùng với tỷ lệ sử dụng điện thoại thông minh và internet ngày càng tăng. Các mạng xã hội như: Zalo, Facebook, Twitter, Tiktok, Instagram… đã trở thành nhu cầu tất yếu  tác động trực tiếp đến cuộc sống thực tế của người dân, đặc biệt là giới trẻ.

Từ khi xuất hiện, mạng xã hội đã tạo nên nhiều thay đổi lớn trong đời sống kinh tế, xã hội. Mạng xã hội ngày càng được mở rộng, các hình thức giải trí trên mạng trở nên phong phú, đa dạng đã tác động trực tiếp đến đời sống tâm lý và tình cảm của đại bộ phận giới trẻ. Bên cạnh việc tiếp cận những thông tin lành mạnh, không ít người đã trở thành các "anh hùng bàn phím" sử dụng các trang mạng xã hội để bôi xấu hình ảnh, thậm chí xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của các cá nhân, tổ chức.

Lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một bộ phận giới trẻ, các thế lực phản động đã đưa ra các luận điệu sai trái, thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước bằng các chiêu trò tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả tạo, sai lệch, biến có thành không, biến không thành có, thật giả lẫn lộn, từ đó lôi kéo, hướng dư luận theo quan điểm sai trái, thù địch. Các đối tượng này đã lập và sử dụng hàng ngàn website, blog, diễn đàn trực tuyến… để thực hiện việc tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.

 Tuy nhiên các hành vi bịa đặt, xuyên tạc, thông tin sai sự thật nhằm chống phá, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác là vi phạm pháp luật và có đủ các chế tài pháp luật để xử lý. Theo Điểm a, Khoản 1, Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyên điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, các hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân... bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng thường xuyên ban hành các văn bản yêu cầu Sở thông tin và truyền thông các tỉnh, thành phố tăng cường rà soát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật trong việc lan truyền các thông tin xấu, độc, tin sai sự thật; các cơ quan báo chí tăng cường thông tin tuyên truyền để người dân hiểu đúng các vụ việc, không lan truyền các thông tin sai sự thật, xúc phạm đến uy tín tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Để mọi người nhận thức được đâu là tin thật đâu là tin giả, tin xấu độc, bên cạnh các chế tài xử lý, điều quan trọng nhất vẫn là ý thức của những người sử dụng mạng xã hội. Để tránh những sự việc đáng tiếc xảy ra, mỗi chúng ta cần nâng cao tinh thần trách nhiệm bằng cách sử dụng mạng xã hội đúng quy định và có văn hóa. Hãy thật thận trọng khi đăng tải thông tin, đừng vì sự thiếu hiểu biết, bốc đồng mà chia sẻ hoặc bình luận những nội dung sai trái. Hơn ai hết, mỗi chúng ta cần đề cao tinh thần cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác các tin giả, tin sai sự thật, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội.

Sưu tầm

Ngăn chặn luận điệu xuyên tạc vấn đề “chính sách đặc xá’ ở Việt Nam

Những năm qua, nhiều đợt đặc xá lớn đã được tiến hành nhân dịp các sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước hoặc trong trường hợp đặc biệt. Chính sách đặc xá nhằm động viên, khuyến khích người bị kết án phạt tù ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động cải tạo để được hưởng sự khoan hồng. Tuy nhiên, với mục đích chống phá Nhà nước, công kích chính quyền, miệt thị đất nước nên những đối tượng khoác áo dân chủ, nhân quyền đã nhân cơ hội chính trị để tung ra nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc công tác đặc xá.

Tính từ năm 2009 đến nay, Nhà nước Việt Nam đã tiến hành 9 đợt đặc xá lớn, tha tù trước thời hạn cho hơn 92.000 phạm nhân. Bằng các Quyết định đặc xá của Chủ tịch nước, hành chục nghìn người đã hưởng niềm vui được khoan hồng, sớm trở về đoàn tụ với gia đình, sẵn sàng làm lại cuộc đời. Phần lớn người được đặc xá đã trở về nơi cư trú, ổn định cuộc sống,  làm ăn lương thiện.

Tuy nhiên, từ một chính sách nhân văn, nhân đạo, qua lăng kính nhìn nhận của những kẻ chống phá đã khiến công tác đặc xá bị bóp méo, bôi lem, tạo ra gam màu tiêu cực, bôi xấu Đảng, Nhà nước, chế độ. Chúng rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam phân biệt đối xử với các “tù nhân lương tâm” trong đặc xá”; “cứ nộp tiền sẽ được đặc xá”; “công lý không giành cho dân nghèo”; cho rằng đặc xá chỉ là “diễn kịch”, “trò hề”, thậm chí xuyên tạc Nhà nước Việt Nam “cưỡng bức đặc xá” .Các đối tượng dựa vào những thông tin sai trái trên mạng xã hội rồi mặc nhiên quy kết, Nhà nước Việt Nam áp dụng hình thức “cưỡng bức đặc xá” Các đối tượng quy kết những phạm nhân phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, bị kết án tù về các tội như “tội thành lập hoặc tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, “tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”, “tội lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”… để gán ghép thành “tù nhân chính trị”, “tù nhân lương tâm”, từ đó đưa ra yêu sách đòi Nhà nước phải đặc xá, tha tù “vô điều kiện” cho các phạm nhân này.

Việc các đối tượng xấu bôi nhọ công tác đặc xá với chiêu bài “tù nhân lương tâm”, “tù nhân chính trị” là một thủ đoạn hết sức đê hèn. Phải khẳng định rõ, ở Việt Nam không tồn tại cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Việc kết án đối với bất kỳ ai đều trải qua một quá trình tố tụng hình sự nghiêm minh, theo đúng quy định của pháp luật. Thực chất, những kẻ được giới “dân chủ” xếp vào nhóm “tù nhân lương tâm” hầu hết là các đối tượng bị kết án thuộc nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Đáng chú ý, ngay cả trong quá trình chấp hành án phạt tù, các đối tượng này vẫn không hề hối cải, tiếp tục ngoan cố, không nhìn nhận được lỗi lầm của bản thân, không từ bỏ ý đồ chống phá đất nước, liên tục thực hiện các hành vi chống đối, bất hợp tác với cán bộ quản giáo. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”. Do đó, không chỉ Việt Nam mà tất cả các nước trên thế giới đều không bao giờ chấp nhận những kẻ phá hoại đất nước.

Thực hiện chính sách đặc xá có vai trò xã hội to lớn, khuyến khích người phạm tội cải tạo tốt để được đặc xá, góp phần ổn định tình hình an ninh, trật tự xã hội. Giúp những người đặc xá phấn đấu học tập, rèn luyện tiến bộ, vượt qua khó khăn, mặc cảm, có ý thức hoàn lương, hướng thiện, tự giác lao động sản xuất, nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội. Sau khi trở về với gia đình, người được hưởng chính sách đặc xá tiếp tục được xã  hội giúp đỡ tái hoà nhập cộng đồng. Tỷ lệ tái phạm trong số được đặc xã thấp hơn nhiều so với số phạm nhân mãn hạn tù. Điều này cho thấy, số lượng người được đặc xá đông nhưng tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các địa phương có người đặc xá vẫn được bảo đảm, không xảy ra phức tạp do người được đặc xá gây nên. Hiệu quả công tác đặc xá được thể hiện bằng tỷ lệ tái phạm thấp chứng tỏ chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn và công tác đặc xá đã được tổ chức triển khai nghiêm túc, theo đúng các quy định của pháp luật.

Hơn ai hết, mỗi chúng ta cần luôn tỉnh táo, đề cao tinh thần cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai sự thật, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tránh trở thành nạn nhân, quân cờ bị lợi dụng, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội./.

Sưu tầm

Lời Bác dạy

… Khen, chê phải đúng mức. Khen nhưng khen quá lời, “suy tôn” người được khen thì chính người được khen xấu hổ. Đập nhưng đập bậy thì người ta không phục…”.

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một buổi họp của Bộ Chính trị tiếp tục cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ, ngày 06 tháng 11 năm 1962, đăng trên Báo Nhân dân, số 3148, ra ngày 07 tháng 11 năm 1962.

Sáng ngày 06 tháng 11 năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp của Bộ Chính trị để cho ý kiến về nội dung Đại hội Văn nghệ. Khi bàn về chủ trương tổ chức cho anh em văn nghệ sĩ đi một đợt thực tế dài hạn ở nông thôn, Người đã tán thành chủ trương này và có những lời căn dặn quý báu đối với các văn nghệ sĩ đi thực hiện nhiệm vụ này. Đây là sự nhắc nhở sâu sắc, có giá trị định hướng về nhận thức, tư tưởng đối với mỗi văn nghệ sĩ cần nêu cao ý thức trách nhiệm, bám sát thực tiễn, khen, chê phải đúng mức; nói cách khác, Người yêu cầu các văn nghệ sĩ phải phản ánh trung thực và khách quan cuộc sống lao động, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân ở vùng nông thôn.

Thực hiện lời căn dặn của Bác, các thế hệ văn nghệ sĩ nước nhà đã thường xuyên bám sát đời sống nông thôn, lăn lộn trên đồng ruộng, gò đồi, cũng như trên các chiến trường đầy khói lửa; hòa mình vào cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị, tích cực cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp, đồng thời phê phán những thói hư tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn… góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 Ngày nay, trước bối cảnh phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, là bài học sâu sắc định hướng nhận thức, tư tưởng, phương châm hành động của các văn nghệ sĩ; bồi dưỡng cái tâm và cái tài, cổ vũ động viên các văn nghệ sĩ bám sát cơ sở, đi sâu khám phá cuộc sống lao động sản xuất và sinh hoạt hằng ngày của nhân dân, qua đó sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật hay và tốt để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đối với Quân đội ta, thấm nhuần lời dạy của Bác, đội ngũ văn nghệ sĩ Quân đội đã thường xuyên bám sát các đơn vị cơ sở, nhất là những đơn vị đóng quân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; lăn lộn cùng với bộ đội trên các thao trường, bãi tập, nơi bộ đội làm công tác dân vận, tham gia phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn… để phản ánh trung thực cuộc sống học tập, công tác và sinh hoạt của bộ đội. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ; tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; tuyên truyền, cổ vũ động viên kịp thời những tấm gương người tốt, việc tốt, đồng thời phê phán những cái xấu, cái tiêu cực, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần phong phú, lành mạnh, để mỗi đơn vị quân đội thực sự là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị văn hóa, nhân cách quân nhân, bồi đắp phẩm chất ”Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Sưu tầm

“… Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi…”

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Lời kêu gọi cả nước tiến lên đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, đăng Báo Nhân dân, số 5317, ngày 03 tháng 11 năm 1968.

Lời kêu gọi thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải chịu nhiều hy sinh gian khổ nhưng không thể lay chuyển ý chí, quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam về một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Lời kêu gọi của Người tựa như lời “hịch” đanh thép thúc giục cả dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết tâm chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Lời kêu gọi còn là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX. Đó là tinh thần kiên quyết tiến công của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta, của toàn quân và toàn dân ta trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng. Tinh thần tiến công đó tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biên giới, biển, đảo, đặc biệt là trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại. Các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội. Để thực hiện trọn vẹn lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở. Nâng cao bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, đảm bảo lực lượng vũ trang nhân dân luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất và các nhiệm vụ khác được giao.

Sưu tầm