Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Khái niệm Chủ nghĩa xã hội khoa học

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là một khoa học độc lập thuộc nhóm xã hội - nhân văn, ra đời vào thế kỷ XIX trên cơ sở chín muồi của điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, tiền đề văn hoá tư tưởng và công lao to lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen. Chủ nghĩa xã hội khoa học được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, Chủ nghĩa xã hội khoa học là chủ nghĩa Mác - Lênin, với tư cách là một học thuyết chính trị - xã hội hoàn chỉnh, cân đối, triệt để cách mạng, luận chứng một cách toàn diện dưới góc độ triết học, kinh tế chính trị và xã hội - chính trị về sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời, chiến thắng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản đều tất yếu như nhau. Theo nghĩa hẹp, Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin, là biểu hiện lý luận của phong trào công nhân, trực tiếp luận chứng khoa học dưới góc độ chính trị - xã hội quá trình đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Chủ nghĩa xã hội khoa học có đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp, nghiên cứu riêng; có hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính độc lập tương đối; có sự kế thừa và phát triển tư tưởng trong lịch sử nhân loại. Chủ nghĩa xã hội khoa học có vị trí, vai trò quan trọng:

Chủ nghĩa xã hội khoa học kế thừa và phát triển tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong lịch sử lên tầm cao mới, chất lượng mới. Sự ra đời, phát triển của Chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên cơ sở hiện thực và khoa học vững chắc, có sự kế thừa và phát triển những giá trị tư tưởng, khắc phục và loại trừ những hạn chế, những yếu tố không hợp lý của các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng trong lịch sử; đồng thời đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới mà cuộc sống xã hội đặt ra. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một giá trị văn hoá, văn minh nhân loại, đã tìm ra những quy luật, tính quy luật của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, giải phóng con người, giải phóng xã hội.

Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin thật sự là học thuyết khoa học, cách mạng, cân đối, hoàn bị. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ quả tất yếu rút ra từ triết học và kinh tế chính trị học Mác - Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là lý luận về đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, là lý luận chính trị - xã hội trực tiếp chỉ đạo hoạt động thực tiễn đấu tranh của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ nhằm nhận thức thế giới một cách đúng đắn, không dừng lại ở việc chỉ ra tính tất yếu khách quan, các nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn vạch rõ mục tiêu, con đường, lực lượng, các phương pháp cách mạng đúng đắn để hiện thực hoá việc cải tạo thế giới, thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ tư tưởng chính trị, cơ sở lý luận chính trị trực tiếp để các Đảng Cộng sản và công nhân đề ra cương lĩnh, đường lối, chiến lược, sách lược cách mạng. Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn gắn kết chặt chẽ giữa khoa học và cách mạng, giữa tính khoa học và tính giai cấp, tính đảng; giữa lý luận và thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thực tiễn xã hội... vì vậy, từ khi ra đời đến nay, Chủ nghĩa xã hội khoa học luôn luôn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận và tìm cách loại bỏ. Do đó, luôn kiên định và phát triển, trung thành và vận dụng sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa xã hội khoa học là điều kiện cơ bản bảo đảm để giai cấp công nhân, các đảng cộng sản thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa; hạ thấp, từ bỏ và phản bội các nguyên lý Chủ nghĩa xã hội khoa học, chắc chắn gây nên những tổn thất khôn lường đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở mỗi nước và thế giới. Chủ nghĩa xã hội khoa học là vũ khí lý luận sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong cuộc đấu tranh tư tưởng - lý luận chống lại chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại.

Đối với Việt Nam, Chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[1].



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2011, tr. 563

Kích động đồng bào dân tộc thiểu số di cư tự do chống chế độ ta

 


Kích động đồng bào dân tộc thiểu số di cư trái phép đến các khu vực trọng điểm và vượt biên ra nước ngoài nhằm tạo sự bất ổn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cớ để can thiệp vào nước ta.

Trong những năm qua, hiện tượng di cư ồ ạt của một bộ phận đồng bào Mông ở các tỉnh phía Bắc vào một số huyện biên giới tỉnh Điện Biên, Lai Châu, nhất là vào các tỉnh Tây Nguyên. Hiện tượng này không chỉ thuần tuý là vấn đề kinh tế, mà ẩn chứa sau nó là âm mưu chính trị thâm độc của các thế lực thù địch. Chúng đã triệt để lợi dụng tập quán du canh du cư của đồng bào các dân tộc thiểu số và nhu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, để tìm cách hỗ trợ, chỉ đạo bọn phản động người dân tộc thúc đẩy, tạo “làn sóng” di cư trái phép đến một số địa bàn “trọng điểm” như: khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cũ của địch, các địa bàn chiến lược... Mặt khác, chúng còn ra sức lợi dụng phong tục tập quán, các mối quan hệ huyết thống dòng tộc, các hoạt động thăm thân, làm ăn buôn bán, sử dụng các đài phát thanh, băng, đĩa hình bằng tiếng dân tộc để tuyên truyền kích động và dùng tiền, vật chất để mua chuộc, lôi kéo người dân tộc vượt biên trái phép. Những hoạt động tuyên truyền, kích động, tổ chức di cư, vượt biên trái phép trên nhằm tạo sự bất ổn về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, vừa có thể “đưa người dân tộc” về từng khu vực theo ý đồ chính trị của chúng để có điều kiện xây dựng căn cứ phản cách mạng, làm cho vấn đề dân tộc trở thành “ngòi nổ”, tạo ra những cái cớ để nước ngoài có thể can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam… Chỉ tính riêng trong 10 năm lại đây, trên cả nước đã xảy ra hơn 500 điểm nóng, trong đó có khoảng 30 điểm nóng lớn liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo. Điển hình là các vụ bạo loạn năm 2001, 2004 ở Tây Nguyên, tháng 5 năm 2011 ở Mường Nhé, Điện Biên có hàng ngàn người tham gia biểu tình, bạo loạn, chống đối chính quyền, đòi ly khai, tự trị. Trong thời gian tới, chúng tiếp tục “phát huy” thủ đoạn này để chống phá cách mạng nước ta.

Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo đẩy mạnh hoạt động tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam.

 


Trong những năm qua, với chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đại đa số các chức sắc tôn giáo yên tâm làm việc đạo, có tinh thần dân tộc, đồng tình với đường hướng “tốt đời, đẹp đạo”, có sự điều chỉnh theo hướng thích nghi, hợp tác với chính quyền để tăng cường truyền giáo. Tuy nhiên, có một số người mang tư tưởng cơ hội, vọng ngoại, giữ thái độ cực đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc và khối đại đoàn kết toàn dân, thậm chí một số người ra mặt chống đối pháp luật. Những phần tử này đã lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng để tiến hành các hoạt động chống phá chính quyền trong vùng đồng bào có đạo. Đặc biệt là việc đòi phục hồi những tổ chức tôn giáo có từ thời Mỹ, Nguỵ, kích động các tín đồ đấu tranh đòi lại đất đai mà trước đây các tổ chức tôn giáo đã hiến cho Nhà nước. Việc khiếu kiện và tranh chấp liên quan đến đất đai, cơ sở thờ tự của tôn giáo ở một số nơi tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp. Bên cạnh đó, các thế lực phản động bên ngoài cũng không ngừng gia tăng hoạt động bảo trợ cho hoạt động truyền đạo trái phép ở Tây Bắc, Tây nguyên và một số địa phương khác, cùng với sự xuất hiện các “đạo lạ”, tà đạo làm cho nhiều nơi mất ổn định xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống, lao động của nhân dân.

Các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động đòi ly khai, tự trị, sử dụng hệ thống nhà nguyện làm nơi tụ tập lực lượng, sở chỉ huy để phối hợp hoạt động chống phá. Hiện nay, đáng chú ý là vấn đề “đạo hóa” dân tộc ở nhiều vùng dân tộc thiểu số ở nước ta. Đây là một trong những thủ đoạn thường xuyên, quen thuộc mà các thế lực thù địch đã sử dụng với nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Với các dân tộc thiểu số Việt Nam chưa theo một tôn giáo nào thì việc “đạo hóa” càng có ý nghĩa quyết định đến khả năng lôi kéo, tập hợp dân chúng và hình thành các “khung chính quyền” ngầm núp dưới vỏ bọc tôn giáo, sử dụng hệ thống nhà nguyện Tin Lành để hoạt động chống đối chính quyền. Với những toan tính đó, trong những năm tới, các thế lực thù địch sẽ tiếp tục tăng cường đạo hóa dân tộc, nhất là truyền đạo Tin Lành với nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích chuyển hóa ý thức hệ tư tưởng của đồng bào các dân tộc từ lòng tin theo Đảng, theo cách mạng sang lòng tin vào đấng Cứu thế, làm thay đổi nếp sống văn hóa truyền thống bằng thứ văn hóa xa lạ, dùng thần quyền để lừa bịp và tập hợp lực lượng, hình thành các nhóm phản động dưới vỏ bọc tôn giáo, tạo dựng ngọn cờ, chuẩn bị nguồn lực bên trong, khi hội đủ điều kiện thì kích động đồng bào các dân tộc gây bạo loạn, tạo cớ can thiệp vào nước ta, đặc biệt là ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên.

Các thế lực thù địch lợi dụng giáo lý, giáo luật tôn giáo để kích động tín đồ chống lại chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Mỗi tôn giáo đều có những giáo lý, giáo luật cụ thể riêng, theo đó có các quy định tín đồ đến các cơ sở thờ tự để hành lễ, nghe giảng kinh kệ, đạo pháp… các linh mục, mục sư thay Chúa Trời giảng Kinh Thánh trong các ngày hành lễ; các Hòa thượng, Trưởng quản giảng về kinh kệ, Phật pháp… Ở một số nơi đã xuất hiện việc lợi dụng các buổi hành lễ, cầu kinh, giảng đạo, làm sai tôn chỉ hành đạo, lồng các nội dung tuyên truyền nói xấu chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, làm cho tín đồ giảm lòng tin vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; mức độ cao hơn là làm theo sự điều khiển của các thế lực thù địch xâm hại lợi ích của quốc gia, dân tộc và lợi ích của chính quần chúng tín đồ các tôn giáo.

Lợi dụng và ủng hộ một số chức sắc, tín đồ tôn giáo cực đoan, quá khích để kích động chia rẽ các tôn giáo, giữa tôn giáo với dân tộc, với Đảng và Nhà nước.

 


Chúng ra sức đẩy mạnh các hoạt động ngầm, cổ suý các phần tử cực đoan trong các tôn giáo móc nối với nhau dự định cho ra đời tổ chức liên tôn giáo để hợp sức chống phá cách mạng. Vừa qua, Nguyễn Văn Lý (Công giáo), Thích Quảng Độ (Phật giáo), Lê Quang Liêm (Phật giáo Hòa Hảo)… đã có những hoạt động như vậy nhằm chống phá cách mạng. Chúng kích động số phần tử bất mãn chống đối chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của ta; kích động tư tưởng ly khai, tự trị nhằm mục tiêu tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước, biến tôn giáo thành lực lượng chính trị đối trọng với Đảng và Nhà nước, chính quyền; lợi dụng những vấn đề lịch sử để lại như đất đai, nơi thờ tự để kích động các tín đồ đấu tranh đòi lại đất đai, chia rẽ đồng bào có đạo với đồng bào không có đạo v.v…Thủ đoạn này chúng sẽ tiếp tục sử dụng trong thời gian tới.

Xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với “tự do tôn giáo” để chống phá nước ta.

 


Bằng mọi con đường, biện pháp, đặc biệt là lợi dụng triệt để phương tiện thông tin, truyền thông, báo chí… Các thế lực thù địch tổ chức in, ấn, tán phát, truyền bá các tài liệu xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, dưới danh nghĩa các “Kỷ yếu hội nghị tôn giáo”, “thông điệp", “Lời chứng”… của các tín đồ trong nước hoặc các tổ chức tôn giáo phản động lưu vong ở nước ngoài vu cáo “Việt Nam đàn áp tôn giáo”, xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, xuyên tạc chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, kích động tín đồ chống lại đường lối, chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước. Những năm tới, các thế lực thù địch ở nước ngoài sẽ tiếp tục móc nối với một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo trong nước kích động, gây bạo loạn, làm cho tình hình ở một số nơi đã khó khăn càng thêm phức tạp, nổi lên là ở một số tỉnh thuộc khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.

Kích động mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, lôi kéo quần chúng chống đối chính quyền nhằm phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

 

 


Lợi dụng triệt để các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ dân tộc để kích động tạo thành mâu thuẫn dân tộc là mũi nhọn đột phá của các thế lực thù địch. Đây là thủ đoạn có ý nghĩa chiến lược lâu dài, thâm hiểm nhằm chia rẽ các dân tộc Việt Nam, làm cho ta không tạo được sức mạnh tổng hợp, tiến tới tự suy yếu và đẩy mâu thuẫn giữa các dân tộc Việt Nam đến tình trạng căng thẳng, từ đó kích động xung đột dân tộc, sắc tộc ở nước ta.

 Hiện nay, các thế lực thù địch tiếp tục dùng nhiều hình thức, thủ đoạn khác nhau, tập trung vào việc kích động gây chia rẽ các dân tộc thiểu số với nhau và với người Kinh, lôi kéo tập hợp bọn phản động, cơ hội, bất mãn trong các dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam, dùng “người dân tộc cai quản người dân tộc”; lôi kéo, mua chuộc tầng lớp trên, người cầm đầu các dòng họ lớn làm “ngọn cờ” tập hợp lực lượng, khống chế quần chúng tiến bộ và chống đối chính quyền cơ sở; lợi dụng trình độ hiểu biết có hạn, đặc điểm tâm lý và lịch sử hình thành, phát triển của mỗi dân tộc để tìm cách khoét sâu những mâu thuẫn, gây nghi kỵ, hận thù, chia rẽ; tuyên truyền tư tưởng dân tộc lớn, tư tưởng dân tộc hẹp hòi; lợi dụng khó khăn (chủ yếu về kinh tế) và những tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước để kích động, tạo ra sự đối lập giữa các dân tộc với nhau và với cách mạng. Kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, ly khai dân tộc; kích động chia rẽ quan hệ dân tộc, quan hệ lương - giáo và giữa các tôn giáo với nhau như: đòi “tự do tôn giáo”, “tự trị”, thành lập “Vương quốc Mông độc lập”, “nhà nước Đề Ga”, “quốc gia Khơmer Crôm”… hòng làm chia rẽ, phá hoại, suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.

Âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam

 


 Âm mưu cơ bản xuyên suốt: Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm “ngòi nổ” nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây mất ổn định chính trị - xã hội, thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hoá” hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Âm mưu chủ đạo của các thế lực thù địch là tìm mọi thủ đoạn nhằm đạt được mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội, chuyển hóa, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam là một bộ phận không thể tách rời, một nội dung quan trọng của chiến lược “diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng nước ta. Phương châm của các thế lực thù địch trong “diễn biến hòa bình”: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với bạo loạn lật đổ, uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự.

Mục tiêu cụ thể: Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hòng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ, chức sắc các tôn giáo chống lại chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập các dân tộc, các tôn giáo với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; vô hiệu hóa sự quản lí của Nhà nước đối với các lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo. Xây dựng lực lượng chống đối, hình thành các tổ chức phản động trong các dân tộc, tôn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

“Quân dân đoàn kết một lòng/ Kháng chiến thắng lợi, cờ hồng tung bay”

Câu thơ trên trích trong bài thơ “Kế hoạch Na va đầu voi đuôi chó” của Chủ tịch Hồ Chí Minh với bút danh “C.B”; Báo Nhân dân, đăng số 408, từ ngày 16 đến ngày 20 tháng 11 năm 1953.

Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra quyết liệt, quân và dân ta liên tiếp giành được những thắng lợi lớn trên các chiến trường, thực dân Pháp thất bại thảm hại phải liên tiếp thay quân, đổi tướng với nhiều kế hoạch tác chiến khác nhau nhằm cứu vãn tình thế, nhưng chúng đều thất bại thảm hại trước sức mạnh đoàn kết quân và dân ta cùng sát cánh trên mọi chiến trường, với quyết tâm sắt đá phải giành cho được độc lập dân tộc.

 Thực hiện lời Bác Hồ kính yêu căn dặn, quân và dân ta đã phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt, nhân dân đã đồng tâm, hiệp lực, nuôi dưỡng, giúp đỡ, cung cấp sức người, sức của cho bộ đội. Ở đâu có dân, ở đó có dấu chân bộ đội, bộ đội đánh giặc, bảo vệ nhân dân. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Bộ đội của ta là bộ đội Cụ Hồ, bộ đội của dân sống giữa lòng dân; bộ đội không quản ngại khó khăn, gian khổ, chiến đấu anh dũng, kiên cường, chấp nhận hy sinh để giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân khỏi ách đô hộ, bóc lột của đế quốc, thực dân xâm lược. Tình quân dân cá nước, quân với dân một ý chí đã tạo nên sức mạnh chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, đất nước hòa bình, độc lập, nhân dân được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Ngày nay, đất nước hòa bình, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đất nước đang đứng trước thời cơ mới và cả những thách thức mới; đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trong đó chúng tập trung chống phá mối quan hệ gắn bó máu thịt quân dân. Tình hình đó, đòi hỏi Quân đội ta phải tập trung xây dựng nâng cao sức mạnh tổng hợp, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, sẵn sàng đánh thắng mọi kiểu loại chiến tranh xâm lược. Quân đội cần  tích cực tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội; “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp nghĩa”, xây dựng cơ sở chính trị ở các địa phương; là lực lượng chủ lực trong cứu hộ, cứu nạn, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai; sẵn sàng hy sinh vì sự bình yên của đất nước, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Sưu tầm

“Học hành là vô cùng. Học càng nhiều biết càng nhiều càng tốt…”

Sau hơn hai năm Trung ương Đảng và Chính phủ phát động toàn dân thực hiện phong trào diệt giặc dốt, phong trào đã đạt được những kết quả quan trọng, hàng triệu người dân Việt Nam đã biết đọc, biết viết. Bác Hồ rất vui mừng khi nhận được báo cáo về kết quả kỳ thi ngày 06 tháng 9 năm 1947, toàn dân xã Duyên Trang từ 8 tuổi trở lên đều thoát nạn mù chữ. Bác đã thay mặt Chính phủ gửi lời khen ngợi đến đồng bào toàn xã, nhất là cảm ơn các phụ lão, thân hào đã ra sức giúp đỡ, các cán bộ bình dân học vụ đã cố gắng dạy dỗ bà con nhân dân trong xã.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về tinh thần tự học. Người không những là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, mà còn là một nhà giáo dục, một tấm gương “suốt đời tự học” để trưởng thành, để đi lên, để tiến bộ. Theo Người, muốn trở thành người có đức, có tài để phục vụ và cống hiến nhiều cho Đảng, cho nhân dân thì “suốt đời phải học tập”. Chỉ có học tập, con người mới nâng cao sự hiểu biết về mọi mặt và phục vụ cho quê hương, đất nước nhiều hơn, tốt hơn.

Thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào diệt giặc dốt đã được toàn dân đồng lòng, đồng sức triển khai với quyết tâm cao, toàn dân, toàn quân ra sức học tập, lao động sản xuất để chiến đấu và phục vụ chiến đấu, giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế tri thức, khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đi vào chiều sâu, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nước nhà. Đảng, Nhà nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, mỗi người dân Việt Nam cần nêu cao tinh thần tự học, tự rèn, tích cực “học tập suốt đời” theo gương Bác để phục vụ tốt hơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Đối với Quân đội ta, thực hiện lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ cần nhận thức sâu sắc việc học tập, rèn luyện vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm, là vinh dự của mỗi quân nhân; phải coi việc học tập là một nhu cầu tự thân, nó thấm sâu vào mỗi quân nhân, trở thành cách nghĩ và hành động trong cuộc sống của mỗi người. Cần chủ động khắc phục mọi khó khăn, sử dụng mọi thời gian, tranh thủ mọi điều kiện để học tập, rèn luyện với tinh thần bền bỉ, kiên trì, cầu tiến bộ.

Sưu tầm

Lời Bác dạy

“Phải luôn thi đua học tập và công tác, mở rộng tự phê bình và phê bình để tiến bộ mãi, để làm cho bộ đội ta càng thêm hùng mạnh, chính quyền ta càng thêm vững chắc”.

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư khen các chiến sĩ và cán bộ của các đơn vị tiếp quản Thủ đô”, đăng trên Báo Nhân dân, số 260, ra ngày 11 tháng 11 năm 1954.

Thư gửi của Người viết trong trong thời điểm cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa mới kết thúc (07/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được ký kết (21/7/1954). Sau một thời gian bộ đội ta về tiếp quản Thủ đô và bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Để cổ vũ, động viên kịp thời các đơn vị quân đội tiếp quản Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi và có những lời căn dặn quý báu đối với các đơn vị thực hiện nhiệm vụ này. Lời căn dặn của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội ta khi thực hiện nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô cần ra sức thi đua trong học tập và công tác, tích cực tu dưỡng và rèn luyện, giữ vững phẩm chất, đạo đức, khí tiết của người quân nhân cách mạng; gương mẫu trong mọi lời nói, hành động và việc làm; phải thường xuyên mở rộng và nêu cao tự phê bình và phê bình…

Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, lời dạy của Bác có ý nghĩa to lớn, là sự định hướng cho quá trình học tập và công tác của mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp, nhất là những cán bộ chủ trì các cấp, phải là lực lượng xung kích, đi đầu, phải nêu gương trên mọi lĩnh vực. Muốn vậy, mỗi cán bộ, công chức, viên chức các cấp cần tích cực học tập để nâng cao trình độ, năng lực, phương pháp tác phong công tác; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống; có thái độ giao tiếp, ứng xử chuẩn mực, có năng lực và tính chuyên nghiệp cao trong thực thi công vụ, nhiệm vụ được giao; thường xuyên nêu cao tự phê bình và phê bình, khắc phục những hạn chế, yếu kém để hoàn thiện bản thân. Đặc biệt, cần kiên quyết đấu tranh phòng, chống và khắc phục kịp thời sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn khắc ghi lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ra sức học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ chính trị, quân sự, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao. Chủ động sáng tạo, quyết đoán, tự lực, tự cường, mưu trí, dũng cảm trong thực hiện nhiệm vụ. Chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; gương mẫu trong thực hiện các quy định, nền nếp chế độ công tác, sinh hoạt, học tập, rèn luyện của đơn vị. Nói đi đôi với làm, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm; đấu tranh với mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, gia trưởng, quân phiệt và những biểu hiện tiêu cực khác.

Sưu tầm


“… Cán bộ và bộ đội nhất định phải đi sát với nhân dân vì lực lượng của nhân dân là vô cùng mạnh mẽ…”

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong “Thư gửi đồng bào và bộ đội (Vệ Quốc quân và dân quân du kích Tả Ngạn, Liên khu 3”, Người viết ngày 10 tháng 11 năm 1951, đăng trên Báo Quân đội nhân dân, số 34, ra ngày 01 tháng 12 năm 1951, trong bối cảnh sau khi nhận được báo cáo của đồng bào và bộ đội Tả Ngạn, Liên khu 3 về thành tích tiêu diệt địch, Bác đã gửi thư khen ngợi đồng bào, bộ đội và cán bộ, quân, dân, chính thuộc Liên khu 3.

Với tư duy chiến lược và tầm nhìn xa trông rộng, Người đã chỉ ra được cội nguồn sức mạnh, sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội đều bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân; từ cơm ăn, áo mặc, xe cộ đi lại đến vũ khí đánh giặc đều do mồ hôi công sức nhân dân mà có. Người khẳng định: “Không có dân thì không có bộ đội”, “Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội”. Chỉ có đoàn kết chặt chẽ với nhân dân, dựa vào dân, được nhân dân tin yêu như con em ruột thịt thì quân đội mới có được những thuận lợi trong chiến đấu, công tác, sản xuất cũng như trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. Cách xa dân, không gắn bó với nhân dân, không liên hệ mật thiết với nhân dân, không dựa vào dân thì quân đội không thể có sức mạnh, không thể hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta đã cho thấy, nguồn gốc sức mạnh của quân đội không chỉ bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự quan tâm của các tổ chức chính trị xã hội, từ sức mạnh bên trong của quân đội, mà còn bắt nguồn từ sự đoàn kết giữa quân đội với nhân dân, sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân đối quân đội.

Lời dạy của Bác năm xưa đến nay vẫn còn nguyên giá trị về lý luận và thực tiễn đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi người, cần được triển khai sâu rộng trong toàn xã hội và toàn quân. Đối với quân đội, phải phát huy bản chất cách mạng, phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên trì xây dựng, phát triển mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân; tôn trọng, giúp đỡ, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; một lòng, một dạ chiến đấu bảo vệ nhân dân, luôn luôn giữ nghiêm kỷ luật quan hệ quân – dân, không phụ lòng tin yêu của nhân dân; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế – xã hội, “xóa đói giảm nghèo”, xây dựng nông thôn mới, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia phong trào “Đền ở đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”… Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng học tập, rèn luyện, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, thực hiện tốt lời dạy của Người: “phải dựa vào nhân dân, không được xa rời dân, nếu không thế thì sẽ thất bại”.

Sưu tầm

 VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH 

Với phương châm lấy “xây” để “chống”, báo chí cách mạng đã chủ động, tích cực tham gia tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống. Báo chí cũng là lực lượng chủ công tuyên truyền làm nổi bật những thành tựu của đất nước, tính ưu việt của chế độ và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Báo chí cách mạng cũng tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lên án những hành vi coi thường kỷ cương, phép nước. Qua đó, báo chí không những góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà còn góp phần củng cố niềm tin, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Đặc biệt, bằng sự tương tác đa chiều với bạn đọc, báo chí cách mạng đang tham gia mạnh mẽ, có hiệu quả vào công tác đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần định hướng dư luận, củng cố niềm tin trong nhân dân. Với nhiều bài viết sắc sảo, lập luận chặt chẽ, có luận cứ, luận điểm sắc bén bảo vệ tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đúng đắn, sáng tạo trong quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; kịp thời phản bác những luận điệu sai trái góp phần quan trọng đấu tranh ngăn chặn sự phá hoại về tư tưởng nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” chống đất nước ta của các thế lực thù địch.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, đòi hỏi các cơ quan báo chí phải luôn đề cao tính thận trọng. Báo chí phải tăng cường khả năng “bút chiến”, sự sắc sảo, sức thuyết phục, nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn. Trước mỗi luận điểm, vấn đề, các nhà báo cần cố gắng tìm tòi, khai thác thông tin để chứng minh làm rõ vấn đề một cách thuyết phục.

Đấu tranh phản bác những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch, phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, đòi hỏi mỗi chúng ta phải thực sự chủ động, quyết liệt, kiên trì và bền bỉ. Chỉ có phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, truyền thông, các tổ chức, các lực lượng tuyên truyền trong hệ thống chính trị, chúng ta mới đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; phòng ngừa, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”  trong nội bộ.

 

 GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG

CHO THANH NIÊN VỪA "HỒNG" VỪA "CHUYÊN"

-----------------------

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ai cũng nhận rằng thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà và Đoàn Thanh niên Lao động là cánh tay đắc lực của Đảng”. Vì vậy, trước lúc đi xa, Người căn dặn trong Di chúc: “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ trở thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Theo Hồ Chí Minh, nền giáo dục mới mà chúng ta xây dựng sẽ phải hướng đến mục tiêu đào tạo thanh niên thành những công dân có ích cho xã hội, phải làm cho người học phát triển hoàn toàn những năng lực có sẵn trong bản thân, Người tóm tắt đó là những người: vừa “hồng vừa “chuyên”. Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay, các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”. Mục tiêu giáo dục mà Hồ Chí Minh xác định là: “Để giáo dục thanh niên ta rèn luyện một chí khí kiên quyết quật cường, một tâm lý quả cảm xung phong, tin tưởng vào tương lai của Tổ quốc, vào lực lượng của nhân dân, hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích chung của dân tộc, ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn nước Việt Nam ta”.

Từ việc đánh giá cao vị trí vai trò của thế hệ trẻ, đánh giá cao vai trò của công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh luôn đặt ra yêu cầu phải giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng thanh niên một cách toàn diện. Trong Thư gửi các cán bộ giáo dục, học sinh, sinh viên các trường và các lớp bổ túc văn hoá, ngày 31/8/1960, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất”.

Thứ nhất, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên. Trong nhiều bài nói, bài viết và chỉ dẫn của mình, Người cho rằng, giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên là giúp thanh niên trở thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người chủ tương lai của đất nước. Việc rèn luyện phẩm chất đạo đức phải luôn gắn bó chặt chẽ với năng lực. Tin tưởng vào thanh niên và đặt ra yêu cầu rất cao về phẩm chất, năng lực của thanh niên, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thanh niên bây giờ là một thế hệ vẻ vang, vì vậy cho nên phải tự giác tự nguyện mà tự động cải tạo tư tưởng của mình để xứng đáng với nhiệm vụ của mình. Tức là thanh niên phải có đức, có tài”. Vì vậy, hai mặt đức và tài, “hồng” và “chuyên”, phẩm chất và năng lực phải kết hợp chặt chẽ với nhau mới làm cho thanh niên kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân giao cho. Trong giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, Hồ Chí Minh luôn quan niệm đức và tài là hai nội dung không thể thiếu được, trong đó đức là gốc. Người xem đạo đức như ngọn nguồn của sông, như gốc của cây, như sức mạnh của con người: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.

Thứ hai, giáo dục lý tưởng cộng sản cho thanh niên. Trong giáo dục cho thanh niên, theo Hồ Chí Minh còn quan tâm đến nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng cho họ: “Những người cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”. Bởi theo Người: “Tương lai thuộc về thanh niên. Tương lai là cách mạng luôn luôn tiến lên. Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”. Theo Hồ Chí Minh giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên là giáo dục sự nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, phấn đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Người cho rằng, Đảng và Nhà nước phải quan tâm, chăm lo giáo dục thanh niên toàn diện: “Nhà nước chú trọng đặc biệt việc giáo dục thanh niên về đức dục, trí dục và thể dục”.

* Về phương thức giáo dục thanh niên

Thứ nhất, học đi đôi với hành, lý luận kết hợp với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, học phải đi đôi với hành, học để hành, học mà không hành thì học vô ích, hành mà không học thì hành không trôi chảy. Ngày 21/10/1964 trong Bài nói chuyện tại trường đại học Sư phạm Hà Nội, Người căn dặn: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tiễn, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Ngoài ra, Người còn nhấn mạnh giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ phải gắn với thực tiễn đấu tranh cách mạng của nhân dân: “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội. Trong xã hội cũ có nhiều nọc độc nó làm hại thanh niên. Nhất là văn hóa độc ác của Mỹ, nó dùng mọi cách như sách báo, phim ảnh, v.v. để làm cho thanh niên hư hỏng, truỵ lạc. Vì vậy, sự giáo dục thanh niên phải liên hệ vào dư luận của xã hội, lực lượng của Chính phủ để ngăn ngừa những cái gì có thể ảnh hưởng xấu đến thanh niên, để nâng cao tính cảnh giác của thanh niên”.

Thứ hai, phải phối, kết hợp các hình thức giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong đào tạo, giáo dục thanh niên. Tại lễ khai trường Đại học Nhân dân Việt Nam, ngày 19/1/1955, Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”.

Thứ ba, phải đề cao và phát huy tinh thần tự giáo dục, tự rèn luyện của thanh niên, “xây” phải đi đôi với “chống”. Theo Người, kết hợp việc giáo dục của nhà trường, của xã hội và của gia đình là hết sức quan trọng: “Trường học, gia đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong việc giáo dục thanh niên”. Đồng thời, Người cũng chỉ ra cho thanh niên “Những điều nên chống: Thanh niên cần phải chống tâm lý tự tư tự lợi, chỉ lo lợi ích riêng và sinh hoạt riêng của mình. Chống tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng, xa xỉ. Chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”.

Thứ tư, giáo dục thế hệ trẻ thông qua gương người tốt, việc tốt. Đồng thời với việc yêu cầu tinh thần tự rèn luyện của thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm việc giáo dục, đào tao, bồi dưỡng thế hệ trẻ thông qua những gương người tốt việc tốt: “Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau, đó chính là một cách tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin thiết thực nhất”.

Thứ năm, phải tập hợp thế hệ trẻ trong các tổ chức và thông qua các tổ chức để giáo dục thanh niên. Ý thức đầy đủ về vai trò của các đoàn thể trong tập hợp, giáo dục thế hệ trẻ, sau khi tìm được con đường cứu dân, cứu nước và nhận thức sâu sắc về vai trò của thế hệ trẻ, năm 1925, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã thành lập Hội Việt Nam cách mạng thế hệ trẻ. Sau này, nhân Đại hội đại biểu toàn quốc Hội liên hiệp thế hệ trẻ Việt Nam, (1956) Người một lần nữa khẳng định vai trò của tổ chức trong việc tập hợp và giáo dục thế hệ trẻ: “Nhờ sự giáo dục, bồi dưỡng của Đảng và Đoàn, nhiều chiến sĩ, anh hùng thanh niên đã nảy nở trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong cuộc toàn dân kháng chiến và trong việc xây dựng nước nhà hiện nay”.

Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên và giáo dục thanh niên, Đảng ta khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn phụ thuộc vào lực lượng thanh niên”. Để tiếp tục giáo dục thanh niên vừa “hồng” vừa “chuyên” theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo chúng tôi cần tập trung những nội dung cơ bản sau đây:

Một là, vận dụng tư tưởng giáo dục thanh niên vừa “hồng vừa “chuyên” theo Di chúc hiện nay phải quán triệt và vận dụng sáng tạo, đầy đủ, toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục thanh niên theo tinh thần Chỉ thị số 42- CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”.

Hai là, chủ động phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên; làm cho thế hệ trẻ hôm nay biết yêu cuộc sống, giàu lòng nhân ái, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn của dân tộc, ứng xử văn minh, thanh lịch, nghĩa tình; chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; bày tỏ chính kiến, đấu tranh với cái xấu. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, từng bước bài trừ các tệ nạn xã hội.

Ba là, tăng cường giáo dục thanh niên thông qua những tấm gương điển hình tiên tiến, cá nhân có thành tích vượt trội.

Bốn là, tăng cường định hướng giá trị thông qua các loại hình văn hóa, văn học nghệ thuật gắn với xây dựng chuyên trang, chuyên mục về nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống; nêu gương người tốt, việc tốt, đặc biệt là những tấm gương vượt khó vươn lên trong cuộc sống để định hướng cho thanh niên phát triển loại hình văn hoá hiện đại mang tính khoa học và nhân văn, tham gia bảo tồn và phát triển các lễ hội văn hóa; tổ chức các điểm văn hóa thanh niên theo cụm dân cư; tổ chức các hội thi, hoạt động văn hóa dân gian; tổ chức các cuộc vận động sáng tác tác phẩm văn học, nghệ thuật dành cho thanh niên.

Năm là, nâng cao khả năng phối hợp, lồng ghép các hoạt động của Đoàn, Hội, Đội với các đoàn thể quần chúng nhân dân và các chủ thể xã hội khác nhằm giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên. Nghiên cứu đánh giá công tác phối hợp, lồng ghép các hoạt động của Đoàn, Hội, Đội với các đoàn thể quần chúng và các chủ thể xã hội khác trong giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên. Tăng cường ký kết các chương trình, kế hoạch liên tịch của Đoàn, Hội, Đội với các chủ thể xã hội khác chăm lo giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thanh niên.

QĐND

LTT/d5

 

 

 

11

Thích

Bình luận

Chia sẻ

 

“Nạn đói kém nguy hiểm hơn nạn chiến tranh”

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài viết “Hô hào nhân dân chống nạn đói”, đăng Báo Cứu quốc, số 86, ngày 08 tháng 11 năm 1945.

Hơn 70 năm đã qua đi, nhưng trong ký ức của người dân Việt Nam, nạn đói năm 1945 vẫn còn là một cơn ác mộng, một nỗi đau nhức nhối, khó quên. Do chính sách độc ác của bọn phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến cho hơn 2 triệu người dân Việt Nam phải chết vì đói, bằng một phần mười dân số Việt Nam lúc bấy giờ. Lời của Bác vừa là lời tố cáo đanh thép về tội ác “trời không dung, đất không tha” của bè lũ thực dân đế quốc đã gây ra cho dân tộc Việt Nam, vừa là động lực thôi thúc nhân dân cả nước quyết tâm vượt qua khó khăn, gian khổ ra sức lao động, sản xuất để tạo ra nhiều lương thực nhằm giải quyết nạn đói trước mắt và chi viện cho tiền tuyến, góp phần vào thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Lời của Bác là bài học nhắc nhở mỗi người dân Việt Nam phải luôn nêu cao ý thức tự lực, tự cường, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng và chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; đồng thời, chúng ta phải ra sức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tích cực và chủ động hội nhập sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thấm nhuần lời dạy của Bác, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cùng với thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng, Quân đội ta luôn chủ động, tích cực tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế bằng hình thức, biện pháp phù hợp, đúng định hướng của Đảng. Qua đó, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đứng trước những thuận lợi và cơ hội to lớn, song cũng có không ít khó khăn, thách thức. Để góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược trong thời kỳ mới, đòi hỏi Quân đội cần tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, xây dựng kinh tế, đóng góp nhiều hơn nữa vào phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường tiềm lực, sức mạnh của đất nước, xứng đáng là “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất” trong thời kỳ mới.

Sưu tầm

 ĐỂ NGUYÊN TẮC ĐẢNG HOẠT ĐỘNG TRONG KHUÔN KHỔ HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT HIỆU QUẢ TRONG THỰC TẾ

“Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” là một nguyên tắc hoạt động của Đảng, được Đại hội X của Đảng thông qua và đưa vào Điều lệ Đảng. Nguyên tắc này xác định địa vị pháp lý của Đảng cầm quyền và phương thức hoạt động của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay; thể hiện sinh động cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"; đề phòng và khắc phục tình trạng "bao biện làm thay" hoặc buông lỏng lãnh đạo...

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Ảnh minh họa:

 

Ngay sau khi trở thành Đảng cầm quyền tháng 9-1945, Đảng ta đã coi trọng vấn đề tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Năm 1947, mặc dù công cuộc kháng chiến-kiến quốc vô cùng bận rộn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tâm sức viết tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", trong đó có phần chỉnh đốn những biểu hiện coi thường pháp luật của cán bộ, đảng viên. Tại Đại hội III của Đảng, Đảng đã thẳng thắn chỉ ra tình trạng: "Có những cấp ủy đảng bao biện làm thay, can thiệp vụn vặt vào công việc của cơ quan Nhà nước... Có những cấp ủy và cán bộ, đảng viên coi thường chính quyền Nhà nước, không nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị, nghị quyết của cơ quan chính quyền cấp trên"(1).

Đến Đại hội IV, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Đảng bắt buộc các tổ chức đảng và đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm và các chế độ của cơ quan Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng”(2). Đặc biệt, Đảng khẳng định việc cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, quy định của Nhà nước là vi phạm kỷ luật của Đảng.

Tại Đại hội V, Đảng nhấn mạnh: "Vẫn còn một số tổ chức đảng bao biện công việc của cơ quan Nhà nước. Cần nhanh chóng khắc phục tình trạng đó. Các cấp ủy đảng, các cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thi hành Hiến pháp và pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh tăng cường pháp chế XHCN. Nghiêm cấm các tổ chức đảng tùy tiện đề ra những quy định trái với pháp luật”(3). Đại hội cũng nhấn mạnh, phải tập trung "khắc phục thiên hướng xem nhẹ vai trò của Nhà nước còn khá nặng nề ở nhiều cấp, nhiều ngành"(4).

Đại hội X của Đảng đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó xác định: “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5) là một trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 ghi rõ: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật phản ánh đầy đủ các giá trị văn hóa cao quý của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Nội dung cơ bản của nguyên tắc ấy là: Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng được chế định trong Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hệ thống chính trị và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng phải được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập hiến, lập pháp, qua đó mà thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nội dung và phương thức hoạt động của Đảng phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật; tổ chức sinh hoạt nội bộ của Đảng phải phù hợp với các thiết chế do Hiến pháp và pháp luật quy định. Đảng lãnh đạo bảo đảm các thiết chế của Nhà nước hoạt động theo đúng vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ. Tổ chức đảng và đảng viên gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, mọi vi phạm phải được xử lý kịp thời và nghiêm minh, công khai trước pháp luật như mọi tổ chức và công dân khác.

Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng ta "độc tài, toàn trị", là "ông vua tập thể"; đồng thời cảnh tỉnh, ngăn ngừa những đảng viên có chức, có quyền sa vào "tham nhũng quyền lực". Dù rằng đây là vấn đề thuộc về "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực" mà bất kỳ một đảng cầm quyền nào cũng phải tiến hành các biện pháp phòng, chống để bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.

Thực hiện nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” đã đem lại những thành tựu to lớn trong vận hành cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" ở nước ta. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận, một bộ phận cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng chưa nhận thức rõ về nguyên tắc này. Một số tổ chức đảng vẫn ra những nghị quyết, chỉ thị trái pháp luật; một số cán bộ, đảng viên nhân danh tổ chức đảng tùy tiện gây áp lực làm ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Một số cấp ủy địa phương lạm dụng quyền lãnh đạo, can thiệp sâu vào hoạt động chính quyền, tư pháp. Một bộ phận đảng viên vi phạm pháp luật, nhất là trong lĩnh vực kinh tế với tính chất, mức độ nghiêm trọng. Một số cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, bao che cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp, để vợ con, người thân trục lợi từ chức vụ, quyền hạn. Đặc biệt là những biểu hiện làm giàu bất chính, ăn chơi xa xỉ, mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè bê tha... bị quần chúng oán ghét, làm suy giảm niềm tin của người dân vào Đảng.

Tại Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII vừa qua, Trung ương Đảng đã thống nhất cao về việc tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Cùng với đẩy mạnh thực hiện 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XII đã đề ra; Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm.

Có thể nói, thực hiện 2 nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII bổ sung, nhấn mạnh là vấn đề quan trọng nhất trong thúc đẩy việc thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Cùng với vấn đề quan trọng nhất nói trên, chúng ta cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác như: Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức trách nhiệm cho cấp ủy các cấp và cán bộ, đảng viên về nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; chú trọng thực hiện nghiêm quy định của Trung ương Đảng về những điều đảng viên không được làm. Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò người đứng đầu cấp ủy các cấp, chính quyền, cơ quan, đơn vị, cụ thể hóa chi tiết vai trò lãnh đạo và hoạt động của Đảng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa chấp hành Điều lệ Đảng với chấp hành pháp luật của đảng viên. Phát huy vai trò của người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các cấp trong thực hiện nguyên tắc.

Trong sinh hoạt Đảng và tiếp xúc cử tri, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất nhiều lần nhấn mạnh: Mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải thấm nhuần quan điểm "đúng vai, thuộc bài". Điều đó có nghĩa là mọi cá nhân, tổ chức phải hiểu rõ, nắm chắc và hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp và pháp luật cho phép. Thực tiễn lãnh đạo và cầm quyền của Đảng ta trong hơn 35 năm đổi mới cho thấy, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật không phải là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng mà là một yêu cầu khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, vừa giúp xây dựng Đảng vững mạnh, thật sự xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

 

 PHÒNG, CHỐNG NHỮNG THÔNG TIN XUYÊN TẠC, SAI TRÁI THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.

 

   Trong kỷ nguyên số, thời đại công nghiệp 4.0, môi trường không gian mạng (KGM) đang phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều lợi ích đối với các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển của KGM lại là mảnh đất “mầu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam với âm mưu, thủ đoạn ngày cảng tinh vi, nguy hiểm.

 

  Đáng chú ý, thời gian gần đây lợi dụng những ưu thế nổi trội của mạng xã hội so với các phương tiện truyền thông truyền thống, nhất là tính kết nối, tính mở, với đặc trưng tự do, đa dạng, nặc danh, khó kiểm soát…, thậm chí nhiều khi bị xóa nhòa ranh giới giữa thực và ảo, các TLTĐ đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng gay gắt, quyết liệt. Chúng tăng cường truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với đất nước, phủ nhận truyền thống lịch sử dân tộc và những thành tựu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà đất nước ta, nhân dân ta đã giành được; xuyên tạc, vu khống, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao… hòng gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

 

  Theo các cơ quan chức năng, hằng ngày có hàng nghìn tin, bài chống phá được tung lên KGM, gây nhiễu loạn thông tin, hướng lái công chúng truyền thông hiểu sai lệch, gia tăng sự bất đồng thuận, kích động những tư tưởng bất mãn, phản kháng, chống đối với Đảng, Nhà nước. Những thông tin xấu độc có ảnh hưởng, tác động tiêu cực rất lớn tới xã hội, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của  nhân dân với Đảng, Nhà nước. Sự chống phá này không chỉ ở diện rộng bằng những bài viết dung tục, thù hận, cực đoan một chiều như trước đây, mà nay chúng đã đầu tư xây dựng và sử dụng ngày càng nhiều bài viết đa tầng thông tin, đa quan điểm, với nhiều chiêu trò đánh tráo khái niệm, ngụy tuyên truyền hết sức tinh vi.

 

  Về quy mô hoạt động, chúng có sự cấu kết chặt chẽ giữa các đối tượng phản động lưu vong, số đối tượng chống đối bên ngoài với những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị trong nước, được hậu thuẫn, “hà hơi tiếp sức” bằng nhiều nguồn lực bởi các tổ chức phản động, khủng bố, tổ chức phi chính phủ, chính phủ một số nước có quan điểm đối lập…, hình thành mạng lưới chống đối rộng khắp, với chiêu trò “nội công, ngoại kích”, tạo thành nhiều mũi tấn công trên nhiều lĩnh vực.

 

  Nội dung thông tin xuyên tạc, sai trái, thù địch hết sức đa dạng, phức tạp, trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng, chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội…. Đặc biệt, chúng coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Chúng tập trung chống phá, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hiện nay, nhất là đường lối đổi mới của Đảng ta. Chúng đồng nhất đổi mới chính trị với thay đổi chế độ chính trị; phủ nhận, bôi đen những thành tựu,  cường điệu, thổi phồng, khoét sâu vào những mặt hạn chế, những tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên; xuyên tạc các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo…tạo cái nhìn sai lệch về tình hình đất nước; đồng thời phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; chúng cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, phủ nhận bản chất cách mạng và nhân dân của lực lượng vũ trang; chia rẽ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân…

 

  Cùng với phát tán dầy đặc và với tần suất lớn những thông tin xấu độc trên KGM, thực hiện chiêu trò “mưa dầm thấm lâu” hết sức thâm độc, chúng còn tráo trở cắt ghép, đan cài, “đổi trắng thay đen” trộn lẫn tinh vi thông tin thật – giả để dẫn dụ độc giả lạc vào ma trận thông tin, từ đó bị hướng lái theo luồng thông tin sai lệch, dẫn dắt dư luận xã hội, ngụy tạo sự khách quan để chống phá hết sức tinh vi, xảo quyệt.

 

  Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của các đối tượng trên, đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, chủ động, nhận diện đúng và thường xuyên, quyết liệt đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn, những luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, nâng cao “sức đề kháng” khả năng “miễn nhiễm”, trước những thông tin xấu độc. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ phải không ngừng tự nghiên cứu, học tập, trau rèn nhận thức, bản lĩnh chính trị, trang bị cho mình những kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện để làm tốt vai trò tham mưu đúng, trúng, kịp thời, từ sớm, từ xa trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, trong đó khi nói và viết bài hoặc phát ngôn trên diễn đàn, trên mạng xã hội, phải thể hiện rõ bản lĩnh chính trị không được phép phát ngôn mang tính hoài nghi; không a dua, câu view, câu like, chia sẻ với những thông tin không được kiểm chứng, những luồng thông tin xấu độc… Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, là "hạt nhân" tại cơ sở để đưa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước vào cuộc sống; đưa những thông tin chính thống, tích cực, lan tỏa những tấm gương sáng, những cách làm hay, việc làm tốt trong cộng đồng, tỏa sáng niềm tin của nhân dân, vững tin trên con đường dân tộc./.

 

 LỢI ÍCH NHÓM TRONG VIỆC KIỂM SOÁT S.Ú.N.G Đ.Ạ.N TẠI HOA KỲ

Lợi ích nhóm được cho là một trong những rào cản lớn trong việc thắt chặt các quy định về sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n tại Bông Kỳ. Trong đó, Hiệp hội S.ú.n.g trường Quốc gia Mỹ (NRA) là một trong các nhóm lợi ích có ảnh hưởng nhất trên chính trường Mỹ - không chỉ bởi số tiền mà họ sử dụng để hối lộ các chính khách mà còn bởi sự tham gia của 5 triệu thành viên.

NRA phản đối hầu hết các đề xuất tăng cường quy định kiểm soát s.ú.n.g và đứng sau các nỗ lực ở cấp độ Liên bang và Tiểu bang nhằm giảm bớt các hạn chế trong việc sở hữu s.ú.n.g đ.ạ.n.

Tổng ngân sách hàng năm của NRA là khoảng 250 triệu USD, được phân bổ cho các chương trình giáo dục, s.ú.n.g đạn, chương trình hội viên, học bổng, hối lộ các nhà lập pháp và các nỗ lực liên quan. Tuy nhiên, hơn cả các con số đơn thuần đó, NRA đã nổi danh tại Washington như là một thế lực chính trị có thể “tạo dựng" và cũng có thể "hạ bệ” các chính khách quyền lực nhất.

Đặc biệt, NRA luôn thể hiện sự quyền uy của mình bằng cách lên án "sự cuồng loạn, tin tức giả và hành động gây hoang mang" của những người ủng hộ kiểm soát s.ú.n.g đ.ạ.n đang "tuyệt vọng tìm cách cản trở" đạo luật SHARE-một đạo luật giúp những công dân đang sở hữu vũ khí dễ dàng mua ống giảm thanh hơn.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, chừng nào các nhóm ủng hộ việc sử dụng s.ú.n.g đ.ạ.n còn can thiệp vào bầu cử và ngành lập pháp, thì họ vẫn là “bá chủ” trong "thị trường" s.ú.n.g đạn của nước Mỹ./.

 

Lời Bác dạy

… Nhờ Cách mạng Tháng Mười thành công mà một thế giới mới đã ra đời và ngày càng phồn vinh, càng mạnh mẽ như hoa nở mùa Xuân”.

Đây là sự đánh giá, ghi nhận về thắng lợi vĩ đại cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trích trong bài viết “Vui vẻ kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười” gửi Báo Sự thật (Liên Xô), Báo Nhân dân, đăng số 2061, ngày 07 tháng 11 năm 1959.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và những gì mà cuộc cách mạng này tạo ra có sức lan tỏa, cổ vũ, lôi cuốn, thúc đẩy mãnh liệt đối với phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế, làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa của thực dân, đế quốc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh. Đối với Việt Nam, “đi theo con đường cách mạng vô sản”, con đường của Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga cho tới nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dẫn dắt nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do và quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững thành quả cách mạng, hoà bình, môi trường chính trị – xã hội ổn định để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao toàn diện chất lượng cuộc sống nhân dân.

Ngày nay, thế giới đã có những biến động, thay đổi to lớn, sâu sắc, với không ít những thách thức về chính trị, an ninh, kinh tế – xã hội, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ… Song, thành quả của Cách mạng Tháng Mười vẫn còn nguyên giá trị lịch sử, thời đại, đã và đang thôi thúc giai cấp công nhân và những người tiến bộ tiếp tục cống hiến, hy sinh không mệt mỏi trong cuộc đấu tranh để xây dựng một thế giới hòa bình, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, bình đẳng, bác ái, không còn áp bức, bóc lột, không còn những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến xung đột, chiến tranh – đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Đối với nước ta, bước vào giai đoạn cách mạng mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch, phản động, chống đối tuy thất bại nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự nghiệp cách mạng của đất nước, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng với mọi phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Nhiệm vụ cách mạng thay đổi đặt ra yêu cầu cấp bách cho lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân phải kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Tuyệt đối không bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Sưu tầm