Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

Nhiệm vụ nghiên cứu của chủ nghĩa xã hội khoa học

 


Chủ nghĩa xã hội khoa học luận chứng một cách khoa học tính tất yếu về mặt lịch sử sự thay thế của chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội gắn liền với sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, địa vị, vai trò của quần chúng do giai cấp công nhân lãnh đạo trong cuộc đấu tranh cách mạng thực hiện sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

Chủ nghĩa xã hội khoa học luận giải một cách khoa học về phương hướng và những nguyên tắc của chiến lược, sách lược; về con đường và các hình thức đấu tranh của giai cấp công nhân, về những tiền đề, điều kiện của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; về những quy luật, bước đi, hình thức, phương pháp của việc tổ chức xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa; về mối quan hệ gắn bó với phong trào giải phóng dân tộc, phong trào dân chủ và phong trào xã hội chủ nghĩa trong quá trình cách mạng thế giới.

Chủ nghĩa xã hội khoa học tiến hành phê phán, đấu tranh bác bỏ những trào lưu tư tưởng chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, Chủ nghĩa xã hội khoa học hướng vào nghiên cứu những biến đổi về đời sống hiện thực của thời đại, những tác động của nó đến các vấn đề chính trị - xã hội và cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế, kịp thời đưa ra những kết luận khoa học, làm cơ sở đề ra chiến lược, sách lược của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế; tiếp tục luận chứng việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; tìm tòi những điều kiện, con đường, biện pháp, nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân tiếp tục phát triển và giành được thắng lợi mới trong thế kỷ XXI; giáo dục nâng cao giác ngộ cách mạng, lập trường giai cấp công nhân, xây dựng lý tưởng, niềm tin cộng sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên cơ sở đó, tập hợp, lôi kéo họ vào cuộc đấu tranh cách mạng; đồng thời, trở thành vũ khí sắc bén, đấu tranh có hiệu quả với chủ nghĩa chống cộng, chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các quan điểm sai trái, thù địch, phản động.

Các nhiệm vụ chủ yếu trên đây của Chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cần được nhận thức đầy đủ, thường xuyên coi trọng và vận dụng thích hợp, sáng tạo, không được xem nhẹ trong bất cứ hoàn cảnh nào. Hiện nay, cần quán triệt sâu sắc chỉ dẫn của Ph.Ăngghen về nhiệm vụ của Chủ nghĩa xã hội khoa học: “Nghiên cứu những điều kiện lịch sử và do đó, nghiên cứu chính ngay bản chất của sự biến đổi ấy, và bằng cách ấy làm cho giai cấp hiện nay đang bị áp bức và có sứ mệnh hoàn thành sự nghiệp ấy hiểu rõ được những điều kiện và bản chất sự nghiệp của chính họ - đó là nhiệm vụ của chủ nghĩa xã hội khoa học, sự thể hiện về mặt lý luận của phong trào vô sản”2.



2 C.Mác Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 393.

Chức năng nghiên cứu của Chủ nghĩa xã hội khoa học

 


Chức năng thế giới quan. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin, cung cấp cho giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ một thế giới quan khoa học, phương pháp luận biện chứng và nhân sinh quan cộng sản. Đồng thời, trên cơ sở tri thức khoa học toàn diện về tự nhiên, xã hội, tư duy, Chủ nghĩa xã hội khoa học luận giải sâu sắc, toàn diện về quá trình tất yếu lịch sử dẫn đến hình thành, phát triển hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, thông qua đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, khẳng định sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân phải do chính giai cấp công nhân đảm nhận, thông qua chính đảng mác xít- lênin nít lãnh đạo.

Chức năng giáo dục. Chủ nghĩa xã hội khoa học trang bị cho giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ hệ thống lý luận cách mạng, khoa học, qua đó giáo dục xây dựng niềm tin, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở khoa học; củng cố lập trường, bản lĩnh chính trị, hình thành phẩm chất, nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng cộng sản được tiếp nhận chuyển hoá thành nhận thức, tình cảm, thái độ, hành vi của con người không phải bằng sức mạnh quyền uy hay bằng sự mê hoặc mang tính chất tôn giáo, mà bằng chính sức mạnh của trí tuệ và tình cảm của mỗi con người, trên cơ sở nhận thức sâu sắc quy luật của cuộc sống và sự truyền bá, giáo dục những nguyên lý Chủ nghĩa xã hội khoa học của các đảng cộng sản vào quần chúng nhân dân lao động.

Chức năng dự báo khoa học, định hướng chính trị, hướng dẫn thực tiễn. Chủ nghĩa xã hội khoa học đưa ra những dự báo khoa học về phương hướng, mục tiêu, con đường, biện pháp cách mạng để cải tạo xã hội theo quy luật tiến hoá của lịch sử. Từ đó định hướng chính trị tư tưởng và hướng dẫn hoạt động thực tiễn để đạt được những mục tiêu chính trị đã đề ra, cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người, thúc đẩy lịch sử phát triển. Thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã chứng minh: Từ sự giác ngộ lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học, giai cấp công nhân đã thành lập ra chính đảng của mình, đem khoa học thay cho mộng tưởng, làm chuyển hóa phong trào từ đấu tranh tự phát lên đấu tranh tự giác, từ giai cấp bị trị đã bước lên vũ đài lịch sử, vũ đài chính trị và trở thành giai cấp trung tâm của thời đại, giữ vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh để thực hiện sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng đào tạo nghề, nâng cao trí tuệ từng bước trí thức hóa giai cấp công nhân.

 


Đẩy mạnh đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, nhằm phát triển về số lượng, bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, để nước ta có một đội ngũ công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, có khả năng tiếp thu nhanh và làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân. Cần nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị, ý thức công dân, tinh thần dân tộc, gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, với chế độ xã hội chủ nghĩa, ý chí vươn lên thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, tinh thần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tinh thần phấn đấu vươn lên ngang tầm thời đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế, quyết tâm chiến thắng trong cạnh tranh, tinh thần đấu tranh xây dựng, tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động, lương tâm nghề nghiệp... cho công nhân. Đại hội XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân”[1].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội - 2021, tr. 166.

Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp, ngày càng phát trin cùng với đại công nghiệp. Do đó, để phát triển giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh cần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng phát triển sẽ tạo tiền đề nền tảng vững chắc, môi trường điều kiện thuận lợi cho giai cấp công nhân Việt Nam phát triển. Thẳng thn nhìn nhận công cuộc đối mới toàn diện đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong hơn 35 năm qua, bên cạnh những thành tựu đạt được nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại đã không thực hiện được. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến những hạn chế của giai cấp công nhân Việt Nam thời gian qua. Trong thời gian tới, trên cơ sở tiêu chí nước công nghiệp, Đảng và Nhà nước cần lãnh đạo, chỉ đạo, t chức thực hiện một cách quyết liệt việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại - như mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định. Theo đó, cần tập trung xây dựng nền công nghiệp và thương hiệu công nghiệp quốc gia với tầm nhìn trung, dài hạn, có lộ trình cho từng giai đoạn; phát trin có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế tạo, chế biến, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hóa chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh… 

Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về giai cấp công nhân trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

 


Đổi mới tổ chức, tăng cường đầu tư, đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về giai cấp công nhân, hướng vào giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra: Về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về vấn đề trí thức hóa giai cấp công nhân; về mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, đặc biệt là trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; về sự phân hóa và mối quan hệ trong nội bộ giai cấp công nhân; về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới; về mối quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân các nước trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế; về những âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình” và tuyên truyền phản động của các thế lực thù địch đối với giai cấp công nhân... Qua đó cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn để đề ra chủ trương, giải pháp xây dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện trong thời kỳ mới.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội.

 

Đây là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác xây dựng Đảng; trọng tâm là các kế hoạch, chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết Trung ương về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI về xây dựng Đảng bộ Quân đội.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc nguyên tắc, quy trình, quy chế về công tác cán bộ; có nhiều giải pháp thiết thực, cụ thể trong quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng cán bộ bảo đảm cân đối về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng; coi trọng kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, lấy ngăn chặn, phòng ngừa là chủ yếu, bảo đảm cơ quan, đơn vị tuyệt đối an toàn về chính trị. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.



Đẩy mạnh công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, tạo thế và lực để bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

 


Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, trọng tâm là Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về hội nhập quốc tế” và Nghị quyết của Quân ủy Trung ương v Chiến lược Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đưa công tác đối ngoại quốc phòng đi vào chiều sâu, bền vững. Tăng cường hợp tác với các nước cả trên bình diện song phương lẫn đa phương; ưu tiên hợp tác với các nước láng giềng, củng cố, phát triển mối quan hệ với các nước lớn, coi trọng hợp tác với các nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước bạn bè truyền thống, nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, tăng cường quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp để trong xử trí các tình huống nảy sinh.

Trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phải nắm vững nguyên tắc chiến lược, nhưng hết sức linh hoạt, mềm dẻo về sách lược để tổ chức thực hiện đúng đắn, sáng tạo đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng; gắn kết chặt chẽ nội dung hợp tác về chính trị, quốc phòng với các nội dung hợp tác về kỹ thuật, trang, thiết bị quân sự, thương mại quân sự, công nghiệp quốc phòng và các hoạt động quốc phòng khác thành một thể thống nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu hội nhập quốc tế và đối ngoại đã đề ra. Tích cực, chủ động tham gia các cơ chế hợp tác quốc phòng đa phương, nhất là cơ chế về hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, các cuộc diễn tập đa phương trong lĩnh vực nhân đạo, tìm kiếm, cứu nạn, cứu trợ thảm họa ở từng quy mô khác nhau.

Tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 


Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; cán bộ, chiến sĩ quân đội phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; chủ động phát hiện và đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân phải chú trọng thực hiện tốt công tác chính sách, công tác dân vận, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phong trào thi đua quyết thắng và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới”; ra sức xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh gắn với cơ quan vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện ba khâu đột phá mà Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI đã xác định. Tập trung quán triệt và triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/ QUTW, ngày 02/4/2022, của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo, đảm bảo cho Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, cơ cấu hợp lý, sức chiến đấu cao. Triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, hiệu quả, tạo sự chuyển biến về chất lượng huấn luyện, diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập đối kháng trong các môi trường; nâng cao trình độ làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí, trang bị mới, hiện đại. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu khoa học và công nghệ quân sự, phát triển công nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

 


Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách đó, Quân đội cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, với nhiều giải pháp đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và đặc điểm, thế mạnh của từng vùng, từng địa phương. Cùng với xây dựng lực lượng và các nguồn lực, cần tập trung xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở các địa bàn chiến lược, khu vực biên giới, biển, đảo.

Tiếp tục triển khai thực hiện tốt quy hoạch tổng thể bố trí quốc phòng kết hợp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước đến năm 2030 và những năm tiếp theo; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động nguồn lực địa phương cho xây dựng tiềm lực của khu vực phòng thủ; nâng cao chất lượng huấn luyện, diễn tập khu vực phòng thủ các cấp, bảo đảm cho các địa phương có thể chủ động đối phó, xử lý tốt các tình huống quốc phòng, an ninh trong cả thời bình và thời chiến.

Phát huy tốt vai trò nòng cốt của các doanh nghiệp quân đội, khu kinh tế - quốc phòng trong phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với củng cố quốc phòng - an ninh ở địa bàn chiến lược, khu vực biên giới đất liền, trên biển, hải đảo; huy động các doanh nghiệp công nghiệp ngoài lực lượng vũ trang tham gia sản xuất, sửa chữa trang, thiết bị cho Quân đội, góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng và tiết kiệm ngoại tệ, ngân sách nhà nước.

Thực hiện nghiêm túc Luật Quốc phòng và Luật Dân quân tự vệ, nhất là chỉ đạo xây dựng điểm mô hình chốt chiến đấu của dân quân thường trực biên giới; Đề án xây dựng hải đội dân quân thường trực tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới; kế hoạch mở rộng lực lượng dân quân tự vệ trong các trạng thái sẵn sàng chiến đấu, trạng thái quốc phòng. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng; thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về quốc phòng ở các ban, bộ, ngành, địa phương; tăng cường phối hợp với lực lượng công an giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn và cả nước.

Thường xuyên nghiên cứu, nắm chắc tình hình, nâng cao chất lượng dự báo chiến lược, thực hiện tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

 


Đây là nội dung quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Quân đội nhân dân phải thường xuyên quán triệt, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nhất là những nội dung Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII (Nghị quyết số 44) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo tình hình, làm cơ sở để tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng đúng đắn, khoa học, có đối sách phù hợp, kịp thời xử lý kiên quyết, thắng lợi các tình huống về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ về chiến lược. Các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan chiến lược của Bộ Quốc phòng phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành có liên quan, nhất là Bộ Công an, Bộ Ngoại giao để chia sẻ thông tin, thực hiện tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược. Tiếp tục nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo; nắm vững những nội dung cơ bản của các chiến lược, đề án về quốc phòng, an ninh; tích cực nghiên cứu, dự báo, đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực và thế giới, các tình huống quốc phòng, những vấn đề phức tạp nảy sinh cùng động thái của các nước liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Bảo đảm khách quan, khoa học, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm trong nghiên cứu, dự báo chiến lược; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, vận dụng đan xen, tổng hợp trên tất cả các ngành, lĩnh vực có liên quan; coi trọng việc dự báo, tham mưu về các đối sách chiến lược, kịp thời giải quyết tốt các mối quan hệ quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Trên cơ sở đó, có kế hoạch, phương án ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi bên trong, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống.

Phân biệt rõ mặt tư tưởng và mặt chính trị của tôn giáo; không hành chính, mệnh lệnh trong giải quyết vấn đề tôn giáo.

 


Phân biệt rõ mặt tư tưởng và mặt chính trị của tôn giáo; không hành chính, mệnh lệnh trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Nguyên tắc này trực tiếp chỉ đạo, định hướng phương pháp đấu tranh, đảm bảo phương pháp đấu tranh đúng và hiệu quả với các vấn đề tôn giáo. Thực chất của việc phân biệt mặt chính trị và mặt tư tưởng trong tôn giáo là phân biệt hai mâu thuẫn tồn tại trong bản thân tôn giáo là mâu thuẫn chính trị và mâu thuẫn nhận thức. Mâu thuẫn chính trị là mâu thuẫn đối kháng, phản ánh lợi ích giữa giai cấp, dân tộc, quần chúng nhân dân với những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích phản động, biểu hiện ở việc một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng. Mâu thuẫn nhận thức là mâu thuẫn không đối kháng, phản ánh mâu thuẫn nội bộ giữa người có đạo và người không có đạo, giữa những người theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, nó được thể hiện ở tín ngưỡng, tôn giáo của con người.

Với mâu thuẫn chính trị (mặt chính trị) phải bằng biện pháp tổng hợp: Giáo dục, thuyết phục, hành chính, mệnh lệnh, cưỡng chế, thậm chí cả bạo lực khi việc lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị rõ phản động. Với mâu thuẫn nhận thức (mặt tư tưởng) phải kiên trì, lâu dài, gắn với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào có tín ngưỡng.

 

 

          

           

 

 

Giữ vững nguyên tắc trong giải quyết điểm “nóng” chống địch lợi dụng chống phá cách mạng

 


Trong giải quyết “điểm nóng” về dân tộc, tôn giáo không đẩy họ về phía đối lập với Nhà nước, tôn trọng quyền bình đẳng dân tộc, quyền tự do tôn giáo. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo cho các chủ thể đấu tranh phát huy được sức mạnh của quần chúng, không để các thế lực thù địch lợi dụng lôi kéo, kích động quần chúng, làm tình hình phức tạp thêm, qua đó tạo cớ can thiệp, xây dựng lực lượng và “ngọn cờ” chống phá. Đồng bào dân tộc, tôn giáo là một bộ phận quan trọng không thể thiếu trong khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta. Đồng bào dân tộc, tôn giáo là một bộ phận quần chúng nhân dân, là lực lượng, nguồn lực quan trọng đã và đang đóng góp trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Âm mưu thâm độc và xảo quyệt của các thế lực thù địch khi lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo là kích động ly khai ở các vùng dân tộc thiểu số, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Vì vậy, quá trình đấu tranh, các chủ thể phải thực hiện đúng nguyên tắc này trong cả nội dung và hình thức đấu tranh, đảm bảo êm, gọn, không lây lan, không tạo sự đối lập, đẩy quần chúng về phía kẻ thù, không tạo kẻ hở để địch lợi dụng. Quá trình đấu tranh, các chủ thể phải tôn trọng quyền bình đẳng dân tộc, quyền tự do tôn giáo. Nội dung, hình thức đấu tranh phải phù hợp với phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số, phù hợp với giáo lý, giáo luật của các tôn giáo.

Kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, lấy chủ động phòng ngừa là chính trong chống địch lợi dụng chống phá cách mạng.

 


Kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, lấy chủ động phòng ngừa là chính. Nguyên tắc này chỉ rõ mối quan hệ giữa nhiệm vụ phòngchống”, đồng thời khẳng định phương châm trong đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng. “Phòng” và “chống” là hai vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng chung mục đích, khi đã gắng sức “phòng” mà vẫn xảy ra thì kiên quyết “chống”, dập tắt, không để lan rộng, kéo dài. Nếu “phòng” không tốt, có nhiều yếu kém, địch sẽ lợi dụng sơ hở, xâm nhập móc nối vào nội bộ, xây dựng được lực lượng phản động, sẽ trực tiếp gây khó khăn cho chống. Ngược lại, khi thực hiện “chống” không hiệu quả thì làm cho việc phòng ngừa ở địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Bởi vậy, phòng, chống tốt sẽ làm cho ta chủ động tiến công địch, thực hiện từ trong đánh ra, ngoài đánh vào, đập tan hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng. Trong kết hợp giữa “phòng” và “chống”, phải lấy chủ động phòng ngừa là chính. Theo đó, phải chủ động ngăn ngừa, lấy giáo dục thuyết phục, vận động là chính, lấy giữ vững sự ổn định chính trị, lợi ích quốc gia dân tộc làm điểm tương đồng để đoàn kết dân tộc, tập hợp các lực lượng cho cuộc đấu tranh này.

Nâng cao nhận thức chống địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng

 


Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, thống nhất nhận thức, phân công, phân cấp trách nhiệm rõ ràng. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng giúp các chủ thể phát huy được ưu thế, hiệu quả trong quá trình tham gia đấu tranh. Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ mới giúp quá trình tham gia đấu tranh của các chủ thể không bị chồng lấn, chồng chéo và đảm bảo được nguyên tắc trong quá trình tổ chức thực hiện; đảm bảo sự phối hợp thống nhất, chặt chẽ giữa cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể địa phương và với các tổ chức, lực lượng đứng chân trên địa bàn. Qua đó, phát huy cao nhất vai trò của các chủ thể cũng như sức mạnh tổng hợp trong đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng. Để thực hiện nguyên tắc này, các chủ thể tham gia đấu tranh phải xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và phát huy thế mạnh, truyền thống của mình. Đồng thời, tăng cường công tác phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ; hoàn thiện các quy định, quy chế phối hợp giữa các tổ chức, lực lượng trong tham gia đấu tranh.

Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước trong chống địch chống phá cách mạng

 


Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước. Nguyên tắc này quy định, chi phối trực tiếp đến toàn bộ quá trình và hiệu quả của cuộc đấu tranh. Sự quy định của nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề trực tiếp bảo đảm giữ vững định hướng, mục tiêu xuyên suốt trong đấu tranh. Đây là nguyên tắc chỉ đạo, là cơ sở định hướng, tạo hành lang pháp lý, đảm bảo tính đảng, tính khoa học, không mắc mưu kẻ thù cho các chủ thể tham gia đấu tranh. Nguyên tắc trên, đòi hỏi, các chủ thể tham gia đấu tranh phải nắm vững và quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo và đấu tranh với thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng. Trên cơ sở quán triệt quan điểm, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng, các tổ chức, lực lượng sẽ cụ thể hóa bằng các chỉ thị, hướng dẫn, kế hoạch trong đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đảm bảo phù hợp với thực tiễn, tình hình của đơn vị và địa phương mình.

Âm mưu các thế lực thù địch lợi dụng dân tộc, tôn giáo chống cách mạng nước ta rất đa dạng, phong phú và nham hiểm

 


Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta hiện nay là đa dạng, với tính chất rất nguy hiểm, vừa công khai, hợp pháp, vừa bí mật, bất hợp pháp cả trong nước và ngoài nước, trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội với nhiều tổ chức, nhiều lực lượng… để đi đến mục tiêu cao hơn là loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, chia Việt Nam thành nhiều “quốc gia” trong sự khống chế của chúng. Những thủ đoạn chống phá đó của các thế lực thù địch đã làm cho cuộc sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, vùng sâu, vùng xa ở nước ta đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, các thủ đoạn chống phá đó của các thế lực thù địch có đạt được mục tiêu hay không còn phụ thuộc vào tinh thần cảnh giác, khả năng ngăn chặn, sự chủ động tiến công của ta.

           Đối với đồng bào dân tộc, tôn giáo, tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch thể hiện ở chỗ: nếu chưa có thể làm cho đồng bào dân tộc, tôn giáo trở thành lực lượng đối lập với đất nước, chế độ và chính quyền; thì cũng có thể tạo ra sự hòai nghi, sự thiếu tin tưởng nhất định của đồng bào đối với đường lối, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, đối với việc thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo của chính quyền các cấp, đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Những luận điệu xuyên tạc dễ làm cho đồng bào dân tộc, tôn giáo hiểu sai chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, nhầm lẫn giữa sự lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm trái pháp luật với tự do, bình đẳng dân tộc, tôn giáo. Từ đó, một bộ phận đồng bào dân tộc, tôn giáo dễ bị các phần tử xấu kích động, lôi kéo, có thể đi đến những hành động chống đối chính quyền, chống đối cách mạng. Trực tiếp “đẩy” một bộ phận đồng bào dân tộc, tôn giáo về phía đối lập với chính quyền và cách mạng. Đồng bào dân tộc, tôn giáo sẽ không thể yên ổn làm ăn, không thể yên tâm lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, chăm lo hạnh phúc cho bản thân và gia đình mình; mà trái lại, đồng bào còn luôn ở trạng thái không yên ổn, bỏ bê công việc làm ăn, phải “đối phó” với chính quyền, lén lút làm việc cho một số phần tử phản động, cực đoan.

Sự ra đi để “tìm Tổ quốc riêng”, việc bỏ bê ruộng nương, bỏ cả việc thờ cúng tổ tiên… để theo đạo Tin lành Vàng Chứ trong một bộ phận đồng bào dân tộc Mông đã làm cho đồng bào rơi vào tình cảnh sống lang thang nay đây mai đó, cuộc sống không ổn định, nhiều giá trị văn hóa của dân tộc Mông bị mai một…, đã cho thấy tính chất rất nguy hại của âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo đối với chính đồng bào dân tộc, tôn giáo mà các thế lực thù địch đã và đang thực hiện ở Việt Nam.

Đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Trong lịch sử dân tộc ta, các dân tộc, các tôn giáo ở Việt Nam sống hòa thuận, luôn tôn trọng lẫn nhau, không đối đầu nhau, luôn đoàn kết chung sức, chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước. Những người của các dân tộc và các tôn giáo khác nhau có thể sống chung trong một làng, trong một dòng họ, thậm chí trong một gia đình, đã tạo nên sự gần gũi tình cảm quê hương, tình cảm gắn bó dòng tộc, thân thuộc. Các dòng tôn giáo trên thế giới chảy vào Việt Nam đã hòa quyện với văn hóa Việt Nam, trở thành một bộ phận góp phần tạo nên nền văn hóa dân tộc thống nhất nhưng đa dạng và phong phú; đồng bào các dân tộc, tôn giáo sống đoàn kết, hòa thuận và yên ổn làm ăn.

Trong những năm qua, các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, kích động đồng bào chống đối chính quyền, đòi ly khai đã tạo ra nhiều “điểm nóng” về chính trị - xã hội, đặc biệt là khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Chúng gây mất ổn định chính trị, để tạo cớ đưa các phái đoàn quốc tế vào xem xét, “giúp” ta ổn định tình hình xã hội, nhưng thực chất là tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ, thậm chí còn để dễ bề can thiệp quân sự vào nước ta.

Điều này tuy chưa phá vỡ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững chắc của chúng ta; nhưng cũng xuất hiện những biểu hiện thiếu tin tưởng của đồng bào dân tộc, tôn giáo với bộ phận còn lại của dân tộc ở mức độ nhất định, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc khiếu kiện, những đòi hỏi, những yêu cầu vì lý do “dân tộc, tôn giáo” ở khía cạnh này hay khía cạnh khác đã tạo nên những “điểm nóng”, gây mất ổn định, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Những sự kiện ở 48 Nhà Chung, Thái Hà (Hà Nội), Mường Nhé (Điện Biên) Cư Kuin (Đắk Lắk) trong thời gian gần đây đã cho thấy rõ tính chất nguy hiểm và tác hại không nhỏ của vấn đề đối với khối đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị, an ninh, trật tự an toàn xã hội, chúng ta đã phải mất khá nhiều công sức để xứ lý tình hình.

Đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trên thực tế, sự chống phá của chúng đã gây nên những ảnh hưởng tiêu cực đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, đặc biệt là ở địa phương, cơ sở. Việc một bộ phận đồng bào dân tộc, tôn giáo bị các thế lực thù địch lôi kéo, đòi hỏi, khiếu kiện, thậm chí có hành vi chống đối chính quyền đã gây rất nhiều khó khăn, phức tạp trong quá trình xử lý, ổn định tình hình để chăm lo phát triển kinh tế - xã hội của các cấp ủy và chính quyền ở các địa phương. Chính quyền địa phương ở một số nơi khu vực Tây Bắc, như Hà Giang, nơi diễn ra một bộ phận người Mông bị kẻ xấu lôi kéo, kích động theo Tin Lành Vàng Chứ từ nhiều năm nay, đã gặp nhiều khó khăn trong quản lý xã hội, quản lý dân cư, quản lý hộ khẩu, thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn.

Ở một số nơi, thậm chí có trường hợp một số cán bộ chính quyền cơ sở bị “vô hiệu hóa”. Các thế lực thù địch không chỉ nhằm làm mất ổn định chính trị - xã hội, mà chúng còn nhằm làm tha hóa, biến chất, mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ ở cơ sở, vô hiệu hóa đội ngũ cán bộ, “thúc đẩy” đội ngũ cán bộ làm việc “không tự giác” cho chúng.

Tình hình an ninh - chính trị ở các huyện, tỉnh ở Tây Nguyên còn khá phức tạp bởi các thế lực thù địch thường xuyên lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, đời sống khó khăn, trình độ kinh tế và dân trí thấp của đồng bào các dân tộc thiểu số, các tín đồ tôn giáo để chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã tốn khá nhiều nhân lực, vật lực để dẹp nạn Fulro, tạo lập, giữ vững môi trường an ninh và ổn định cho Tây Nguyên, nhưng sự ổn định vẫn chưa thực sự bền vững.

Một thực tế cho thấy, trên các địa bàn vùng dân tộc thiểu số có sự phức tạp của vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo bởi sự chống phá của các thế lực thù địch, đời sống của đồng bào có tín ngưỡng, theo tôn giáo còn rất khó khăn, sự ổn định trên địa bàn không vững chắc. Đảng và Nhà nước ta đã phải thành lập các ban chỉ đạo để tăng cường quản lý, tập trung phát triển các địa bàn này, trong đó có việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam

 


Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng[1].

Thực chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện nội dung sứ mệnh lịch sử vẻ vang ấy, trong suốt quá trình cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng cộng sản Việt Nam đã thiết lập và lãnh đạo khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức để tập hợp rộng rãi các giai tầng xã hội khác. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; hoàn thành cách mạng dân chủ dân tộc nhân dân, thống nhất đất nước đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình ấy, giai cấp công nhân Việt Nam luôn là lực lượng đi đầu thực hiện các mục tiêu của Đảng và Nhà nước, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thành quả cách mạng to lớn ấy đã và đang khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng duy nhất không thể thay thế của giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng Việt Nam hiện nay. Trong mỗi bước phát triển của cách mạng, sự trưởng thành của Đảng về năng lực và uy tín lãnh đạo, giai cấp công nhân luôn có sự định hướng xây dựng đúng đắn.

Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cho sự nghiệp phát triển đất nước. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam đang cùng toàn dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đồng thời, chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường ổn định để phát triển, tham gia tích cực cùng các lực lượng tiến bộ trên thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển và tiến bộ xã hội.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008).

SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

 


Tại Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta chỉ rõ:Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp[1].

Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai (1924 - 1929). Là một bộ phận của giai cấp công nhân thế giới, nên giai cấp công nhân Việt Nam mang đầy đủ đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân nói chung và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân quốc tế, ngoài đặc điểm chung, giai cấp công nhân Việt Nam có những nét đặc điểm riêng của mình.

Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành và phát triển trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống kiên cường, bất khuất trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Dưới ách thống trị của bè lũ thực dân xâm lược và phong kiến tay sai làm cho nỗi nhục mất nước và nỗi khổ vì bị bóc lột, áp bức của giai cấp công nhân tăng lên gấp bội, khiến cho động cơ, nghị lực, lòng nhiệt tình và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân càng được nâng cao.

Ra đời và trưởng thành ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, từ một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, đa số là nông dân lại được hình thành và phát triển sau Cách mạng tháng Mười, khi chủ nghĩa cơ hội trong Quốc tế II đã bị phá sản, Quốc tế cộng sản đã ra đời, nên giai cấp công nhân Việt Nam sớm có chính đảng của mình, không bị ảnh hưởng tư tưởng cải lương trong Quốc tế II, luôn giữ vững được truyền thống, bản chất cách mạng, thống nhất về tư tưởng và tổ chức trong phạm vi cả nước.

Tuy ra đời muộn hơn so với giai cấp công nhân ở các nước châu Âu, số lượng ban đầu còn nhỏ bé, chỉ gắn với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, mà không gắn với sự phát triển của đại công nghiêp nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm tỏ ra là một lực lượng cách mạng kiên cường, tiên phong trong cuộc đấu tranh cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Giai cấp công nhân Việt Nam, do nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ nông dân và các tầng lớp xã hội khác, nên có mối quan hệ tự nhiên mật thiết với giai cấp nông dân và những tầng lớp lao động khác.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã tạo môi trường thuận lợi để giai cấp công nhân nước ta phát triển nhanh về số lượng, chất lượng được nâng lên, song chưa đồng đều, cơ cấu đang có sự biến đổi nhanh chóng.

Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, của kinh tế tri thức, giai cấp công nhân nước ta có trình độ học vấn ngày càng tăng, đã hình thành bộ phận công nhân trí thức. Tuy nhiên, số công nhân có trình độ học vấn cao, kỹ năng nghề nghiệp giỏi vẫn còn ở mức trung bình và thấp. Công nhân, lao động ở nước ta hiện nay chủ yếu vẫn là lao động giản đơn chưa qua đào tạo nghề. Đặc biệt, còn thiếu nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân xuất thân từ nông dân chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm thích nghi với cơ chế thị trường.

Cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay có sự biến đổi nhanh chóng. Cùng với tiến trình đấy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, ở nước ta đã xuất hiện một số ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân như ngành dầu khí, điện tử, tin học, bưu chính viễn thông, một số ngành dịch vụ... Sự phát triển nhanh của các ngành này dẫn đến sự tăng nhanh về số lượng, chất lượng đội ngũ công nhân.

Hiện nay, một bộ phận công nhân có trình độ học vấn, chuyên môn cao đã có thu nhập khá. So với trước đổi mới, đời sống công nhân có cải thiện đáng kể, nhất là công nhân trong các ngành mũi nhọn song, nhìn chung đời sống đa số công nhân vẫn còn nhiều khó khăn.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28/01/2008).