Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Quảng Châu - “Căn cứ địa quốc tế” của cách mạng Việt Nam

 

Cuối thế kỷ XIX, cách mạng Việt Nam khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp tổ chức, lãnh đạo cách mạng. Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành lên con tàu Amiral Latouche Treville tại bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, mang theo khát vọng tìm con đường mới để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, giúp đồng bào thoát khỏi cảnh áp bức, nô lệ. Từ năm 1911 đến năm 1920, Người đã đến các nước Pháp, Mỹ, Anh và rất nhiều thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở các châu lục, hòa mình vào cuộc sống của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa để khảo sát con đường cứu nước, học tập lý luận và tham gia các cuộc đấu tranh chính trị. Trong thời kỳ này, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi đã đánh dấu bước ngoặt mới, đưa sự nghiệp đấu tranh của các dân tộc bị áp bức đi theo con đường cách mạng vô sản; đến năm 1920, sau khi Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lê-nin được công bố, đã đánh dấu bước ngoặt căn bản trong phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa, như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định, Luận cương “tựa như người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”(1), “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Cũng từ đây, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm thấy ánh sáng chân lý thời đại, tìm được con đường cách mạng Việt Nam - con đường giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách hoàn toàn và triệt để nhất.

Sau khi trở thành một trong những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, năm 1923, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đến Thủ đô Moskva, Liên Xô. Những năm tháng hoạt động trên đất nước của Lê-nin là khoảng thời gian lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc hiểu sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lê-nin để đi đến nhận thức rằng, chỉ có thành lập một chính đảng mác-xít ở Việt Nam, tiến hành cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản mới có thể giải phóng dân tộc mình khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Thực hiện mong muốn của mình và được sự đồng ý của Quốc tế Cộng sản, ngày 11-11-1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc rời Thủ đô Moskva đến Quảng Châu, Trung Quốc với tên gọi Lý Thụy trên danh nghĩa công khai là cán bộ phiên dịch trong Phái bộ của cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn.

Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lựa chọn đến Quảng Châu, Trung Quốc là một bước đi quan trọng và nằm trong kế hoạch trở về Tổ quốc của Người, đồng thời cũng xuất phát từ những điều kiện khách quan của tình hình lúc bấy giờ.

Trong bức thư để lại cho những người bạn cùng hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa trước khi Người lên tàu rời Pari (Pháp) qua Đức để tới nước Nga Xô-viết vào tối ngày 13-6-1923, Người nói rõ mục đích với những nội dung kế hoạch của mình: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(3). Trong thời gian ở Moskva, Người đã tiến hành nhiều hoạt động để chuẩn bị cho hành trình đến Trung Quốc. Người đã báo cáo với Quốc tế Cộng sản về mục đích, nội dung của chuyến đi Trung Quốc, đồng thời đề nghị gặp và trao đổi với những nhà lãnh đạo trong Quốc tế Cộng sản nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản đối với các hoạt động cách mạng ở thuộc địa. Bên cạnh đó, để chuẩn bị cho chuyến đi đến Trung Quốc và những hoạt động sau đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành tìm hiểu để nắm chắc tình hình cách mạng ở đây, nhất là trước tình hình có sự hợp tác đang tiến triển tốt giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng ở Trung Quốc. Vì thế, trong thời gian ở Moskva, Người đã có những liên hệ với cách mạng Trung Quốc nhằm nắm vững tình hình ở Trung Quốc, tranh thủ mọi liên hệ và giúp đỡ khi Người tới Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của mình(4).

Những năm 1923 - 1927, Quảng Châu - thủ phủ của tỉnh Quảng Ðông (Trung Quốc) là một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa lớn ở miền Nam Trung Quốc. Nơi đây có nhiều khu công nghiệp lớn, bến cảng thông thương quốc tế, đồng thời cũng tập trung số lượng lớn công nhân với bề dày đấu tranh mạnh mẽ chống đế quốc, phong kiến và quân phiệt. Phong trào cách mạng Trung Quốc với Quảng Châu làm trung tâm đã thu được nhiều thắng lợi. Thời kỳ này, Quảng Châu được mệnh danh là “Moskva của phương Đông”, thu hút nhiều nhà cách mạng đến từ những quốc gia bị áp bức.  

Tháng 1-1924, tại Quảng Châu, Đại hội lần thứ I của Quốc dân Đảng được tổ chức và tuyên bố thực hiện chủ nghĩa Tam dân mới của Tôn Trung Sơn với ba chính sách lớn: liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ công nông; tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô, cải tổ Quốc dân Đảng với sự giúp đỡ của đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới. Nội dung mới của chủ nghĩa Tam dân về cơ bản phù hợp với nhiệm vụ của thời kỳ cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới ở các nước thuộc địa và phụ thuộc nên được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chú ý, vì thấy nó “thích hợp với điều kiện của nước ta hiện nay”(5).

Những người cộng sản Trung Quốc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quen biết, như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi,... lúc này cũng đã có mặt tại Quảng Châu, tạo ra cục diện quốc - cộng hợp tác, cùng thúc đẩy cách mạng Trung Quốc. Chính vì vậy, Người tin rằng, ở Quảng Châu lúc này nếu kết hợp tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cách mạng Trung Quốc với thực hiện mục tiêu vận động cách mạng Việt Nam, nhất định sẽ có hiệu quả(6).

Mặt khác, Quảng Châu cũng là nơi trú chân của những nhà hoạt động yêu nước và cách mạng Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, hoặc xuất dương tìm đường cứu nước, hoặc thất bại phải lánh nạn ra nước ngoài. Ðầu những năm 20 của thế kỷ XX, một lớp thanh niên mới đầy nhiệt huyết đã cùng nhau tìm đến Quảng Châu. Lúc này Việt Nam Quang phục hội đang tan rã. Họ cảm thấy thất vọng trước khuynh hướng cách mạng bảo thủ, cũ kỹ của lớp tiền bối và muốn tìm một con đường đi mới. Vì vậy, năm 1922, họ đã lập ra nhóm Tâm Tâm xã, gồm những thanh niên đầy nhiệt huyết và chí khí, sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì nghĩa lớn để thức tỉnh đồng bào, song vì chưa có người tổ chức và hướng dẫn nên họ chưa biết làm gì ngoài hành động mưu sát cá nhân mà tiêu biểu là vụ mưu sát Toàn quyền Ðông Dương Méc-lanh ngày 19-6-1924 tại Quảng Châu. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang ở Liên Xô dự Ðại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản. Người đã thấy “cánh én báo hiệu mùa xuân”, vì vậy, càng nóng lòng trở về Tổ quốc để dẫn dắt và chỉ đạo cách mạng Việt Nam (sau này, những thành viên ưu tú của Tâm Tâm xã đã trở thành hạt nhân của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu năm 1925).

Bên cạnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng, tìm đến Quảng Châu, một địa điểm gần với Việt Nam, sẽ có điều kiện tương đối thuận lợi cho việc triển khai những công việc cần thiết để sớm thực hiện mục tiêu về nước phát triển phong trào cách mạng(7).

 

Quân đội phát huy sức mạnh tổng hợp, tăng cường xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự trong tình hình mới

 

Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, Quân đội nhân dân đã phát huy vai trò nòng cốt, sức mạnh tổng hợp, cùng toàn dân xây dựng và củng cố tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự vững mạnh, góp phần to lớn vào thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều thành tựu nổi bật. Quân đội đã chủ động nghiên cứu, tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành các nghị quyết, chính sách, pháp luật về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc; tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc(7). Coi trọng và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và toàn dân về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Trong thời gian tới, cùng với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, việc các nước lớn tiếp tục vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tranh thủ tập hợp lực lượng để can dự, chi phối nội bộ nước khác đang đặt ra thách thức nghiêm trọng. Ở trong nước, ngoài “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”(8), chúng ta còn phải đối mặt với mâu thuẫn phát sinh trong quá trình phát triển; các mối đe dọa về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống luôn thường trực và hiện hữu; các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá quyết liệt trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội,...

Tình hình đó đặt ra yêu cầu Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và các lĩnh vực, tập trung xây dựng tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của quốc gia, của nền quốc phòng toàn dân; trọng tâm là tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự với nội dung chủ yếu sau:

Một là, chủ động, tích cực phát huy vai trò tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự.

Đường lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật nhằm thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước; điều chỉnh quan hệ xã hội trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương tham mưu, đề xuất với Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, làm cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, hoàn thiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo cơ sở chính trị - pháp lý để cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp lãnh đạo, tổ chức phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Các cơ quan, đơn vị Quân đội cần chủ động phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương nắm chắc tình hình thực tiễn, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết, đánh giá đúng thành tựu, kết quả đạt được, hạn chế, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất hoàn thiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh cho các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Nâng cao ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành là vấn đề quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự.

Tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền các địa phương, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai chặt chẽ, toàn diện công tác giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng được giáo dục, bồi dưỡng về kiến thức quốc phòng và an ninh. Việc tổ chức giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cần phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng và không ngừng đổi mới, đi vào chiều sâu, với nội dung, hình thức, phương pháp sáng tạo, hiệu quả. Chú trọng giáo dục, thống nhất, nâng cao nhận thức về “đối tác” và “đối tượng”, nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Coi trọng giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh kết hợp với giáo dục chính trị, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân cả về bề rộng và chiều sâu, với nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với nhận thức, đặc điểm địa bàn, dân cư và từng đối tượng.

Tiếp tục đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Quân đội với các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở, lực lượng có liên quan cùng các cơ quan báo chí và truyền thông trong tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh cho các tầng lớp nhân dân. Cơ quan, đơn vị quân đội cần chú trọng tổ chức các tổ, đội công tác và thông qua hoạt động kết nghĩa, giao lưu văn nghệ, thể thao, các ngày lễ, tết, sự kiện quan trọng,... để tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hiểu rõ mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, nội dung, biện pháp và giải pháp xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự; phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị và địa phương. 

Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, thuyết phục với kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, qua đó, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá của các thế lực thù địch. Bồi đắp lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, niềm tự hào, tự tôn dân tộc và truyền thống cách mạng, xây dựng ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; nâng cao kiến thức về quốc phòng, an ninh cùng kỹ năng quân sự cần thiết để mỗi công dân sẵn sàng tham gia, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Ba là, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; quy tụ, tập hợp và phát huy vai trò của nhân dân, để nhân dân tự nguyện, tự giác tham gia xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự, bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với sự phát triển của đất nước, hiện nay đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, một số địa bàn chiến lược. Vì vậy, cơ quan, đơn vị quân đội tiếp tục quán triệt, nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình và nhiệm vụ của địa phương; phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền các cấp chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đẩy mạnh các mô hình, chương trình ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ để nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất; đào tạo nghề cho quân nhân xuất ngũ và các đối tượng khác. Tích cực tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, các cuộc vận động, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”... Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với Quân đội và hậu phương Quân đội, các phong trào, hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; giải quyết chế độ, chính sách tồn đọng đối với đối tượng có cống hiến trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế. Tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xóa bỏ tập tục lạc hậu, thực hiện “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”,...

Các đơn vị quân đội cần làm tốt nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình, chủ động, không ngại gian khổ, hy sinh, cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, hạn chế tối đa thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng, góp phần tổ chức lại dân cư, ổn định sinh kế, cuộc sống của đồng bào. Tổ chức h­­­ướng dẫn người dân ứng dụng khoa học vào sản xuất theo kỹ thuật mới, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương, xây dựng lực l­ượng tại chỗ để bảo vệ địa bàn, bảo vệ biên giới, đáp ứng nhiệm vụ tác chiến khi chiến tranh xảy ra.

Bốn là, tích cực tham gia xây dựng cơ sở, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc.

Quán triệt chủ trương của Đảng, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng cơ sở vững mạnh(9), cơ quan, đơn vị quân đội thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Trên từng địa bàn đóng quân, cùng với thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, tổ chức hiệu quả hoạt động kết nghĩa, ký kết chương trình phối hợp; chủ động cử tổ, đội công tác phối hợp với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, góp phần cụ thể hóa và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm, để cải thiện đời sống của bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh. Có như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, Chính phủ là Chính phủ của nhân dân. Như thế, nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết và kháng chiến”(10).

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên Bộ đội Biên phòng tăng cường cho các xã biên giới, địa bàn đặc biệt khó khăn, tham gia sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản biên giới theo Kết luận số 68-KL/TW, ngày 5-2-2020, của Ban Bí thư. Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; tạo nguồn, phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn, bổ sung lực lượng đảng viên, cán bộ cho các địa phương. Thông qua hoạt động giao lưu, kết nghĩa, tập huấn, giúp cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, phát huy dân chủ ở cơ sở,...

Cơ quan, đơn vị tăng cường chỉ đạo làm tốt công tác nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình trên từng địa bàn, phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an và các lực lượng liên quan đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình”, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời, hiệu quả tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; đấu tranh ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá. Tăng cường tuyên truyền, vận động và sát cánh, đồng hành cùng nhân dân vươn khơi, bám ngư trường, bám biển, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, an ninh biên giới quốc gia...

Năm là, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang; tập trung xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị; phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng.

 Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trước hết là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Toàn quân tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Triển khai đồng bộ giải pháp xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17-1-2022, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 2-4-2022, của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện, diễn tập, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và về những điều đảng viên không được làm. Triển khai thực hiện hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28-12-2021, của Quân ủy Trung ương, “Về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”. Chú trọng thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách về thu hút, trọng dụng nhân tài trong Quân đội; chủ động đề xuất và triển khai thực hiện chính sách đặc thù, đột phá. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ theo tinh thần “7 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung); xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết ở đơn vị; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương, các ngành tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, dân quân, tự vệ vững mạnh, rộng khắp; coi trọng lực lượng dân quân, tự vệ biển và dân quân, tự vệ ở các địa bàn trọng điểm.

Quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 21-6-2022, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; đẩy mạnh xây dựng nền công nghiệp quốc phòng tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trong đó phát huy nội lực là yếu tố quyết định; gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Phấn đấu để công nghiệp quốc phòng đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng chiến thuật - kỹ thuật cao theo yêu cầu trang bị cho lực lượng vũ trang, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại. Làm chủ được thiết kế, công nghệ nền, đặc biệt là công nghệ lõi, tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm; phát triển lĩnh vực mũi nhọn trên cơ sở công nghệ mới, hiện đại, tạo sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước chuyển giao công nghệ phù hợp cho công nghiệp dân sinh. Qua đó, góp phần xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự và hiện thực hóa các tiềm lực thành sức mạnh lực lượng vũ trang của toàn dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân.

Với vai trò nòng cốt và chức năng, nhiệm vụ được giao, Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và toàn dân trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng; nâng cao tính bền vững và khả năng huy động đáp ứng yêu cầu trong tình huống quốc phòng. Theo đó, Quân đội tiếp tục phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-02-2019, của Chính phủ, về nâng cao chất lượng xây dựng và hoạt động khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, gắn kết chặt chẽ với thế phòng thủ của quân khu và cả nước. Tập trung xây dựng thế trận, công trình của khu vực phòng thủ; trong đó, xây dựng thế trận quân sự là hạt nhân, quyết định sự vững chắc của khu vực phòng thủ, được liên kết chặt chẽ với các thế trận khác tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc, để chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội; xử lý hiệu quả tình huống về quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới; sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ địa phương, góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các ngành, địa phương thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong các lĩnh vực, các vùng kinh tế, các ngành, trong từng dự án, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lư­ợc, các ngành quan trọng; bảo đảm mỗi bước tăng trưởng kinh tế là mỗi bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, tạo nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự là nội dung quan trọng để nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề lớn, hệ trọng, chiến lược, thường xuyên; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị; trong đó, Quân đội nhân dân là nòng cốt. Phát huy truyền thống 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện chủ trương, giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.

 

Tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Mọi người đều có trách nhiệm làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phòng vững mạnh”(1). Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn coi xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói chung, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự nói riêng là chủ trương chiến lược, quan trọng, xuyên suốt; không chỉ góp phần nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, mà còn tạo sự ổn định, góp phần phát triển kinh tế, xã hội trên từng địa bàn và cả nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh...; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(2); “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ”(3).

Tiềm lực chính trị, tinh thần “là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và trong hệ thống chính trị; là khả năng tiềm tàng về chính trị có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”(4). Tiềm lực đó không phải là vấn đề trừu tượng, mà thể hiện trước hết ở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng đúng đắn, hợp lòng dân. Đồng thời, được biểu hiện ở nhận thức, niềm tin, tâm lý, tình cảm, trách nhiệm, ý chí của nhân dân và lực lượng vũ trang đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, kiên quyết đấu tranh để giải phóng dân tộc, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; sự đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,...

Tiềm lực chính trị, tinh thần là “linh hồn”, “kết dính” mọi lực lượng, hội tụ mọi nguồn lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù và để xây dựng đất nước. Thực tiễn đã chứng minh, nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; tình cảm cách mạng, niềm tin và ý chí quyết tâm, quân và dân ta đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sức mạnh của các phương tiện vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, chiến thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta nhiều lần. Đúng như V.I. Lê-nin từng khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(5). Vì vậy, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần sẽ quyết định khả năng huy động các tiềm lực khác của nền quốc phòng.

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần phải bảo đảm toàn diện cả về nhận thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm, niềm tin, thái độ, trách nhiệm chính trị đối với Tổ quốc và nhân dân. Trước hết, đó là xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; coi trọng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện chính sách tự do tôn giáo và bình đẳng giữa các dân tộc; phát huy dân chủ rộng rãi theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, tạo sự phát triển bền vững, xây dựng nước ta ngày càng phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Tiềm lực quân sự “là khả năng về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ và khả năng huy động nhân lực, vật lực phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng”(6). Tiềm lực quân sự bao gồm các yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự, thế trận quân sự..., trong đó con người là nhân tố quyết định. Tiềm lực quân sự có hai dạng: hiện có và tiềm tàng. Dạng hiện có là số lượng, chất lượng của lực lượng vũ trang và lực lượng, phương tiện dự bị thường xuyên, được duy trì, không ngừng phát triển, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Dạng tiềm tàng là nguồn dự trữ về sức người, sức của trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học, kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ khác..., sẵn sàng được huy động để phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và chiến tranh khi có tình huống xảy ra.

Tiềm lực quân sự là bộ phận nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên các nền tảng chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ,... của đất nước, theo chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nền tảng này phát triển vững mạnh sẽ là cơ sở quan trọng để tạo nên sức mạnh quân sự bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, không phải cứ có các nền tảng này là có tiềm lực quân sự mạnh, mà còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách, khả năng huy động và phát huy tối đa các yếu tố đó cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đòi hỏi có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, cơ sở pháp lý, kế hoạch, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân,...; đồng thời, lực lượng vũ trang nhân dân phải được xây dựng, huấn luyện có chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy giỏi, có nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo,...

Tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự là các thành tố cốt lõi, cơ bản nhất của tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự là xây dựng tổng hợp các nhân tố, trước hết là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao; là lực lượng tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả để củng cố niềm tin, tăng cường sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Xây dựng và phát huy nguồn lực con người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học, công nghệ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Trong quá trình xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự phải quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương; khai thác tốt khả năng, nguồn lực của đất nước để xây dựng và củng cố các tiềm lực. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm hài hòa giữa tăng cường tiềm lực quốc phòng với nâng cao đời sống của bộ đội và nhân dân. Thực hiện tốt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; kiến tạo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển bền vững đất nước.

VẠCH TRẦN, ĐẤU TRANH VỚI BIỂU HIỆN “GIẢ NHÂN GIẢ NGHĨA” CỦA KẺ “HAI MẶT”!

         Cơ hội chính trị và bất mãn chính trị là hai khái niệm cùng loại, cùng bậc, xếp vào một hàng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đều biểu hiện thái độ và tư tưởng chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta, đều nguy hại đối với việc xây dựng đoàn kết, thống nhất và củng cố chính trị nội bộ!
Vạch trần bản chất của những kẻ lươn lẹo “hai mặt”
Cơ hội chính trị tinh vi ứng biến với thời cuộc, diễn biến tình hình để lợi dụng “mặt tích cực” và né tránh “bất lợi” đối với bản thân; luôn mang trong mình mưu mô, toan tính và yếu tố bất mãn chính trị; ngược lại, bất mãn chính trị theo đuôi, đồng lõa với cơ hội chính trị và có thể chuyển hóa thành cơ hội chính trị. Xu hướng chung của các phần tử này là câu kết với nhau, dựa vào nhau và gắn bó chặt chẽ với các thế lực thù địch, hoặc bị các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, mua chuộc, hà hơi, tiếp sức nhằm chống đối, cản trở cái tiến bộ, tích cực; thậm chí biến thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn về phía đối lập, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Từ sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng đến nay, ở nước ta, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được tăng cường, bước đầu đạt những kết quả quan trọng, nhiều vụ án đã được đưa ra ánh sáng, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng một số thiếu sót, khuyết điểm của cuộc đấu tranh này hoặc xuyên tạc, dựng chuyện để kích động, lôi kéo những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước ta. Các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đã và đang nhận được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực phản động để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phao tin đồn nhảm, tung tin xấu độc trên internet, mạng xã hội nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Dưới đây là một số biểu hiện của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở nước ta hiện nay.

Có quan điểm, tư tưởng, lập trường chính trị không vững vàng, luôn ba hoa, ba phải, lươn lẹo, dễ dao động, thiếu niềm tin, hoài nghi, bi quan, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, không tin vào tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chửi thề, phản ứng, chống phá Đảng, Nhà nước và chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nhưng khi nhận thấy tình thế đã đổi khác, thì theo đuôi, a dua "nói leo, ăn theo", ra sức tung hô, ủng hộ cách mạng, nói, viết như “đúng rồi” để che đậy dã tâm xấu xa của mình.

Biết chọn thời điểm, thời cơ viết bài, tung tin, phát ngôn và lợi dụng triệt để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng, chủ tâm thu vén, vơ vét cho bản thân và gia đình. Họ thường che giấu bộ mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị lờ mờ, trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, dĩ hòa vi quý, chỉ làm việc gì thấy có lợi cho bản thân; lợi dụng hạn chế, khuyết điểm của đồng đội để đồn thổi, “bé xé ra to”, biến “con muỗi thành con voi”; từ đó lồng ý kiến cá nhân vào phê bình, tự phê bình để nịnh bợ, lấy lòng cấp trên, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng, thậm chí sử dụng biện pháp triệt hạ đối phương.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc bị kỷ luật, không còn giữ chức vụ, không có điều kiện để phô trương thanh thế, cho nên nảy sinh nhiều tâm tư, bất mãn, chán chường, bị thế lực cơ hội, bất mãn tác động, lôi kéo, mua chuộc, họ đã theo đuôi kẻ xấu. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì sinh ra bất mãn, thoái chí, phát ngôn thiếu trách nhiệm, không còn ý thức xây dựng cơ quan, đơn vị, chống đối những người đã ngồi vào ghế của mình. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, internet, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, các phần tử bất mãn để thực hiện mưu đồ xấu xa, chống lại sự lãnh đạo của Đảng, cản trở sự tiến bộ xã hội.

Hám lợi, hám danh, thực dụng về kinh tế, đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể, thích nổi danh trên mạng xã hội và trước đám đông; không thừa nhận ai, nhất là cán bộ trẻ. Họ cố tình móc nối, liên kết với một số cán bộ, nhân viên “có ơn huệ với mình” để moi tin, truyền tin, xuyên tạc bản chất sự việc; sẵn sàng rẽ theo con đường khác, kể cả sai trái, miễn là có lợi ích kinh tế, thỏa mãn ý chí cá nhân. Họ thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, luôn tự cho mình có công trạng, có đóng góp cho cách mạng, cho cơ quan, đơn vị nhưng bị bạc đãi, thiếu sự tôn trọng. Vì vậy, họ muốn “nổi sóng”, đưa ra “phát kiến” mới rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế, cốt để “đánh bóng tên tuổi” mình, gây khó dễ nhằm triệt hạ đối phương và những người mình không ưa thích. Khi mục đích không đạt được, vì nhiều nguyên nhân khác nhau khiến họ bức xúc, không thể kìm nén, đã phát ngôn thiếu trách nhiệm, xuyên tạc sự thật. Khi ý kiến, góp ý, kiến nghị của họ không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối, tìm mọi cách hạ thấp uy tín, danh dự của các cán bộ lãnh đạo cấp trên.

Đây chỉ là phác thảo ban đầu nhưng chỉ chừng ấy biểu hiện xấu đã khiến chúng ta phải đề cao cảnh giác, hết sức đề phòng sự phản trắc của những phần tử “hai mặt”, cơ hội chính trị này.

Kiên quyết đấu tranh đối với những kẻ “hai mặt”, cơ hội chính trị
Để đấu tranh, chặt đứt “cái vòi”, “chân tay”, “râu ria” của những kẻ cơ hội và bất mãn chính trị một cách hiệu quả, cần có các giải pháp toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao. Muốn vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Cần chú trọng thực hiện một số biện pháp sau:
Một là, thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm quy định về những điều đảng viên không được làm; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; không bị mắc mưu vào các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Đây là biện pháp cơ bản, toàn diện và bao trùm trong đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta hiện nay. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, bí thư cấp ủy phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng; đồng thời, nêu cao tinh thần trách nhiệm nêu gương của cán bộ chủ chốt các cấp. Cần phải nêu gương thật sự trong lời nói, hành động, công việc, cuộc sống và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy.

Hai là, chăm lo xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trung thành, cần, kiệm, liêm, chính, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội, bất mãn chính trị. Đặc biệt là cần chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Ba là, chủ động, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện của tư tưởng cơ hội và bất mãn chính trị trong cơ quan, đơn vị và các quan điểm sai trái, thù địch. Đề cao cảnh giác với các phần tử cơ hội chính trị muốn luồn sâu, leo cao vào bộ máy công quyền các cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chức năng nhằm phân loại và phát hiện kịp thời, đấu tranh hiệu quả với hoạt động phá hoại của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

Bốn là, trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần bám sát vào quan điểm, chủ trương, đường lối, kết luận, chỉ thị và hướng dẫn của Đảng và các cơ quan chức năng Trung ương. Dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao, nhất là đấu tranh bảo vệ chính trị nội bộ, không để lộ, lọt thông tin, bí mật Nhà nước, tình hình nội bộ của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong bối cảnh hiện nay, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần nhận diện đầy đủ, sâu sắc bản chất âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đặc biệt là những biểu hiện chống phá tinh vi, lươn lẹo của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị. Trên cơ sở đó có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả, không để chúng “tác oai tác quái”, cản trở chúng ta thực hiện sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
Khuyết danh ST.

Thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương Việt Nam và Liên bang Nga

 Từ ngày 11 đến 12/11, Đoàn Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga do Đại sứ Đặng Minh Khôi đã tới thăm và làm việc tại tỉnh Vladimir, nơi lưu giữ nền văn hóa lâu đời nhiều thế kỷ, trung tâm Vành đai vàng của nước Nga.

Cuộc gặp với Thống đốc tỉnh Vladimir Alexander Avdeev.
Cuộc gặp với Thống đốc tỉnh Vladimir Alexander Avdeev.

Tại cuộc gặp với ông Alexander Avdeev, Thống đốc tỉnh Vladimir, Đại sứ Đặng Minh Khôi đã chia sẻ về tình hình hợp tác giữa Việt Nam và Liên bang Nga thời gian qua; nhấn mạnh, trong bối cảnh tình hình thế giới thay đổi hiện nay, quan hệ hai nước vẫn tiếp tục bền chặt, không ngừng phát triển trên mọi lĩnh vực.

Đại sứ Đặng Minh Khôi bày tỏ rất ấn tượng về tiềm năng du lịch của tỉnh Vladimir, với vẻ đẹp thiên nhiên, cũng như các di sản văn hóa, các kiến trúc được UNESCO công nhận là di sản thế giới.

Đại sứ đánh giá cao các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác và nông nghiệp của Vladimir và bày tỏ kỳ vọng, thời gian tới nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ quan tâm đến các ngành thế mạnh của tỉnh Vladimir.

Thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương Việt Nam và Liên bang Nga ảnh 1
Đại sứ Đặng Minh Khôi và Thống đốc Alexander Avdeev.

Đánh giá cao sự giúp đỡ của chính quyền tỉnh Vladimir đối với cộng đồng người Việt Nam tại đây, Đại sứ mong muốn chính quyền tỉnh tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con làm ăn, sinh sống ổn định, hợp pháp, góp phần vào sự phát triển kinh tế của địa phương, cũng như củng cố tình hữu nghị truyền thống giữa hai nước.

Đại sứ đề nghị tỉnh Vladimir sẽ kiến nghị các cấp lãnh đạo Nga xem xét, tháo gỡ khó khăn cho lao động Việt Nam trong việc thi lấy chứng chỉ tiếng Nga để họ có thể đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh và xây dựng quê hương Việt Nam.

NHẬN DIỆN VÀ XÂY DỰNG LUẬN CỨ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG, PHẦN TỬ CƠ HỘI!

         Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nội dung cơ bản, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong giai đoạn hiện nay, để tăng cường và không ngừng nâng cao hiệu quả công tác này, cần nhận diện rõ bối cảnh mới, những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, từ đó đề ra định hướng, giải pháp phù hợp!
Những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, không ngừng củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đặc biệt, sau khi có Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, công tác này được triển khai ngày càng bài bản, thống nhất, đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu. 

Đặc biệt, nhờ có sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã khắc phục, vượt qua được những khó khăn rất lớn, những tác động tiêu cực do dịch bệnh, thiên tai, bão lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra. Đó là minh chứng hết sức sinh động, khẳng định tính ưu việt của chế độ ta, truyền thống đoàn kết, yêu nước, lòng nhân ái và ý chí kiên cường của nhân dân ta; càng trong khó khăn, thử thách, truyền thống và ý chí đó càng được nhân lên gấp bội, là nguồn lực và động lực to lớn, không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi, để xây dựng Đảng ta ngày càng vững mạnh, đất nước ta tiếp tục đi lên, dân tộc ta phát triển cường thịnh, trường tồn.

Tuy nhiên, đất nước ta càng đạt được những thành tựu phát triển to lớn, các thế lực thù địch, phản động lại càng hằn học tìm mọi cách để chống phá. Lợi dụng bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó dự báo, tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, thách thức, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn rất mới, trước đây chưa từng có, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá chúng ta.

Chúng thay đổi phương thức, thủ đoạn chống phá, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng một cách tinh vi và xảo quyệt hơn. Hoạt động của chúng có lúc âm thầm, lẩn khuất, có lúc công khai, trắng trợn; thường tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước, sự kiện đối ngoại quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, hoặc thời điểm xảy ra các vụ, việc phức tạp, nhạy cảm.

Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn này ở chỗ, chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội. Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, luôn toan tính tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, lý luận trong đời sống chính trị - xã hội của nước ta, với âm mưu cơ bản, lâu dài và rất thâm độc là xoay chuyển quỹ đạo phát triển của đất nước ta đi chệch hướng XHCN.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội (Zalo, Facebook, TikTok…), các hình thức truyền thông mới để tuyên truyền chống phá; tán dương, cổ vũ lẫn nhau trong một “thế trận” có “kịch bản”, đánh vào nhận thức, tâm lý “đám đông” theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”. Chúng tận dụng tối đa hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài, các kênh facebook, youtube... để tung thông tin xấu, độc dưới dạng “thật như giả”, “giả như thật”. Chúng dựng lên các video clip, phóng sự có giao diện giống như của Đài Truyền hình Việt Nam, Truyền hình Thông tấn và một số báo, đài chính thống để đưa tin. Mánh lới của chúng là giật tít, “câu view” nhằm đánh trúng tâm lý tò mò của nhiều người.

Trong thời điểm tiến hành Đại hội đảng các cấp (năm 2020, 2021), các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị càng tăng cường, ra sức nhào nặn, bóp méo thông tin, xuyên tạc, chống phá các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, chúng tập trung công kích dự thảo các văn kiện trình Đại hội, xuyên tạc rằng các văn kiện lần này vẫn là “bổn cũ viết lại”, “sao chép theo lối mòn”, không có gì mới, không biết tiếp thu những tinh hoa của nhân loại; các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đưa ra trong dự thảo văn kiện là “bất khả thi”, “không có cơ sở để thực hiện”... Cùng với đó, chúng tấn công vào đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược; liên tục tung tin giả về thân thế, sự nghiệp, tài sản, “sai phạm” của lãnh đạo cấp cao; xuyên tạc công tác nhân sự của Trung ương, công tác phòng, chống tham nhũng,... hòng gây bất ổn chính trị - xã hội, gây ra những khó khăn, thách thức không nhỏ cho công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Nhận diện để đấu tranh
Nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn, các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động tấn công vào nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Có thể nói, nắm bắt những âm mưu, thủ đoạn, phương thức, hình thức chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị là nhiệm vụ đầu tiên để nhận diện rõ các đối tượng này, nhất là khi chúng là những kẻ thù giấu mặt, cơ hội chính trị, lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, để từ đó, chúng ta có đối sách, phương pháp đấu tranh phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động tấn công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm bác bỏ, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống quan điểm, đường lối của Đảng. Thủ đoạn mới của chúng là chuyển từ bôi nhọ bằng luận điệu “du nhập ngoại lai”, “nhập khẩu lý luận” sang đánh tráo, thay thế các khái niệm, thổi phồng cái gọi là “chủ thuyết phát triển mới”, đối lập Chủ nghĩa Mác với Chủ nghĩa Lênin, kêu gọi dùng “Chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin mà cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên, rõ ràng rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam. Chúng trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đan cài gài bẫy bằng những quan điểm giả danh mác-xít, làm cho người đọc mất phương hướng, lẫn lộn, không phân biệt được đúng, sai. Chúng rêu rao rằng, Đảng và Nhà nước Việt Nam, giới lý luận và các nhà khoa học của ta đã dịch sai, hiểu sai quan điểm của Mác, Ph.Ăng-ghen; đồng thời, chúng diễn giải lại theo cách hiểu xuyên tạc, méo mó, hòng làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với việc công kích trực tiếp vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng còn đẩy mạnh tuyên truyền, cổ xúy du nhập các trào lưu tư tưởng cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan từ bên ngoài, kết hợp với kích động chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái, chủ nghĩa hưởng lạc từ bên trong, nhằm thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị và xã hội.

Thứ hai, các thế lực thù địch, phản động phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và thể chế chính trị XHCN bằng các luận điệu xuyên tạc như: Đảng tự cho mình đứng trên tất cả; Đảng cầm quyền phi chính danh, không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Chúng xuyên tạc các sự kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam; cổ xúy “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang; phủ nhận kinh tế thị trường định hướng XHCN, đòi tách biệt, đối lập “kinh tế thị trường” với “định hướng XHCN”. Chúng còn cho rằng chế độ hiện nay mắc “lỗi hệ thống”, đòi cải cách thể chế chính trị theo hướng đa nguyên, đa đảng, thực hiện “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự” theo tiêu chí phương Tây, với âm mưu không gì khác ngoài việc chống phá sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta.

Thứ ba, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tình hình đất nước, rêu rao cái gọi là “khủng hoảng toàn diện”, “tình thế hiểm nghèo”, khoét sâu các vấn đề xã hội, tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, đất đai, dịch Covid-19... nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các thủ đoạn thường được chúng sử dụng là: Kích động đòi đất, đòi nơi thờ tự vô lối, đòi thực hành tôn giáo trái pháp luật; kích động giáo dân, đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình. Chúng kích động, “hà hơi tiếp sức” cho những kẻ nhân danh “lòng yêu nước” để biểu tình gây rối trật tự, trị an. Đặc biệt, trong thời gian qua, các đối tượng chống đối triệt để lợi dụng các vụ án phức tạp, nhạy cảm để kích động, xuyên tạc, quy kết, vu cáo Đảng, Nhà nước yếu kém, đả kích các cơ quan tư pháp, kích động “bất tuân dân sự” trong xã hội.

Thứ tư, lợi dụng thông tin về những mặt hạn chế, bất cập của đất nước, các thế lực thù địch, phản động khoét sâu vào những điểm yếu kém trong thực thi công vụ của một số cơ quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý, hòng chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, âm mưu cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, hướng lái tạo ra những tư tưởng, tâm lý nghi kỵ, hẹp hòi, hành động sai trái, chống đối, bạo lực và bạo động trong cộng đồng và xã hội. Chúng ngụy tạo, tô vẽ, thổi phồng, quy kết những biểu hiện cá biệt, những khuyết điểm của một số tổ chức đảng và cá nhân đảng viên thành bản chất của Đảng cầm quyền, từ đó kích động đối lập Đảng với nhân dân, tạo sự xa cách, oán thán, thù ghét, tẩy trừ cán bộ, đảng viên.

Thứ năm, các thế lực thù địch, phản động tiến hành móc nối, xâm nhập vào nội bộ của ta, tìm cách phân hóa tổ chức, hòng dựng lên “ngọn cờ” tập hợp lực lượng. Chúng không ngừng tìm kiếm những phần tử thoái hóa, biến chất trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những kẻ bất mãn, cơ hội chính trị, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để tán phát tư tưởng phản động, chống phá Đảng, Nhà nước. Để tăng thêm sức lan tỏa, độ tin cậy của thông tin, chúng chú ý tập hợp, dẫn dụ những ý kiến, phát biểu gây “sốc” trái với đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước từ những đối tượng “dân túy”, tạo dựng ra cái gọi là chân dung “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, “những cán bộ của nhân dân”... nhằm trực tiếp tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái.

Thứ sáu, các thế lực thù địch, phản động phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta với các chiêu bài, như “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước kia, cổ xúy chủ nghĩa ly khai. Đáng chú ý, các đối tượng này triệt để lợi dụng vấn đề chủ quyền biển, đảo để tung tin thất thiệt, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng và Nhà nước ta. Chúng tổ chức tán phát các “thư ngỏ”, “tuyên bố”, “kiến nghị” để lôi kéo, kích động đồng bào ta ở trong nước và nước ngoài; kêu gọi chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ, gây sức ép đối với Việt Nam về các vấn đề dân chủ, nhân quyền.

Đề xuất một số giải pháp
Những âm mưu, thủ đoạn trên có thể nhận diện được nhưng để tạo sức mạnh đấu tranh có hiệu quả thì luôn cần có sự thông suốt, thống nhất tư tưởng, hành động trong toàn Đảng, tinh thần chiến đấu của từng đảng viên, sự thấu hiểu và ủng hộ của quần chúng nhân dân. Trong thời gian tới, để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tiếp tục đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, chúng ta cần chú trọng thực hiện tốt một số giải pháp như sau:
Một là, quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đề ra, nhận thức rõ đây là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài, không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Khẳng định vững chắc quan điểm có tính nguyên tắc, mang ý nghĩa sống còn của Đảng ta, đó là: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.   

Hai là, đặc biệt coi trọng việc kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nhiều cấp độ, phù hợp với từng đối tượng, từng lĩnh vực và mỗi tầng lớp nhân dân. Cùng với việc nhận diện rõ các thông tin xấu, độc, xuyên tạc, cần kết hợp đấu tranh trực diện và gián tiếp để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo kịch bản chặt chẽ, tổ chức chiến dịch truyền thông thống nhất, đa dạng, rộng rãi, có sự phối hợp đồng bộ của nhiều lực lượng để tăng tính hiệu quả và sức lan tỏa. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về truyền thông, báo chí, nhất là quản lý thông tin trên internet và mạng xã hội. Khẩn trương hoàn thiện các quy định pháp lý về quản lý các hoạt động trên không gian mạng, tạo căn cứ để cảnh báo, răn đe và xử lý các trường hợp vi phạm.

Ba là, tăng cường các giải pháp công nghệ, kỹ thuật để phát hiện sớm, ngăn chặn tận “gốc” nguồn phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch, ngăn chặn các trang mạng độc hại. Đồng thời, xây dựng mới các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh của ta bám sát thực tiễn, tuyên truyền sâu rộng với lập luận sắc bén, “chắc tay”, thuyết phục về các thành tựu phát triển của đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, các định hướng, nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, từng bước giành thế chủ động, làm chủ thế trận tiến công về thông tin tư tưởng, lý luận trên internet. Cán bộ, đảng viên phải thật sự nêu gương sáng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, trước hết. Muốn đấu tranh, trước hết phải tránh xa cám dỗ, thói hư, tật xấu, xây dựng đạo đức thực thi công vụ trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; kiên trì, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Bốn là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu để định hình, thiết lập hệ thống luận cứ, luận điểm đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chú ý nhận diện những vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung chống phá để xây dựng luận cứ khoa học thuyết phục, phục vụ và trực tiếp đấu tranh phản bác. Tập trung bảo vệ và làm lan tỏa những nội dung mới, tầm nhìn, định hướng, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tạo sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận; trong đó, chú trọng bổ sung, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những vấn đề lý luận mới về: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, quốc phòng, an ninh trong tình hình mới... Nghiên cứu trên quan điểm khách quan, khoa học những tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiến bộ để chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đồng thời, nghiên cứu sâu các vấn đề quốc tế, các sự kiện gây “sốc” trên thế giới, để “mở mắt” cho các thế lực thù địch, phản động - những kẻ thường xuyên viện dẫn một cách lệch lạc, khập khiễng các vấn đề bên ngoài để bôi xấu, chỉ trích, xuyên tạc tình hình trong nước.

Năm là, gắn kết chặt chẽ yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên, học viên, sinh viên, với công tác tổ chức, cán bộ, bảo vệ nội bộ, xây dựng tổ chức đảng và xây dựng đơn vị trong sạch, vững mạnh. Đặc biệt đẩy mạnh công tác tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là trong giới trẻ về lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử Đảng, từ đó hình thành nhân sinh quan cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực phân biệt đúng - sai, khả năng miễn nhiễm trước các thông tin xấu, độc. Tiếp tục phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận có bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phương pháp và kỹ năng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, có nhiệt huyết và tầm cao về lý luận; xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận, cán bộ trẻ. Tạo môi trường thuận lợi, bảo đảm điều kiện làm việc để người tài chuyên tâm, nỗ lực đóng góp vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tích cực tìm kiếm, nhân rộng những mô hình hay, những cách làm đổi mới, sáng tạo, hiệu quả, những tấm gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến; chia sẻ kinh nghiệm tuyên truyền, đấu tranh; khen thưởng những cá nhân có thành tích xuất sắc trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.
Ảnh: Trưng bày sách chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

Ảnh: Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội luôn lợi dụng mạng xã hội làm công cụ để đẩy mạnh tuyên truyền quan điểm sai trái, xuyên tạc.
Môi trường ST.

Phát triển hạ tầng số - nền tảng để bứt phá trong chuyển đổi số quốc gia

 Việt Nam đang không ngừng nỗ lực xây dựng nền tảng số hiện đại, đồng bộ, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc chuyển đổi số toàn diện, từ Chính phủ số, kinh tế số đến xã hội số.

Tuần lễ số quốc tế Việt Nam lần thứ 3 sẽ diễn ra từ ngày 19 đến 22/11/2024 tại thành phố Hạ Long, Quảng Ninh.

Đây là cơ hội để các đơn vị, doanh nghiệp trao đổi, tiếp cận với cơ quan quản lý, hiệp hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước về phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số.

Là một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực về phát triển hạ tầng số, Việt Nam đang không ngừng nỗ lực xây dựng nền tảng số hiện đại, đồng bộ, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc chuyển đổi số toàn diện, từ Chính phủ số, kinh tế số đến xã hội số.

Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực về phát triển hạ tầng số

Hạ tầng kỹ thuật số (hay hạ tầng số) là tập hợp các cơ sở vật chất, công nghệ và nền tảng công nghệ thông tin phục vụ cho việc thu thập, truyền tải, lưu trữ, quản lý và xử lý dữ liệu trong môi trường số.

Đây là nền tảng quan trọng quyết định sự thành công của các hoạt động chuyển đổi số, từ Chính phủ số, kinh tế số, đến xã hội số.

Các thành phần chính của hạ tầng kỹ thuật số bao gồm: hạ tầng viễn thông, hạ tầng trung tâm dữ liệu, hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng Internet vạn vật (IoT), hạ tầng an ninh mạng, hạ tầng nền tảng số (Digital Platforms), hạ tầng phần cứng và mạng lưới kết nối.

Vai trò của hạ tầng kỹ thuật số là hỗ trợ chuyển đổi số (tạo nền tảng cho ứng dụng công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), và IoT); Thúc đẩy kinh tế số (cung cấp khả năng giao dịch trực tuyến, phát triển thương mại điện tử và các mô hình kinh doanh số); Phục vụ xã hội số (đảm bảo người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ công, y tế, giáo dục, và các tiện ích khác thông qua các nền tảng trực tuyến); Tăng cường an ninh thông tin (đảm bảo bảo mật dữ liệu và giảm thiểu rủi ro từ các mối đe dọa mạng); Thu hẹp khoảng cách số (mang công nghệ đến mọi khu vực, từ thành thị đến nông thôn, giúp mọi người dân có cơ hội tiếp cận các dịch vụ số).

Hạ tầng kỹ thuật số là "xương sống" cho các quốc gia trong kỷ nguyên công nghệ, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.

TTXVN_1210 Thu tuong chuyen doi so (3).jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chào mừng Ngày Chuyển đổi số quốc gia (10/10) năm 2024. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Do đó, phát triển và xây dựng cơ sở hạ tầng số quốc gia đồng bộ, hiện đại phục vụ Chính phủ số, làm nền tảng cho phát triển kinh tế số, xã hội số đang là xu hướng phát triển chung của Việt Nam và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ từ một quốc gia đang phát triển với hạ tầng kỹ thuật hạn chế, trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về phát triển hạ tầng số.

Những thành tựu nổi bật về kết nối internet, phát triển viễn thông và ứng dụng công nghệ mới đã tạo nền móng vững chắc cho công cuộc chuyển đổi số.

Hạ tầng viễn thông và băng thông rộng là một trong những lĩnh vực được Việt Nam đầu tư mạnh mẽ.

Tính đến cuối năm 2023, mạng băng thông rộng cố định của Việt Nam đạt tốc độ trung bình 104,08 Mbps, tăng 31,9% so với năm 2022, cao hơn mức trung bình toàn cầu là 87,79 Mbps. Việt Nam hiện xếp thứ 41 thế giới về tốc độ mạng băng thông rộng cố định, vượt nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển.

Đáng chú ý, mạng di động băng thông rộng tại Việt Nam đạt tốc độ 44,92 Mbps, đưa Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á, chỉ sau Singapore, Malaysia và Brunei.

Mặc dù là nước đang phát triển, nhưng độ phủ sóng di động băng thông rộng 4G của Việt Nam năm 2023 đạt 99,8%, cao hơn các nước phát triển có thu nhập cao (99,4%). Mạng 5G cũng đã được phủ sóng tại khu vực trung tâm của 63 tỉnh, thành phố.

Đến nay, 100% cơ quan nhà nước đã được triển khai mạng Truyền số liệu chuyên dùng đến cấp xã để trao đổi, chia sẻ dữ liệu. 100% bộ, ngành, địa phương đã xây dựng, nâng cấp Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính.

Có 82,2% hộ gia đình sử dụng internet cáp quang băng rộng; trên 84% người dùng di động sử dụng điện thoại thông minh, cao hơn mức trung bình 63% của thế giới. Độ phủ cáp quang đến từng hộ gia đình đạt gần 80%, cao hơn so với trung bình 60% của thế giới.

Tính đến hết tháng 12/2023, tỷ lệ sử dụng IPv6 trên mạng internet Việt Nam đạt 59%, xếp thứ 2 khu vực Đông Nam Á và thứ 9 thế giới. Đặc biệt, chi phí dịch vụ internet tại Việt Nam được duy trì ở mức thấp, chỉ bằng một nửa mức trung bình toàn cầu, giúp mọi người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận.

Hạ tầng trung tâm dữ liệu là một yếu tố quan trọng khác trong chiến lược phát triển hạ tầng số. Việt Nam có 9 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu, 43 trung tâm dữ liệu trên toàn quốc, với tổng số 571.000 máy chủ.

TTXVN_1010 Yen Bai chuyen doi so 2.jpg
Tổ chuyển đổi số cộng đồng hỗ trợ người dân cài đặt những tiện ích điện tử trên điện thoại thông minh tại xã Minh Bảo, thành phố Yên Bái. (Ảnh: TTXVN phát)

Các trung tâm này không chỉ phục vụ lưu trữ và xử lý dữ liệu mà còn hỗ trợ vận hành các ứng dụng công nghệ tiên tiến như trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).

Các Bộ, ngành và địa phương đều có hạ tầng lưu trữ dữ liệu riêng để lưu trữ, phục vụ phát triển các nền tảng, dữ liệu, trong đó một số nơi đã triển khai ứng dụng công nghệ điện toán đám mây để nâng cao năng lực.

Số Bộ, ngành, địa phương đã triển khai Trung tâm dữ liệu phục vụ chuyển đổi số theo hướng sử dụng công nghệ điện toán đám mây đạt 71,43%.

Việc phổ cập các tổ công nghệ số cộng đồng trên toàn quốc cũng là một bước tiến quan trọng. Tính đến hết năm 2023, tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập được trên 80.000 tổ công nghệ số cộng đồng cấp xã, thôn, phố, với tổng số trên 378.000 thành viên tham gia. Đây là một trong những sáng kiến giúp thu hẹp khoảng cách số giữa các khu vực trong cả nước.

Xây dựng hệ thống hạ tầng số đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu bùng nổ dữ liệu

Phát triển hạ tầng số là một trong ba trụ cột chính của chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Chính phủ đặt mục tiêu xây dựng hệ thống hạ tầng số đồng bộ, hiện đại, đáp ứng nhu cầu bùng nổ dữ liệu, đảm bảo an toàn, an ninh mạng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Hiện Việt Nam đang tập trung vào mở rộng và nâng cấp hạ tầng băng thông rộng trên toàn quốc. Các khu vực trọng điểm như thành phố lớn, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và cơ quan nhà nước được ưu tiên đầu tư.

thu tuong_ngan hang_chuyen doi so 4.jpg
Thủ tướng Phạm Minh Chính tham quan trưng bày về ứng dụng Chuyển đổi Số trong lĩnh vực ngân hàng. (Ảnh: Dương Giang/TTXVN)

Đồng thời, Chính phủ đẩy mạnh xây dựng thêm 4-6 tuyến cáp quang biển quốc tế để tăng cường khả năng kết nối toàn cầu, biến Việt Nam trở thành trung tâm dữ liệu khu vực.

Về xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia, dự kiến, Việt Nam sẽ xây dựng tối thiểu 3 trung tâm dữ liệu quốc gia theo tiêu chuẩn quốc tế, phục vụ quản trị nhà nước và cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Các trung tâm này sẽ đóng vai trò nền tảng trong việc lưu trữ và xử lý dữ liệu, đồng thời thúc đẩy công nghiệp dữ liệu lớn.

Liên quan đến thúc đẩy IoT và ứng dụng công nghệ mới, hạ tầng IoT sẽ được tích hợp vào các lĩnh vực thiết yếu như giao thông, năng lượng và đô thị thông minh.

Đồng thời, các giải pháp ứng dụng AI trong quản lý và vận hành sẽ được khuyến khích, nhằm tối ưu hóa hiệu quả hoạt động của các tổ chức và doanh nghiệp.

Để thúc đẩy chuyển đổi số, Chính phủ đặt mục tiêu đào tạo 500.000 nhân lực công nghệ thông tin trình độ cao vào năm 2025. Các chương trình đào tạo kỹ năng số sẽ được triển khai rộng rãi trên nền tảng trực tuyến mở (MOOCs), giúp hàng triệu người tiếp cận tri thức số.

Đồng thời, các khóa học chuyên sâu sẽ nâng cao năng lực cho cán bộ nhà nước và nhân viên doanh nghiệp.

Về chính sách hỗ trợ và hợp tác quốc tế, Chính phủ đã xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư vào hạ tầng số, từ ưu đãi thuế đến hỗ trợ tài chính. Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Tuần lễ số quốc tế Việt Nam diễn ra tại Hạ Long tới đây sẽ là cơ hội để để các đơn vị, doanh nghiệp trao đổi, tiếp cận với cơ quan quản lý, hiệp hội, doanh nghiệp trong và ngoài nước về phát triển công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số.

Đồng thời, đây là dịp để học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạch định chính sách chiến lược phát triển, công nghệ, nguồn nhân lực, thiết lập quan hệ đối tác hợp tác, đề xuất giải pháp nhằm ứng phó với thách thức hiện nay.

Sự kiện cũng là cơ hội giới thiệu sản phẩm dịch vụ, thu hút đầu tư, thiết lập quan hệ hợp tác giữa Quảng Ninh với các đối tác công nghệ trong và ngoài nước.

Trong khuôn khổ Tuần lễ số sẽ diễn ra nhiều hoạt động, như Hội nghị bàn tròn cấp Bộ trưởng; Hội nghị 5G ASEAN lần thứ 4; Diễn đàn quốc tế về chiến lược kỹ thuật số, chính sách và quản trị AI với Australia; Hội nghị các quan chức thông tin ASEAN; Hội thảo các khuyến nghị về chính sách và quy định để thúc đẩy dịch vụ tin cậy trong ASEAN.

Cùng với đó là Diễn đàn đầu tư số quốc tế - Cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ICT tại các tỉnh, thành phố và khu công nghiệp; Hội nghị OECD về nguồn nhân lực cho chuyển đổi số và phát triển kinh tế số; Hội nghị Việt Nam- ITU về quản trị AI và ứng dụng AI trong lĩnh vực công nghiệp; Diễn đàn chuyển đổi số Việt Nam-Hàn Quốc; Cuộc thi Hackathon Đông Nam Á./.