Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

 TCCS - Năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, vì họ là người quán triệt, tổ chức thực hiện, tiến hành kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn. Do vậy, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, Đảng phải lựa chọn được đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng”, “vừa chuyên”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dự và phát biểu tại Lễ khai giảng Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV, ngày 14-10-2024_Ảnh: Tư liệu

Vai trò của công tác cán bộ đối với năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1), “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(2); “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(3),... Với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, được nhân dân giao phó trọng trách lãnh đạo, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, yêu cầu đặt ra đối với Đảng là xây dựng bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực để đảm nhận nhiệm vụ được giao.

Nhận thức rõ vị trí và tầm quan trọng của công tác cán bộ đối với việc nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân”(4).

Để thực hiện được mục tiêu này, Đại hội XIII của Đảng xác định các nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá, đặc biệt là: “Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ...”(5); “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, nhất là công tác tổ chức, cán bộ”(6); qua đó, khẳng định việc đổi mới mạnh mẽ trong công tác cán bộ và hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ là nhiệm vụ hệ trọng, được Đảng tập trung chỉ đạo thực hiện trong thời gian qua.

Công tác cán bộ luôn là khâu then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Trong những năm qua, công tác cán bộ của Đảng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong tình hình mới” cũng chỉ ra hạn chế trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; trong đó, nhấn mạnh năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để đội ngũ cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, năng lực hạn chế, phẩm chất, uy tín thấp, vi phạm kỷ luật của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Theo Ban Nội chính Trung ương, “trong năm 2023, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 606 tổ chức đảng, hơn 24.160 đảng viên (tăng 12% về số đảng viên bị kỷ luật so với năm 2022). Trong đó, thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng, 8.863 đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 19 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Trong đó, lần đầu tiên có 6 cán bộ bị xử lý kỷ luật do vi phạm trong kê khai tài sản, thu nhập. Cũng trong năm 2023, các cơ quan chức năng đã cho thôi giữ chức vụ, nghỉ công tác, bố trí công tác khác đối với 9 cán bộ diện Trung ương quản lý. Các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm, bố trí công tác khác hơn 360 trường hợp sau khi bị kỷ luật, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện tỉnh ủy, thành ủy quản lý. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng”(7). Cách xử lý kiên quyết, nghiêm khắc đó góp phần quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.

Công tác cán bộ là công việc, nhiệm vụ quan trọng trong việc tổ chức và thực thi quyền lực của Đảng. Vi phạm của một số cán bộ, đảng viên đã gây ảnh hưởng tới uy tín, thanh danh của Đảng, mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế kiểm soát quyền lực đối với công tác cán bộ chưa hiệu quả. Đây là lĩnh vực khó và dù Đảng ta đã có nhiều văn bản quy định về vấn đề này, nhưng chưa phát huy hết hiệu quả để ngăn ngừa tình trạng chạy chức, chạy quyền, sự tha hóa, biến chất trong công tác cán bộ.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, năng lực hoạch định, năng lực tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, cương lĩnh; năng lực lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội..., Đảng phải lựa chọn, xây dựng được đội ngũ cán bộ “vừa hồng”, “vừa chuyên”, đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Muốn vậy, Đảng phải tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền, vì đây là vấn đề then chốt để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong bối cảnh hiện nay.

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thăm, tặng quà động viên cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Phúc Sơn (xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn), Bộ đội Biên phòng tỉnh Nghệ An_Ảnh: TTXVN

Giải pháp nâng cao chất lượng công tác cán bộ, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

Một là, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ.

Công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương. Điều này sẽ tạo được sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, mà trước hết là trong tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Đoàn kết chính là sức mạnh của Đảng, là vũ khí sắc bén nhất của Đảng ta; trong Đảng có sự đoàn kết thì xã hội sẽ có sự đồng thuận, uy tín của Đảng, của hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao, niềm tin của nhân dân dành cho Đảng ngày càng vững chắc. Xử lý nghiêm mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ cấp ủy; nếu không sẽ dẫn đến sự chia rẽ nội bộ, kéo bè kéo cánh, “lợi ích nhóm”. Nghiêm túc, quyết liệt chống chủ nghĩa cá nhân, với các biểu hiện, như vấn đề “lợi ích” trong công tác cán bộ, “lợi ích” từ các dự án đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng và vấn đề cơ cấu, quy hoạch nhân sự của đại hội đảng bộ các cấp.

Hai là, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo, bồi dưỡng về chính trị với rèn luyện, thử thách đội ngũ cán bộ trong các hoạt động, các phong trào thực tiễn.

Cấp ủy, lãnh đạo các cấp cần thường xuyên chăm lo thực hiện công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đội ngũ cán bộ, thông qua các hình thức, như học tập các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mở các lớp bồi dưỡng, nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về các nghị quyết của Đảng; tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ, được đi học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh đào tạo, bồi dưỡng về chính trị thì khâu rèn luyện, thử thách cho đội ngũ cán bộ trong các hoạt động, các phong trào thực tiễn cũng rất cần được quan tâm sâu sát, tạo sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa “học đi đôi với hành”, giữa lý luận với thực tiễn. Cấp ủy cơ sở cần tổ chức các phong trào thi đua yêu nước để phát triển, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ ưu tú “vừa hồng”, “vừa chuyên” cho Đảng; chủ động, tích cực lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền, các tổ chức đoàn thể, thông qua các phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có hiệu quả. Mạnh dạn giao cho cán bộ thực hiện công việc khó, đòi hỏi sự nhiệt tình, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Ba là, xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ.

Hiện nay, tình trạng tư duy “cục bộ địa phương” trong công tác cán bộ còn diễn ra, chưa được ngăn chặn triệt để. Nguyên nhân là do chưa xây dựng được cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong tất cả các khâu của công tác cán bộ; đặc biệt, hiện nay khâu đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu nhất, khó khăn nhất. Trên thực tế, đánh giá cán bộ trước khi quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển dễ rơi vào hình thức, cảm tính, thậm chí ở một số nơi còn liên quan đến “nhóm lợi ích”, dẫn đến tình trạng bổ nhiệm cán bộ thì đúng quy trình, nhưng người được bổ nhiệm không “đúng người, đúng việc”.  

Khi đánh giá, lựa chọn cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền phải chú trọng tới đạo đức của người cán bộ; bởi vì, có đạo đức cách mạng sẽ làm cho họ thể hiện được tinh thần trách nhiệm với công việc được giao, luôn ý thức giữ mình trước cám dỗ; đồng thời, họ phải giữ gìn hình ảnh người đảng viên, xác lập các mối quan hệ công việc và xã hội một cách chuẩn mực, trong sáng. Tạo môi trường, cơ chế để đội ngũ cán bộ được thể hiện năng lực của mình một cách bình đẳng, thông qua công việc, bằng sản phẩm cụ thể. Khi đánh giá cán bộ, cần đánh giá cả một quá trình và đánh giá cả chiều hướng phát triển, thì mới có thể sát, đúng với năng lực và phẩm chất, đạo đức của một người cán bộ. Cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu, cần khách quan, minh bạch trong lựa chọn và sử dụng cán bộ; đồng thời, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền trong công tác cán bộ phải tự kiểm soát lẫn nhau, phải tiên phong, gương mẫu, thực hiện đúng theo Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”.

Bốn là, kiểm tra, giám sát và xử lý trách nhiệm trong công tác cán bộ của cấp ủy các cấp.

Đảng ta khẳng định, không kiểm tra, giám sát coi như không lãnh đạo. Vì vậy, để công tác cán bộ được thực hiện đúng với chủ trương, quy định, kết luận của Đảng, cấp ủy phải thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ. Kiểm tra, giám sát không chỉ thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm, mà cần kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình từ khi có dự thảo chủ trương, quy định, quy trình thực hiện về công tác cán bộ thì mới hiệu quả. Cấp ủy cấp trên trực tiếp và ủy ban kiểm tra cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ, với tinh thần, trách nhiệm, quyết tâm chính trị cao thì công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nói chung và trong công tác cán bộ nói riêng mới bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Nếu không kiểm tra, giám sát thì sẽ khó khắc phục được tình trạng hình thức, né tránh, bao che, tồn tại “vùng cấm” trong công tác kiểm tra, giám sát.

Để ngăn ngừa, hạn chế, ngăn chặn hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ; trước hết, bản thân cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, đặc biệt là người đứng đầu, phải có nhận thức, trách nhiệm đúng về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ; đồng thời, phải luôn xử lý hài hòa mâu thuẫn, bất đồng trong tập thể lãnh đạo, kết hợp thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp; phát huy vai trò làm chủ, giám sát của nhân dân, tăng cường vai trò phản ánh dư luận xã hội của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đặc biệt là trong công tác cán bộ của Đảng.

Năm là, xử lý nghiêm hành vi chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.

Tình trạng chạy chức, chạy quyền, tiêu cực hiện nay vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi triệt để; mặc dù Quy định số
205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” và hiện nay là Quy định số 114-QĐ/TW, ngày 11-7-2023, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ” chỉ ra rất rõ hành vi chạy chức, chạy quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn và các hành vi tiêu cực khác; nhưng việc thực hiện quy định này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cấp thiết hiện nay là làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân. Nếu phát hiện vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên thì phải xử lý đúng quy định để răn đe, ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ; qua đó, giữ được kỷ luật của Đảng, đẩy lùi vi phạm, xây dựng được đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược”(8); tuy nhiên, đây là công việc không thể chỉ làm một lần là xong, mà phải làm rất kiên quyết, kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục, làm đi làm lại nhiều lần, đòi hỏi quyết tâm rất lớn, thống nhất rất cao, biện pháp thực hiện quyết liệt. Vì vậy, tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, phòng, chống hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hành vi chạy chức, chạy quyền là một trong những giải pháp để lựa chọn được đội ngũ cán bộ xứng đáng, có năng lực xây dựng đường lối, cương lĩnh, nghị quyết và cụ thể hóa một cách hiệu quả thông qua hệ thống chính trị. Đây là nhiệm vụ then chốt để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong giai đoạn mới.

Sáu là, khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám làm vì lợi ích chung trong công tác cán bộ.

Bên cạnh thực thi cơ chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong công tác cán bộ thì việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ vì sự nghiệp chung của Đảng và của dân tộc có vai trò quan trọng. Vì vậy, trong công tác cán bộ, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế để tập thể cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trực tiếp quyết định và chịu trách nhiệm trước quyết định của mình, nhằm lựa chọn đúng người, bố trí đúng việc vì lợi ích chung. Trong lịch sử cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng lựa chọn, bố trí cán bộ là người thực sự có năng lực công tác, có phẩm chất đạo đức tốt, không ngừng nỗ lực phấn đấu, học hỏi, trưởng thành dần trong công việc, nhưng bằng cấp không cao, hoặc chưa có bằng cấp. Đặc biệt là, cán bộ do Bác Hồ lựa chọn đã thể hiện được tài năng của mình để cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Bảy là, thực hiện kiểm soát tốt việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ.

Thực hiện Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30-10-2020, của Chính phủ, “Về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”, trong những năm vừa qua, việc kê khai, xác minh tài sản, thu nhập đã được thực hiện nghiêm túc, góp phần không nhỏ vào việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, quá trình kê khai, xác minh tài sản, thu nhập vẫn còn không ít bất cập; theo báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực năm 2023 của Chính phủ gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội: “Về thực hiện các quy định về kiểm soát tài sản, thu nhập, trong kỳ đã có 60.458 người kê khai tài sản, thu nhập lần đầu; 545.535 người đã kê khai tài sản, thu nhập hằng năm; 44.015 người đã kê khai tài sản, thu nhập bổ sung; 161.928 người kê khai tài sản, thu nhập phục vụ công tác cán bộ; 655.299 người đã được công khai bản kê khai tài sản, thu nhập. Kết quả xác minh tài sản, thu nhập năm 2022 là 13.093 người; có 2.664 người có sai sót về kê khai sai mẫu, chưa bảo đảm theo hướng dẫn, không đầy đủ thông tin, chậm thời hạn so với quy định...; có 54 người bị xử lý do không trung thực trong việc kê khai tài sản, thu nhập và giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm(9).

Để tiếp tục thực hiện tốt hơn việc kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập, cần lưu ý các vấn đề sau:

Thứ nhất, thực hiện kiểm soát thu nhập theo Luật Thuế thu nhập cá nhân và quy định kê khai tài sản, thu nhập. Việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ cần được kiểm soát chặt chẽ, đúng mức; các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức có cơ chế giải trình, kiểm tra, xác minh để bảo đảm việc kê khai tài sản, thu nhập được tiến hành một cách công khai, minh bạch, trung thực. Ngoài việc kiểm soát thu nhập thông qua thuế thì cần thực hiện nghiêm túc việc giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm, gắn với việc xác minh tính hợp pháp của tài sản, thu nhập tăng thêm, trường hợp không chứng minh được sẽ bị thu hồi.

Thứ hai, theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, nhiều cơ quan, tổ chức, bao gồm Thanh tra Chính phủ, thanh tra tỉnh, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội về công tác đại biểu, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội, có trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai. Để bảo đảm sự thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo thẩm quyền, cần tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền của Đảng với cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập trong bộ máy nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ ba, theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng thì trách nhiệm xây dựng, quản lý, khai thác và bảo vệ cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập thuộc về Thanh tra Chính phủ. Các cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập khác cũng có trách nhiệm xây dựng, quản lý, khai thác và bảo vệ cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập trong phạm vi quản lý của mình. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu để có sự quản lý thống nhất đối với cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài sản, thu nhập./.

------------------------

Xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 TCCS - Để tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một trong những “nhiệm vụ đặc biệt quan trọng”, “rất cấp bách, bắt buộc phải làm” là thực hiện “cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”(1). Việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị có ý nghĩa quan trọng để thực hiện nhiệm vụ tinh gọn bộ máy “rất khó” nhưng “không thể chậm trễ hơn được nữa”.

Tổng Bí thư Tô Lâm xem giới thiệu các ứng dụng chuyển đổi số trong các cơ quan đảng khi dự Hội nghị tổng kết công tác năm 2024 và triển khai nhiệm vụ công tác 2025 của Văn phòng Trung ương Đảng_Ảnh: TTXVN

Bộ máy phải tinh gọn để “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện và để lại dấu ấn sâu đậm trong quá trình hình thành và phát triển tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam. Bề dày thực tiễn kết tinh nên hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó nổi bật là những chỉ dẫn về “tinh gọn” để bộ máy mạnh mẽ và sáng suốt, “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”.

Tinh gọn bộ máy không phải là một sách lược chính trị, cách thức cải tiến tổ chức tạm thời mà là công việc thường xuyên, có tính quy luật để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Sự quan tâm liên tục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy ý nghĩa chiến lược của xây dựng bộ máy tinh gọn đối với hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; qua đó, tác động to lớn đến tiến trình vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bộ máy phải tinh gọn là yêu cầu có tính nguyên tắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán nhấn mạnh trong toàn bộ quá trình hơn hai thập niên trực tiếp lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị của chế độ dân chủ cộng hòa. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, yêu cầu bộ máy phải tinh gọn thể hiện gián tiếp qua những đề cập rất chi tiết của Người về cách tổ chức, hoạt động của chính quyền trong một số bài viết(2). Trong thời gian dài sau đó, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu: “Cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới làm cho nó gọn gàng, hợp lý…”(3). Tư tưởng và thực tiễn đó khẳng định tính chất to lớn, quan trọng, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược của việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị.

Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của hoạt động tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. “Nước ta là nước dân chủ,… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”; “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”(4). Do vậy, “Chính phủ và Đảng… bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm…”(5). Tinh gọn bộ máy để nhân dân bớt gánh nặng “nuôi” hệ thống chính trị, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả để “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”(6). Những nội dung này phản ánh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò động lực của nhân dân. Tinh gọn bộ máy không phải từ nhu cầu lợi ích tự thân của riêng hệ thống chính trị, mà cội nguồn khởi phát và thúc đẩy hoạt động tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị là nhu cầu của nhân dân với tư cách là chủ và làm chủ; là sự tham gia vào xây dựng tổ chức bộ máy của chế độ mới; là sự giám sát và tiếng nói phản ánh, phê bình của nhân dân đối với các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân là bài học thắng lợi của xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Nhận diện và giải quyết tốt vấn đề lợi ích là yếu quyết để tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng lợi ích chung, song cũng quan tâm đến lợi ích riêng của mỗi cơ quan và cá nhân trong hệ thống chính trị. Người phát huy triệt để sự tương đồng, thống nhất; lợi ích của nội bộ hệ thống chính trị và lợi ích của nhân dân chẳng những không khác biệt, mâu thuẫn, mà còn hòa quyện thống nhất, bởi: “…không có cái lợi ích nào của Đảng mà không phải là lợi ích của nhân dân, hay ngược lại không có lợi ích nào của nhân dân mà không phải là lợi ích của Đảng”(7). Lợi ích của cơ quan, đơn vị trong bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn là “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của”; “mọi người đều có công việc thiết thực”(8). Tinh gọn bộ máy là động lực thúc đẩy mỗi cán bộ nỗ lực vươn lên “thi đua nâng cao năng suất của mình”(9), đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển chung. Vươn lên phát triển là lợi ích to lớn mà hoạt động tinh gọn tổ chức bộ máy mang lại cho mỗi cơ quan, đơn vị và cá nhân trong hệ thống chính trị. Tinh gọn tổ chức bộ máy mang lại lợi ích chung cho đất nước và nhân dân thông qua mang lại lợi ích phát triển cho mỗi cá nhân và đơn vị trong hệ thống chính trị. 

Tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là quá trình thực hiện đồng bộ giữa xây và chống. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem tinh gọn bộ máy là quá trình “chỉnh đốn và kiện toàn”. Động lực chủ yếu của xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn là ngăn chặn, phòng trừ các nguy cơ, biểu hiện quan liêu, tiêu cực, xa dân gây ảnh hưởng đến bản chất quyền lực thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến những biểu hiện tiêu cực này để khẳng định yêu cầu phải tinh gọn tổ chức bộ máy: “Từ các bộ, các ngành và các địa phương, bộ máy đều quá cồng kềnh và càng ngày càng phình ra. Vì vậy mà sinh ra quan liêu, lãng phí”(10); “bộ máy cồng kềnh, nhiều giấy tờ, hình thức... Từ cấp trên xuống cấp dưới, công việc chậm trễ, nhiều khi không ăn khớp. Chúng ta phải sửa chữa các khuyết điểm kể trên, coi trọng và thật sự kiện toàn chính quyền dân chủ nhân dân về các mặt công tác, tổ chức, cán bộ”(11). Kết quả của quá trình chỉnh đốn này là bộ máy được thiết kế và vận hành “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”. Tóm lại, tinh gọn tổ chức bộ máy là “một cuộc sửa chữa, lau chùi, thêm dầu mỡ, thau nước… làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(12).

Việc bảo đảm tính hệ thống, tính kế thừa trong một chỉnh thể thống nhất vừa là yêu cầu, vừa là mục đích của tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, bộ máy là một chỉnh thể với sự phân công và phối hợp thông suốt: “Một bộ máy là do nhiều thứ máy to nhỏ lắp lại. Các máy ấy đều ăn khớp với nhau, thì bộ máy tốt và sản xuất nhiều. Nếu chỉ một cái máy nhỏ không ăn khớp, thì cũng đã ảnh hưởng xấu đến toàn cả bộ máy”(13). Tinh gọn bộ máy không phải là phá vỡ hệ thống, không phải là “đập đi xây mới” hoàn toàn theo nghĩa phủ định sạch trơn. Người nhấn mạnh: “chỉnh đốn và kiện toàn” là càng để nâng cao tính thống nhất, bảo đảm cho “các máy ấy đều ăn khớp với nhau”. Theo Người, cách mạng là bỏ cái cũ tạo ra cái mới với điều kiện cái cũ lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp và cái mới thì tiến bộ, phù hợp. Với tinh thần đó, phương châm thể hiện trong thực tiễn lãnh đạo xây dựng tổ chức máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trên cơ sở cái đã có những gì tốt, phù hợp thì giữ và phát huy, bộ phận nào kềnh càng, không phù hợp, lãng phí thì sắp xếp.

Tính toàn diện được thể hiện rõ nét trong tư tưởng và thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trên hai khía cạnh chủ yếu. Về nội dung, hệ thống chính trị phải được tinh gọn cả về bộ máy và nhân sự. Tiến hành sắp xếp, bố trí cơ quan, đơn vị trong hệ thống sao phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Trước câu hỏi “Sao bây giờ lại chỉ có 10 bộ?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Vì nước mình nhỏ nên không cần nhiều bộ”(14). Nhận thấy “từ các bộ, các ngành và các địa phương, bộ máy đều quá cồng kềnh và càng ngày càng phình ra”, Người kiên quyết yêu cầu phải sắp xếp lại cho gọn gàng và hợp lý hơn. Về nhân sự, tiến hành sắp xếp và tinh giản. Căn cứ vào việc để sắp xếp, điều chuyển nhân sự sao “cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu”. Về nhân sự, “thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”(15). Theo Người, tinh giản là “nâng cao năng suất, giảm bớt số người”: “tinh là đưa năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”. Mặt khác, tinh gọn tổ chức bộ máy phải được thực hiện cả từ trên xuống lẫn từ dưới lên với sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên, bắt đầu từ xã; dưới làm lên trên, trên làm xuống dưới, tự nhiên mọi việc sẽ thành”(16); “các địa phương sẽ thi đua với nhau, Trung ương sẽ thi đua với địa phương, làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(17). Đó là tính toàn diện trong quan điểm về lực lượng và phương thức thực hiện tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị.

Đạo đức cách mạng là “sức mạnh” để tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, gốc tích của bộ máy kềnh càng là do chủ nghĩa cá nhân: “Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra bệnh quan liêu. Kềnh càng. Kiêu ngạo. Chậm chạp. Làm cho qua chuyện. Ham chuộng hình thức”(18). Bệnh bè phái, cục bộ địa phương, trưng diện hình thức, phô trương lãng phí cũng được nhắc đến như là nguyên nhân dẫn đến biên chế phình to quá mức so với yêu cầu thực tế: “Những cơ quan tổ chức kềnh càng không hợp lý, việc ít người nhiều, tốn kém cho công quỹ một cách vô ích. Hoặc ham chuộng hình thức, trưng diện cho sang, phô trương, lãng phí”(19). Trở lực lớn nhất ngăn cản tinh gọn tổ chức bộ máy là chủ nghĩa cá nhân. Sức mạnh nền tảng để “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” là tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần chí công vô tư, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy “phải gột rửa sạch những bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hình thức, phải luôn luôn đi sát với quần chúng, phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính”(20). Xét cho cùng, tinh gọn tổ chức bộ máy cũng chính là quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “dĩ công vi thượng” của đội ngũ cán bộ, đảng viên. 

Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “không thể chậm trễ hơn được nữa”

Các thành tố của hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Do vậy, trong giai đoạn đầu, tổ chức bộ máy mang những đặc điểm của hệ thống chính trị trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, mang đậm nét của bộ máy “chuyên chính vô sản”. Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống chính trị được đổi mới xây dựng gắn liền với sự vận động, phát triển của đất nước: “Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(21). Tuy nhiên sau gần 40 năm đổi mới, “tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ… gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế”(22)

Sự nghiệp đổi mới mang lại cho đất nước cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như hiện nay. Đó là nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao) và 100 thành lập nước (trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao). Một trong bảy định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ là tinh gọn tổ chức bộ máy để hệ thống chính trị mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.

Nhận thấy tầm quan trọng của xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, Đảng ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, “So với những thay đổi to lớn của đất nước sau 40 năm đổi mới, sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những thành tựu khoa học - công nghệ; tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển”(23)

Đất nước đang đứng trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. “Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng”, dẫn đến cản trở, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước(24). Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”(25); càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước, không thể chậm trễ hơn được nữa.

Đồng chí Lê Minh Hưng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương cùng các đồng chí lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh trao đổi với các cử tri xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh_Nguồn: baohatinh.vn

Những giải pháp từ chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại những chỉ dẫn quan trọng, có giá trị nền tảng định hướng cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bao gồm: 

Một là, nêu cao và phát huy sức mạnh của đạo đức cách mạng, giải quyết tốt vấn đề lợi ích.

Trước sự khó khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(26). Cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “thực sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó” bởi liên quan đến lợi ích của nhiều cơ quan, đơn vị và cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại chỉ dẫn rất quan trọng: Gốc rễ của bộ máy kềnh càng, biên chế phình to là chủ nghĩa cá nhân - “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết... chỉ muốn “mọi người vì mình”(27). Trở lực chính của cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay cũng là chủ nghĩa cá nhân. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân sẽ triệt tiêu “điểm nghẽn” chính của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy. “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”(28). Vận dụng chỉ dẫn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh phẩm chất đạo đức dĩ công vi thượng: “tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu”(29)

Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhất định phải gắn liền với quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nêu cao tinh thần chí công vô tư, đặt lợi ích của đất nước và nhân dân lên trên lợi ích riêng của từng bộ phận, cá nhân với tinh thần khẩn trương “càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước” như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Tuy nhiên, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng. Mỗi cơ quan, đơn vị phải thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động có thể bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy theo tinh thần minh bạch, khách quan, kịp thời.

Hai là, huy động và tổ chức tốt lực lượng thực hiện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chúng ta tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy”(30); do vậy, xây dựng tổ chức bộ máy là việc chung của tất cả. Hồ Chí Minh yêu cầu “các địa phương sẽ thi đua với nhau, Trung ương sẽ thi đua với địa phương, làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(31). Sức mạnh tổng hợp của hệ thống là yếu tố quyết định đến thực hiện chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”.

Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy hiện nay phải bảo đảm sự tham gia thực hiện của toàn hệ thống chính trị. Nêu cao tinh thần triệt để chấp hành, chỉ bàn làm, không bàn lùi; khẩn trương thực hiện, không trông chờ. Huy động được sức mạnh của toàn hệ thống, tổ chức phát động cao điểm thi đua giữa các cơ quan, đơn vị, giữa các địa phương, giữa Trung ương và địa phương. Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra yêu cầu: “đề nghị các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong thực hiện chủ trương này... Các đồng chí cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”; “Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở”; “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”. Từng cấp, từng ngành bám sát kế hoạch để tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình bảo đảm đúng tiến độ”(32).

Dựa vào nhân dân để tiến hành cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là các quan báo chí, truyền thông, phải đẩy mạnh tuyên truyền rõ mục tiêu tinh gọn bộ máy để nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân. Hiện nay, đông đảo nhân dân đang ủng hộ, hưởng ứng chủ trương của Đảng, tạo nên động lực tinh thần to lớn cổ vũ thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy. Bên cạnh đó, cần quan tâm chăm lo và phát huy vai trò của gia đình cán bộ, công chức chịu ảnh hưởng của công cuộc tinh gọn tổ chức bộ máy, sớm ổn định cuộc sống.  

Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới với kế thừa, ổn định và phát triển, giữa sắp xếp bộ máy và tinh giản biên chế.

Cách mạng luôn là quá trình không ngừng đổi mới phát triển trên nền tảng kế thừa các giá trị đã được xác lập. Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng bộ máy tinh gọn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới và kế thừa, nghĩa là giữa những cái đã có với cái mới. Tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một cuộc cách mạng, do vậy phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới và kế thừa. Tinh thần được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu cao là quyết liệt, mạnh mẽ phải gắn liền với thận trọng, chắc chắn, giữ vững nguyên tắc, vì vậy cần chú trọng: Chỉ kết thúc hoạt động, điều chuyển, sắp xếp những vị trí chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, các tầng nấc trung gian; các vị trí đang phù hợp và phát huy tốt thì giữ và nâng chất; chỉ thành lập mới các cơ quan, đơn vị khi thật sự cần thiết; gắn chặt chẽ giữa sắp xếp bộ máy với tinh giản biên chế; thực hiện phương châm sắp xếp bộ máy trước, điều chỉnh biên chế gắn với sắp xếp. Tinh giản biên chế theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giảm số lượng nhưng tăng năng suất. Thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ để “giản” đúng đối tượng, từ đó giúp “giản” nhưng bộ máy phải tinh. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh những biểu hiện bè phái, cánh hẩu, cục bộ loại trừ người có năng lực để giữ người kém dẫn đến biên chế bộ máy gọn nhưng không tinh. Ban chỉ đạo ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm trước các yếu kém, sai phạm, tiêu cực trong thực hiện tinh gọn bộ máy.

Bốn là, tinh gọn tổ chức bộ máy gắn liền với hoàn thiện thể chế hệ thống chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc đến sự phân công và phối hợp như là nền tảng hình thành bộ máy, là điều kiện để xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn. Việc tiến hành cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị phải gắn liền với hoàn thiện thể chế tương ứng. Phát huy trí tuệ của toàn hệ thống chính trị và nhân dân để sớm xây dựng được khung thể chế mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Rà soát lại toàn bộ các quy định hiện có để ban hành mới, điều chỉnh, bổ sung các quy định phù hợp với mô hình sắp xếp mới. “Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện”(33).

Thời cơ vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, không chỉ phải chủ động, quyết liệt theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, mà còn phải chắc chắn và hiệu quả. Càng đứng trước “vấn đề khó, thậm chí rất khó” càng phải thấm nhuần những bài học sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này./.

--------------------------------

ĐẤT NƯỚC TÔI LÀ THẾ

 Xin lỗi bạn, đất nước tôi là thế!

Yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh

Chẳng muốn khăn tang nặng trĩu mái đầu xanh

Chẳng muốn Mẹ "Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ"

Nỗi đau chiến tranh đến giờ vẫn quằn quại con trẻ

Nước mắt vợ buồn đêm chảy chẳng hề nguôi.

Đất nước tôi chẳng bao giờ buông xuôi

Dù phải đốt cháy dãy Trường Sơn cũng không hề nao núng

Vì độc lập, tự do buộc chúng tôi cầm súng

Khoét núi, ngủ hầm, cơm vắt chẳng hề nao

Máu trộn bùn non thấm đẫm chiến hào

Vẫn khí phách hiên ngang lao vào trận chiến

Già, trẻ, gái, trai đồng lòng cống hiến

Dâng trọn đời mình vì Tổ quốc thân thương

Biết bao con em nằm lại chiến trường

Biết bao đứa trẻ chẳng bao giờ gặp bố

Tình nghĩa vợ chồng chẳng có ngày hội ngộ

Chiến tranh qua rồi tìm mộ chẳng hề ra.

Đất nước tôi chuộng hòa bình thiết tha

Nhưng nếu bị xâm lăng thì còn "cái lai quần cũng đánh"

Lòng yêu nước chẳng bao giờ nguội lạnh

Độc lập, chủ quyền là hết sức thiêng liêng

Muốn ấm êm với các nước láng giềng

Muốn là bạn với bạn bè thế giới

Muốn bầu trời trong xanh vời vợi 

Muốn trái đất này mãi mãi được bình an.


ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ KỶ NGUYÊN MỚI CỦA DÂN TỘC!

  Phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 10 và trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”!


Tuy nhiên, bằng nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu đó của dân tộc ta. Vừa qua trên trang Thongluan-rdp, Kỷ Nguyên có bài “Những gì cần thấy đằng sau kỷ nguyên mới của Tô Lâm”, đã xuyên tạc, bóp méo quan điểm về kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần khẳng định:

1. Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là, dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. 

Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược và có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước trên thế giới. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

2. Mục tiêu của kỷ nguyên mới 

Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc. 

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Những vấn đề đã được đề cập ở trên là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, TĂNG TỐC, BỨT PHÁ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH, PHÁT TRIỂN GIÀU MẠNH, VĂN MINH, THỊNH VƯỢNG CỦA DÂN TỘC!

 Nhân dịp đón Năm Mới 2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có bài viết "Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào Kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc"!


Xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết của Thủ tướng:

"Những kết quả quan trọng, toàn diện, nổi bật đạt được trên các lĩnh vực trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi của năm 2024 khẳng định nỗ lực vượt bậc, ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; qua đó củng cố nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ để phấn đấu thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2021-2025, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

I. Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt; xung đột quân sự leo thang ở nhiều nơi; tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc gia; kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều, thiếu vững chắc; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng ngày càng nghiêm trọng. Ở trong nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn thách thức nhiều hơn; nền kinh tế tiếp tục chịu "ảnh hưởng kép" từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm; trong khi thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của Nhân dân.

Trong bối cảnh đó, với tinh thần nỗ lực vượt bậc "biến nguy thành cơ", "thay đổi trạng thái, xoay chuyển tình thế"; với phương châm "kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững", "chỉ bàn làm, không bàn lùi"; ngay từ những ngày đầu năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội; chủ động, linh hoạt, bám sát thực tiễn, thực hiện đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực; trong đó ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tập trung tháo gỡ những vướng mắc, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật; đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng trọng điểm; chú trọng các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường; tăng cường phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế; đồng thời nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả trước những biến động từ bên ngoài.

Nhờ sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, tình hình KTXH nước ta tiếp tục phục hồi tích cực, với xu hướng tốt hơn qua từng tháng, từng quý, tính chung cả năm 2024 đạt và vượt toàn bộ 15 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có những kết quả nổi bật trên nhiều lĩnh vực, được Nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 7%; quy mô kinh tế đạt khoảng 470 tỷ USD; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực; tỷ trọng khu vực nông nghiệp còn khoảng 11%. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; tăng năng suất lao động ước đạt 5,7%, vượt mục tiêu đề ra; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176 quốc gia, vùng lãnh thổ[1].

Việt Nam được đánh giá cao về kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh thế giới biến động mạnh, nhiều khó khăn. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2024 tăng khoảng 3,6%, trong khi vẫn thực hiện tăng lương, tăng giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ghi nhận kỷ lục, cùng với kỷ lục xuất khẩu nông sản trên 62 tỷ USD; thặng dư thương mại ước đạt khoảng 24 tỷ USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ nền kinh tế phục hồi tích cực và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tổng thu NSNN vượt trên 19% dự toán (khoảng 320 nghìn tỷ đồng), góp phần bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia và bội chi NSNN thấp hơn giới hạn quy định[2].

Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn của các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư quốc tế; thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt khoảng 40 tỷ USD, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng 25 tỷ USD; là một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới với 17 FTA, trở thành một mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; đặc biệt đã xác lập được vị thế quan trọng trong chuỗi công nghiệp bán dẫn toàn cầu, thu hút được nhiều tập đoàn công nghệ lớn. Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Các đột phá chiến lược được tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đạt nhiều kết quả rõ nét. Tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật; Quốc hội đã thông qua nhiều Luật, Nghị quyết nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn cho phát triển trên các lĩnh vực[3]. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược được đẩy mạnh toàn diện; đã đưa vào khai thác trên 2.000 km đường bộ cao tốc; hoàn thành Dự án đường dây 500 kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên trong thời gian ngắn kỷ lục 6 tháng; tập trung chuẩn bị, khẩn trương triển khai các dự án đường sắt quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chuyển biến tích cực; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp được thúc đẩy mạnh mẽ. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 xếp hạng 44/132 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 02 bậc so với năm 2023. Công tác quy hoạch được đẩy mạnh; đã phê duyệt, triển khai thực hiện toàn bộ 111 quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch quốc gia; đồng thời tập trung xử lý các dự án tồn đọng, kém hiệu quả, kéo dài[4]; góp phần khơi thông nguồn lực, chống lãng phí, tạo không gian, động lực mới cho phát triển.

Phát triển văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 1,9%; thu nhập bình quân người lao động tăng khoảng 7,4%; chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143[5]; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) xếp thứ 54/166 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 1 bậc so với năm 2023[6]. Kịp thời khắc phục hậu quả và hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 với những hình ảnh, nghĩa cử cao đẹp, xúc động, ấm áp "tình dân tộc, nghĩa đồng bào" trên mọi miền đất nước.

Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Tập trung đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo; nâng cao hiệu quả xử lý tham nhũng, tiêu cực, không để ảnh hưởng đến phát triển KTXH, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin trong Nhân dân.

Độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; uy tín, vị thế đất nước tiếp tục được nâng cao. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân được tăng cường, củng cố vững chắc; công nghiệp quốc phòng đạt nhiều kết quả tích cực. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hợp tác quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cấp[7], ngoại giao kinh tế được chú trọng; tạo lập được cục diện đối ngoại thuận lợi; góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển.

II. Vui mừng, phấn khởi trước những thành tựu, kết quả nổi bật đạt được trong năm 2024, nhưng chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức cần được tiếp tục tập trung xử lý, giải quyết, hóa giải một cách kịp thời, hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro, sức ép điều hành về tỷ giá, lãi suất, lạm phát còn lớn, nhất là trước những tác động bất lợi từ bên ngoài. Tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn khó khăn; sức mua thị trường phục hồi chậm, chưa rõ nét. Việc triển khai một số dự án kết cấu hạ tầng còn vướng mắc; giải ngân vốn đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu.

Thể chế, pháp luật vẫn là "điểm nghẽn của điểm nghẽn"; tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý hơn là kiến tạo phát triển; quy trình, thủ tục có điểm còn bất cập. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Phân cấp, phân quyền còn vướng mắc, vẫn còn nhiều công việc cụ thể ở cấp trung ương; thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh có lĩnh vực còn rườm rà, ách tắc. Lãng phí vẫn còn trong nhiều ngành, lĩnh vực, gây nhiều hệ lụy, làm suy giảm nguồn lực, tăng gánh nặng chi phí, tạo rào cản, bỏ lỡ thời cơ cho phát triển của đất nước.

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa góp phần tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân chưa được cải thiện nhiều; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn. Việc giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ùn tắc giao thông, ngập úng tại các thành phố lớn còn chậm. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ, sạt lở, ngập lụt, sụt lún, khô hạn biến động khó lường, gây hậu quả nặng nề. Tình hình tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng và công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở một số địa bàn diễn biến phức tạp...

Những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức nêu trên có những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan chủ yếu là do tình hình thế giới phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức; hậu quả của đại dịch COVID-19 tiếp tục có những ảnh hưởng tiêu cực; trong khi đó thiên tai, bão lũ, nhất là bão số 3 (Yagi) gây hậu quả nặng nề. Nguyên nhân chủ quan là do kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; phân cấp, phân quyền ở một số lĩnh vực còn vướng mắc; một bộ phận cán bộ né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm; việc nắm bắt tình hình, tham mưu, phản ứng chính sách một số trường hợp chưa kịp thời, hiệu quả, chưa tận dụng hết các cơ hội phát triển; tinh thần nỗ lực vượt khó, tự lực, tự cường của một số cơ quan, đơn vị và một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao…

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các lĩnh vực và từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý, sâu sắc, góp phần bổ sung, hoàn thiện về tư duy, phương pháp luận, định hướng chính sách và tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

Thứ nhất, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch, là yếu tố nền tảng căn bản cho phát triển bền vững, là điểm tựa để vượt qua mọi khó khăn; cần phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực đổi mới vươn lên của toàn dân tộc; luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Thứ hai, phải có tư duy phát triển đột phá, tầm nhìn chiến lược, nhìn xa, trông rộng, nghĩ sâu, làm lớn; làm việc nào dứt việc đó; coi trọng thời gian, trí tuệ, sự sáng tạo, quyết đoán, đúng thời điểm. Tập trung nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, phải tập trung khơi thông, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định và ngoại lực là quan trọng, cần thiết, đột phá; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam.

Thứ tư, phải đặc biệt chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là nguồn lực, động lực quan trọng nhất cho sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, "không để ai bị bỏ lại phía sau".

Thứ năm, phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; quyết liệt cải cách thủ tục hành chính; kiên quyết, kiên trì xóa bỏ cơ chế "xin - cho"; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần củng cố niềm tin trong Nhân dân và toàn xã hội.

III. Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi chậm, rủi ro gia tăng; xu hướng phân tách, phân cực ngày càng rõ nét. Trong nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi, các chủ trương, cơ chế, chính sách mới đang tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực; nhưng khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài; các yếu tố an ninh phi truyền thống, thiên tai, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, già hoá dân số tác động, ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng; trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá để về đích để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước - kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 80 năm thành lập Nước và là năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã định hướng. Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; ngay từ năm 2025 chúng ta phải nỗ lực tối đa, tạo những yếu tố đột phá thu hút đầu tư, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt mức tăng trưởng ít nhất 8% hoặc phấn đấu cao hơn trong điều kiện thuận lợi; trên cơ sở đó tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Đất nước trong những thời điểm lịch sử cần những quyết sách mang tính lịch sử. Việc thực hiện các mục tiêu chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập Nước trên đây là sứ mệnh đầy thử thách, nhưng cũng rất vẻ vang của các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau, là điểm kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai, là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, vươn lên trở thành nước phát triển. Chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được với tư duy đổi mới, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, giải pháp đột phá, cách làm hiệu quả, tổ chức thực hiện kịp thời, linh hoạt, hiệu quả. Tập trung hiện thực hoá những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước, từng cấp, từng ngành, mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, từng người dân Việt Nam cần phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, "dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung"; "đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện; đã làm, đã thực hiện là phải có hiệu quả, cân đong, đo đếm được"; quán triệt và thực hiện hiệu quả phương châm "Đảng chỉ đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi, làm việc nào ra việc đấy, làm việc nào dứt việc đó".

Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện rõ các nhiệm vụ, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực và cần được các cấp, các ngành, các địa phương triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả với tinh thần "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời hạn, rõ kết quả"; trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

1. Tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật để thực sự là "đột phá của đột phá", tạo động lực phát triển đất nước với tinh thần "chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh". Đặc biệt chú trọng tư duy đổi mới, kiến tạo phát triển, tạo ra không gian phát triển mới. Đổi mới, số hoá, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả của các loại thị trường; thực hiện đồng bộ các giải pháp để phục hồi, phát triển lành mạnh thị trường bất động sản và sớm nâng hạng thị trường chứng khoán. Quyết liệt sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng "Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả" gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần Nghị quyết 18-NQ/TW; có chính sách cụ thể, tạo thuận lợi cho cán bộ, công chức dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, thực hiện Đề án 06; thực hiện hiệu quả các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.

2. Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo; điều hành chủ động, kịp thời, linh hoạt, hài hoà, hiệu quả các chính sách tài khoá, tiền tệ để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là trong Nhân dân. Tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, nhất là các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; đồng thời tạo đột phá thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các ngành, lĩnh vực mới nổi như chíp bán dẫn, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây...

3. Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại; đẩy nhanh các dự án trọng điểm; kết nối hệ thống đường bộ cao tốc với sân bay, cảng biển; khẩn trương triển khai đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị; Phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc và trên 1.000 km đường bộ ven biển. Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng đô thị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao…; nghiên cứu, khai thác hiệu quả không gian ngầm, không gian biển, không gian vũ trụ.

4. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao, theo hướng xanh hoá, hiệu quả, bền vững; giảm chi phí logistics; đánh thức tiềm năng, phát triển mạnh các loại hình du lịch. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; xây dựng chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài; tham gia sâu rộng hơn vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

5. Xác định rõ và có cơ chế, chính sách, giải pháp đột phá cả ở tầm chiến lược và sách lược để nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đối số thực sự là quốc sách hàng đầu theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, tạo sự bứt phá, bay cao, vươn xa trong nỗ lực "bắt kịp, tiến cùng, tăng tốc, bứt phá và vượt lên", đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. Tập trung rà soát, có cơ chế, chính sách đột phá nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực, truyền cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Việt Nam xung kích đi đầu, vươn lên mạnh mẽ.

6. Chú trọng phát triển văn hóa hài hòa với kinh tế, xã hội; xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hoá, công nghiệp giải trí; xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam phát triển toàn diện; thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; chú trọng các chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy tinh thần "đạo pháp và dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo". Triển khai hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, phát triển văn hóa và phòng, chống ma tuý. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025"; phấn đấu sớm hoàn thành trên 100 nghìn căn nhà ở xã hội.

ĐỔI MỚI, SÁNG TẠO, TĂNG TỐC, BỨT PHÁ, ĐƯA ĐẤT NƯỚC VỮNG BƯỚC TIẾN VÀO KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH, PHÁT TRIỂN GIÀU MẠNH, VĂN MINH, THỊNH VƯỢNG CỦA DÂN TỘC- Ảnh 9.
Thủ tướng bấm nút khởi công Dự án nhà ở xã hội Golden Square Lào Cai, ngày 22/12/2024 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

7. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tiếp tục đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

8. Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh lưỡng dụng; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường các giải pháp kiềm chế tội phạm, phấn đấu kéo giảm 5% số vụ phạm tội về trật tự xã hội; bảo đảm trật tự an toàn giao thông; chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống cháy, nổ.

9. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, đan xen lợi ích. Nâng cao chất lượng tham mưu, dự báo chiến lược, chủ động ứng phó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi chưa lâm nguy. Thúc đẩy mạnh mẽ công tác ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, giao lưu nhân dân phục vụ phát triển đất nước.

10. Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông, nhất là truyền thông chính sách; tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo, gương người tốt, việc tốt. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo, dân vận, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH đề ra.

*

* *

Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2025 và thời gian tới là rất nặng nề. Phát huy những thành tựu đạt được sau gần 40 năm đổi mới; với tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, ý thức trách nhiệm cao, ý chí tự lực, tự cường của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đất nước ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã được thử thách qua lịch sử hào hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta sẽ tiếp tục tỏa sáng để đưa đất nước ta vươn lên tầm cao mới, đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn./.
-----------------------
[1] Theo xếp hạng Quỹ di sản (Heritage Foundation).

[2] Trong đó, dư nợ công khoảng 36-37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP.

[3] Năm 2024, Quốc hội đã thông qua 31 luật, 67 nghị quyết, chiếm hơn 40% tổng số luật, nghị quyết đã thông qua từ đầu nhiệm kỳ khóa XV đến nay; riêng Kỳ họp thứ 8 thông qua 18 luật và 21 nghị quyết.

[4] Trong đó có các dự án nhiệt điện Thái Bình 2, Vân Phong 1, Sông Hậu 1, Khí hóa lỏng Cái Mép - Thị Vải; chuỗi dự án điện khí điện Lô B - Ô Môn; các nhà máy đạm, nhà máy thép Việt - Trung…

[5] Theo báo cáo của Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UN).

[6] Theo Báo cáo của Liên Hợp Quốc (UN).

[7] Trong năm 2024 đã thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Australia, Pháp, Malaysia; Đối tác toàn diện với Mông Cổ, UAE, Đối tác chiến lược với Brazil; ký kết nhiều cam kết, thỏa thuận quốc tế trên tất cả các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, các cấp, các lĩnh vực./.