Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

Tổ chức khủng bố Việt Tân cố tình “tuyên truyền sai sự thật”

Ngày 01/12/2024 trên trang fanpage của tổ chức khủng bố Việt Tân có bài đăng với tựa đề “Tự do tôn giáo dưới chế độ XHCN hiện nay”.Trong bài viết có quan điểm  của Linh mục Anthony Nam“ Nhà cầm quyền Đăk Lak liên tục ngăn cản, lập biên bản việc các tín hữu tụ tập sinh hoạt tôn giáo theo đạo Tin Lành Đấng Christ Tây Nguyên, đông thời ép họ phải từ bỏ đạo”. Đây là luận điệu của những kẻ chống phá, xuyên tạc, hoàn toàn sai sự thật, hòng lừa bịp những người còn thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, hướng dư luận hiểu sai về quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Theo báo Công an nhân dân ra ngày 31/12/2022 với tựa đề “Sự thật về Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”. Trong bài viết cho hay: “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” (gọi tắt là CHPC) là một tổ chức phản động được đối tượng A Ga (FULRO lưu vong ở Mỹ) thành lập vào tháng 9/2020. A Ga đã tích cực liên kết với các tổ chức phản động nước ngoài khác như “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (gọi tắt là BPSOS) của Nguyễn Đình Thắng ở Mỹ, nhóm “Người Thượng đứng lên vì công lý” (gọi tắt là MSFJ) của Y Quynh Bdăp ở Thái Lan nhằm phục vụ cho mưu đồ chính trị của mình. Bề ngoài, “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên” là tổ chức sinh hoạt tôn giáo bình thường như các tổ chức tôn giáo khác với các hoạt động hát thánh ca, cầu nguyện và chia sẻ kinh thánh. Tuy nhiên, mục đích chính của tổ chức này là tập hợp tín đồ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và số đối tượng phản động người Việt lưu vong, lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chống phá chính quyền, đòi thành lập “nhà nước riêng, tôn giáo riêng” cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, thời gian qua đã có một số đối tượng tích cực tham gia vào hoạt động của tổ chức trên với vai trò cốt cán, chủ chốt, chúng tích cực trong việc thực hiện âm mưu, ý đồ phá hoại của CHPC. Đáng chú ý, trong số các đối tượng cầm đầu, Y Krếc Byă (tên thường gọi là Ama Guôn, sinh năm 1978, trú tại Buôn K’nia 2, xã Ea Bar, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk) với chức vụ được các đối tượng phản động bên ngoài tự phong cho là Phó Ban điều hành “Hội thánh Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”. Y Krếc là đối tượng FULRO, đã từng bị xử phạt 8 năm tù giam về “Tội phá hoại chính sách đoàn kết” nhưng ra tù vẫn không chịu tu chí hoàn lương. Từ năm 2012 đến đầu năm 2023, Y Krếc lại nghe theo sự chỉ đạo, kích động, xúi giục của Y Hin và A Ga là hai đối tượng phản động FULRO lưu vong đang ở Mỹ; lôi kéo một số đối tượng khác trong nội địa tiến hành những âm mưu, hoạt động phá hoại chính sách đoàn kết; tham gia, tổ chức hàng trăm buổi họp, tập huấn trực tuyến với các đối tượng FULRO lưu vong bên ngoài để nhận sự chỉ đạo và thu thập những thông tin, hình ảnh, tài liệu một chiều, sai sự thật... Với những việc làm chống lại khối đại đoàn kết  toàn dân tộc, ngày 28/3/2024, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên phạt 13 năm tù giam về tội  “Phá hoại chính sách đoàn kết” đối với bị cáo Y Krếc Byă theo Điều 116, BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

Qua những hoạt động sai trái của tổ chức phản động “Hội thánh tin lành đấng Christ Tây Nguyên” cho thấy quản điểm của Linh mục Anthony Nam là hoàn toàn sai với sự thật, là xuyên tạc, đổi trắng thay đen để vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo tạo nên sự ngờ vực, trộn lẫn đúng sai làm người dân trong và ngoài nước hiểu sai về sự minh bạch của pháp luật Việt Nam. Do vậy, chúng ta cần lên án và phê phán mạnh mẽ các hành vi “đổi trắng thay đen” của cá nhân, tổ chức phản động trong và ngoài nước. Đồng thời cũng cảnh tỉnh người đọc cần phải tìm hiểu chính xác các nguồn thông tin từ nhiều hướng để có góc nhìn chính xác trước các sự việc không để kẻ xấu lợi dụng.

Sưu tầm

Những giải pháp từ chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Những giải pháp từ chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại những chỉ dẫn quan trọng, có giá trị nền tảng định hướng cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, bao gồm: 

Một là, nêu cao và phát huy sức mạnh của đạo đức cách mạng, giải quyết tốt vấn đề lợi ích.

Trước sự khó khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(26). Cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “thực sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó” bởi liên quan đến lợi ích của nhiều cơ quan, đơn vị và cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại chỉ dẫn rất quan trọng: Gốc rễ của bộ máy kềnh càng, biên chế phình to là chủ nghĩa cá nhân - “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết... chỉ muốn “mọi người vì mình”(27). Trở lực chính của cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay cũng là chủ nghĩa cá nhân. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân sẽ triệt tiêu “điểm nghẽn” chính của cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy. “Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”(28). Vận dụng chỉ dẫn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh phẩm chất đạo đức dĩ công vi thượng: “tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu”(29)

Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nhất định phải gắn liền với quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Nêu cao tinh thần chí công vô tư, đặt lợi ích của đất nước và nhân dân lên trên lợi ích riêng của từng bộ phận, cá nhân với tinh thần khẩn trương “càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước” như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm. Tuy nhiên, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là xóa bỏ lợi ích cá nhân chính đáng. Mỗi cơ quan, đơn vị phải thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động có thể bị ảnh hưởng do sắp xếp lại tổ chức, bộ máy theo tinh thần minh bạch, khách quan, kịp thời.

Hai là, huy động và tổ chức tốt lực lượng thực hiện.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chúng ta tất cả mọi người, bất kỳ ở một chức vụ nào, cao hay thấp, to hay nhỏ, tất cả mọi người làm thành một bộ máy”(30); do vậy, xây dựng tổ chức bộ máy là việc chung của tất cả. Hồ Chí Minh yêu cầu “các địa phương sẽ thi đua với nhau, Trung ương sẽ thi đua với địa phương, làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(31). Sức mạnh tổng hợp của hệ thống là yếu tố quyết định đến thực hiện chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”.

Cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy hiện nay phải bảo đảm sự tham gia thực hiện của toàn hệ thống chính trị. Nêu cao tinh thần triệt để chấp hành, chỉ bàn làm, không bàn lùi; khẩn trương thực hiện, không trông chờ. Huy động được sức mạnh của toàn hệ thống, tổ chức phát động cao điểm thi đua giữa các cơ quan, đơn vị, giữa các địa phương, giữa Trung ương và địa phương. Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra yêu cầu: “đề nghị các cấp, các ngành từ Trung ương tới cơ sở phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong thực hiện chủ trương này... Các đồng chí cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan cần gương mẫu, chủ động, quyết liệt trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”; “Trung ương không chờ cấp tỉnh, cấp tỉnh không chờ cấp huyện, cấp huyện không chờ cơ sở”; “Trung ương làm gương, địa phương hưởng ứng”. Từng cấp, từng ngành bám sát kế hoạch để tổng kết và đề xuất mô hình cơ quan, đơn vị mình bảo đảm đúng tiến độ”(32).

Dựa vào nhân dân để tiến hành cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Toàn bộ hệ thống chính trị, nhất là các quan báo chí, truyền thông, phải đẩy mạnh tuyên truyền rõ mục tiêu tinh gọn bộ máy để nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân. Hiện nay, đông đảo nhân dân đang ủng hộ, hưởng ứng chủ trương của Đảng, tạo nên động lực tinh thần to lớn cổ vũ thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy. Bên cạnh đó, cần quan tâm chăm lo và phát huy vai trò của gia đình cán bộ, công chức chịu ảnh hưởng của công cuộc tinh gọn tổ chức bộ máy, sớm ổn định cuộc sống.  

Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới với kế thừa, ổn định và phát triển, giữa sắp xếp bộ máy và tinh giản biên chế.

Cách mạng luôn là quá trình không ngừng đổi mới phát triển trên nền tảng kế thừa các giá trị đã được xác lập. Từ thực tiễn lãnh đạo xây dựng bộ máy tinh gọn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết: phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới và kế thừa, nghĩa là giữa những cái đã có với cái mới. Tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một cuộc cách mạng, do vậy phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới và kế thừa. Tinh thần được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu cao là quyết liệt, mạnh mẽ phải gắn liền với thận trọng, chắc chắn, giữ vững nguyên tắc, vì vậy cần chú trọng: Chỉ kết thúc hoạt động, điều chuyển, sắp xếp những vị trí chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, chia cắt về địa bàn, các tầng nấc trung gian; các vị trí đang phù hợp và phát huy tốt thì giữ và nâng chất; chỉ thành lập mới các cơ quan, đơn vị khi thật sự cần thiết; gắn chặt chẽ giữa sắp xếp bộ máy với tinh giản biên chế; thực hiện phương châm sắp xếp bộ máy trước, điều chỉnh biên chế gắn với sắp xếp. Tinh giản biên chế theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giảm số lượng nhưng tăng năng suất. Thực hiện tốt việc đánh giá cán bộ để “giản” đúng đối tượng, từ đó giúp “giản” nhưng bộ máy phải tinh. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh những biểu hiện bè phái, cánh hẩu, cục bộ loại trừ người có năng lực để giữ người kém dẫn đến biên chế bộ máy gọn nhưng không tinh. Ban chỉ đạo ở mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương phải chịu trách nhiệm trước các yếu kém, sai phạm, tiêu cực trong thực hiện tinh gọn bộ máy.

Bốn là, tinh gọn tổ chức bộ máy gắn liền với hoàn thiện thể chế hệ thống chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc đến sự phân công và phối hợp như là nền tảng hình thành bộ máy, là điều kiện để xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn. Việc tiến hành cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị phải gắn liền với hoàn thiện thể chế tương ứng. Phát huy trí tuệ của toàn hệ thống chính trị và nhân dân để sớm xây dựng được khung thể chế mô hình tổng thể tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam, đáp ứng được những yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Rà soát lại toàn bộ các quy định hiện có để ban hành mới, điều chỉnh, bổ sung các quy định phù hợp với mô hình sắp xếp mới. “Tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”, Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát và cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. Quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước, bảo đảm sự phân biệt rõ cấp ban hành chủ trương, chính sách, pháp luật với cấp tổ chức thực hiện”(33).

Thời cơ vươn mình của dân tộc đòi hỏi phải khẩn trương thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, không chỉ phải chủ động, quyết liệt theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”, mà còn phải chắc chắn và hiệu quả. Càng đứng trước “vấn đề khó, thậm chí rất khó” càng phải thấm nhuần những bài học sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này./.

Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “không thể chậm trễ hơn được nữa”

 Cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “không thể chậm trễ hơn được nữa”

Các thành tố của hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Do vậy, trong giai đoạn đầu, tổ chức bộ máy mang những đặc điểm của hệ thống chính trị trong điều kiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc, mang đậm nét của bộ máy “chuyên chính vô sản”. Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống chính trị được đổi mới xây dựng gắn liền với sự vận động, phát triển của đất nước: “Hệ thống tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội được đổi mới; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của từng tổ chức được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị cơ bản ổn định, phù hợp với Cương lĩnh và Hiến pháp; bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(21). Tuy nhiên sau gần 40 năm đổi mới, “tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ… gây lãng phí và kìm hãm sự phát triển, là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều chủ trương, chính sách của Đảng chậm đi vào thực tiễn cuộc sống hoặc một số chủ trương không được triển khai hoặc triển khai hình thức trên thực tế”(22)

Sự nghiệp đổi mới mang lại cho đất nước cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như hiện nay. Đó là nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao) và 100 thành lập nước (trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao). Một trong bảy định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc được Tổng Bí thư Tô Lâm nêu rõ là tinh gọn tổ chức bộ máy để hệ thống chính trị mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.

Nhận thấy tầm quan trọng của xây dựng, kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, Đảng ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, “So với những thay đổi to lớn của đất nước sau 40 năm đổi mới, sự phát triển của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và những thành tựu khoa học - công nghệ; tổ chức bộ máy hệ thống chính trị nước ta tuy đã được đổi mới ở một số bộ phận, nhưng cơ bản vẫn theo mô hình được thiết kế từ hàng chục năm trước, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới là trái với quy luật phát triển”(23)

Đất nước đang đứng trước kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. “Những tồn tại, hạn chế, sự chậm chạp, thiếu quyết liệt trong thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng”, dẫn đến cản trở, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước(24). Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Thời điểm 100 năm đất nước ta dưới sự lãnh đạo Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực phi thường, những cố gắng vượt bậc, mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi; muốn vậy cần khẩn trương thực hiện cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị”(25); càng làm sớm càng có lợi cho dân, cho nước, không thể chậm trễ hơn được nữa.

Bộ máy phải tinh gọn để “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”

 Bộ máy phải tinh gọn để “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện và để lại dấu ấn sâu đậm trong quá trình hình thành và phát triển tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việt Nam. Bề dày thực tiễn kết tinh nên hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, trong đó nổi bật là những chỉ dẫn về “tinh gọn” để bộ máy mạnh mẽ và sáng suốt, “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”.

Tinh gọn bộ máy không phải là một sách lược chính trị, cách thức cải tiến tổ chức tạm thời mà là công việc thường xuyên, có tính quy luật để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Sự quan tâm liên tục của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy ý nghĩa chiến lược của xây dựng bộ máy tinh gọn đối với hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; qua đó, tác động to lớn đến tiến trình vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bộ máy phải tinh gọn là yêu cầu có tính nguyên tắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán nhấn mạnh trong toàn bộ quá trình hơn hai thập niên trực tiếp lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị của chế độ dân chủ cộng hòa. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, yêu cầu bộ máy phải tinh gọn thể hiện gián tiếp qua những đề cập rất chi tiết của Người về cách tổ chức, hoạt động của chính quyền trong một số bài viết(2). Trong thời gian dài sau đó, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu: “Cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới làm cho nó gọn gàng, hợp lý…”(3). Tư tưởng và thực tiễn đó khẳng định tính chất to lớn, quan trọng, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược của việc tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị.

Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của hoạt động tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị. “Nước ta là nước dân chủ,… Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”; “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”(4). Do vậy, “Chính phủ và Đảng… bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm…”(5). Tinh gọn bộ máy để nhân dân bớt gánh nặng “nuôi” hệ thống chính trị, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả để “làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”(6). Những nội dung này phản ánh quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò động lực của nhân dân. Tinh gọn bộ máy không phải từ nhu cầu lợi ích tự thân của riêng hệ thống chính trị, mà cội nguồn khởi phát và thúc đẩy hoạt động tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị là nhu cầu của nhân dân với tư cách là chủ và làm chủ; là sự tham gia vào xây dựng tổ chức bộ máy của chế độ mới; là sự giám sát và tiếng nói phản ánh, phê bình của nhân dân đối với các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị. Dựa vào dân là bài học thắng lợi của xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Nhận diện và giải quyết tốt vấn đề lợi ích là yếu quyết để tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng lợi ích chung, song cũng quan tâm đến lợi ích riêng của mỗi cơ quan và cá nhân trong hệ thống chính trị. Người phát huy triệt để sự tương đồng, thống nhất; lợi ích của nội bộ hệ thống chính trị và lợi ích của nhân dân chẳng những không khác biệt, mâu thuẫn, mà còn hòa quyện thống nhất, bởi: “…không có cái lợi ích nào của Đảng mà không phải là lợi ích của nhân dân, hay ngược lại không có lợi ích nào của nhân dân mà không phải là lợi ích của Đảng”(7). Lợi ích của cơ quan, đơn vị trong bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn là “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của”; “mọi người đều có công việc thiết thực”(8). Tinh gọn bộ máy là động lực thúc đẩy mỗi cán bộ nỗ lực vươn lên “thi đua nâng cao năng suất của mình”(9), đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển chung. Vươn lên phát triển là lợi ích to lớn mà hoạt động tinh gọn tổ chức bộ máy mang lại cho mỗi cơ quan, đơn vị và cá nhân trong hệ thống chính trị. Tinh gọn tổ chức bộ máy mang lại lợi ích chung cho đất nước và nhân dân thông qua mang lại lợi ích phát triển cho mỗi cá nhân và đơn vị trong hệ thống chính trị. 

Tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là quá trình thực hiện đồng bộ giữa xây và chống. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem tinh gọn bộ máy là quá trình “chỉnh đốn và kiện toàn”. Động lực chủ yếu của xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn là ngăn chặn, phòng trừ các nguy cơ, biểu hiện quan liêu, tiêu cực, xa dân gây ảnh hưởng đến bản chất quyền lực thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến những biểu hiện tiêu cực này để khẳng định yêu cầu phải tinh gọn tổ chức bộ máy: “Từ các bộ, các ngành và các địa phương, bộ máy đều quá cồng kềnh và càng ngày càng phình ra. Vì vậy mà sinh ra quan liêu, lãng phí”(10); “bộ máy cồng kềnh, nhiều giấy tờ, hình thức... Từ cấp trên xuống cấp dưới, công việc chậm trễ, nhiều khi không ăn khớp. Chúng ta phải sửa chữa các khuyết điểm kể trên, coi trọng và thật sự kiện toàn chính quyền dân chủ nhân dân về các mặt công tác, tổ chức, cán bộ”(11). Kết quả của quá trình chỉnh đốn này là bộ máy được thiết kế và vận hành “gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân”. Tóm lại, tinh gọn tổ chức bộ máy là “một cuộc sửa chữa, lau chùi, thêm dầu mỡ, thau nước… làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(12).

Việc bảo đảm tính hệ thống, tính kế thừa trong một chỉnh thể thống nhất vừa là yêu cầu, vừa là mục đích của tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, bộ máy là một chỉnh thể với sự phân công và phối hợp thông suốt: “Một bộ máy là do nhiều thứ máy to nhỏ lắp lại. Các máy ấy đều ăn khớp với nhau, thì bộ máy tốt và sản xuất nhiều. Nếu chỉ một cái máy nhỏ không ăn khớp, thì cũng đã ảnh hưởng xấu đến toàn cả bộ máy”(13). Tinh gọn bộ máy không phải là phá vỡ hệ thống, không phải là “đập đi xây mới” hoàn toàn theo nghĩa phủ định sạch trơn. Người nhấn mạnh: “chỉnh đốn và kiện toàn” là càng để nâng cao tính thống nhất, bảo đảm cho “các máy ấy đều ăn khớp với nhau”. Theo Người, cách mạng là bỏ cái cũ tạo ra cái mới với điều kiện cái cũ lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp và cái mới thì tiến bộ, phù hợp. Với tinh thần đó, phương châm thể hiện trong thực tiễn lãnh đạo xây dựng tổ chức máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trên cơ sở cái đã có những gì tốt, phù hợp thì giữ và phát huy, bộ phận nào kềnh càng, không phù hợp, lãng phí thì sắp xếp.

Tính toàn diện được thể hiện rõ nét trong tư tưởng và thực tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trên hai khía cạnh chủ yếu. Về nội dung, hệ thống chính trị phải được tinh gọn cả về bộ máy và nhân sự. Tiến hành sắp xếp, bố trí cơ quan, đơn vị trong hệ thống sao phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước. Trước câu hỏi “Sao bây giờ lại chỉ có 10 bộ?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: “Vì nước mình nhỏ nên không cần nhiều bộ”(14). Nhận thấy “từ các bộ, các ngành và các địa phương, bộ máy đều quá cồng kềnh và càng ngày càng phình ra”, Người kiên quyết yêu cầu phải sắp xếp lại cho gọn gàng và hợp lý hơn. Về nhân sự, tiến hành sắp xếp và tinh giản. Căn cứ vào việc để sắp xếp, điều chuyển nhân sự sao “cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc thiết thực, những người thừa phải đưa đi chỗ thiếu”. Về nhân sự, “thực hành chấn chỉnh biên chế, để bớt sự đóng góp cho dân và thêm lực lượng vào công việc tăng gia sản xuất”(15). Theo Người, tinh giản là “nâng cao năng suất, giảm bớt số người”: “tinh là đưa năng suất lên cao, làm cho mau cho tốt, giản là vừa phải, không kềnh càng, tránh hình thức”. Mặt khác, tinh gọn tổ chức bộ máy phải được thực hiện cả từ trên xuống lẫn từ dưới lên với sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chấn chỉnh bộ máy chính quyền từ dưới lên trên, bắt đầu từ xã; dưới làm lên trên, trên làm xuống dưới, tự nhiên mọi việc sẽ thành”(16); “các địa phương sẽ thi đua với nhau, Trung ương sẽ thi đua với địa phương, làm cho bộ máy ấy chạy nhanh hơn, đều hơn, để đi mau đến thắng lợi hoàn toàn”(17). Đó là tính toàn diện trong quan điểm về lực lượng và phương thức thực hiện tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị.

Đạo đức cách mạng là “sức mạnh” để tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, gốc tích của bộ máy kềnh càng là do chủ nghĩa cá nhân: “Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra bệnh quan liêu. Kềnh càng. Kiêu ngạo. Chậm chạp. Làm cho qua chuyện. Ham chuộng hình thức”(18). Bệnh bè phái, cục bộ địa phương, trưng diện hình thức, phô trương lãng phí cũng được nhắc đến như là nguyên nhân dẫn đến biên chế phình to quá mức so với yêu cầu thực tế: “Những cơ quan tổ chức kềnh càng không hợp lý, việc ít người nhiều, tốn kém cho công quỹ một cách vô ích. Hoặc ham chuộng hình thức, trưng diện cho sang, phô trương, lãng phí”(19). Trở lực lớn nhất ngăn cản tinh gọn tổ chức bộ máy là chủ nghĩa cá nhân. Sức mạnh nền tảng để “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” là tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần chí công vô tư, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy “phải gột rửa sạch những bệnh quan liêu, mệnh lệnh, hình thức, phải luôn luôn đi sát với quần chúng, phải thực hành cần, kiệm, liêm, chính”(20). Xét cho cùng, tinh gọn tổ chức bộ máy cũng chính là quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “dĩ công vi thượng” của đội ngũ cán bộ, đảng viên. 

Mỗi cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.

 Với vai trò là một đảng duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua tổ chức đảng và đảng viên. Trong đó, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với nhân dân; đội ngũ đảng viên là thành viên của tổ chức cơ sở đảng, là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về đạo đức phải bắt đầu từ mỗi cán bộ, đảng viên, để mỗi cán bộ, đảng viên thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, tiêu biểu cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.


Cho đến nay, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên luôn giữ vững và thể hiện rõ phẩm chất đạo đức cách mạng; nêu cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có ý thức rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng, góp phần quan trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên. Tuy nhiên, trước những tác động tiêu cực cùng sự cám dỗ từ mặt trái của cơ chế thị trường, một số cán bộ, đảng viên đã không giữ được phẩm chất đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân; có biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, dẫn đến phai nhạt lý tưởng cách mạng, vi phạm nguyên tắc kỷ luật đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

Vì vậy, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự giáo dục, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; thực hiện thường xuyên, sâu rộng việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị; tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức, góp phần xây dựng Đảng về đạo đức trong giai đoạn cách mạng mới, cụ thể:

Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò đặc biệt quan trọng, vấn đề cấp bách của công tác xây dựng Đảng về đạo đức, xem đó là trụ cột, là “nền tảng”, là “cái gốc” của công tác xây dựng Đảng trong mối quan hệ với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, để Đảng ta mãi là một Đảng chân chính, “là đạo đức, là văn minh”, mỗi cán bộ, đảng viên ngày càng trưởng thành hơn, xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Theo Người, đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Vì thế, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, phải “tự soi, tự sửa” hằng ngày mới ngăn chặn đẩy lùi các biểu hiện: Phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Đạo đức của Đảng ta là đạo đức cách mạng, đạo đức mang bản chất giai cấp công nhân, kế thừa các giá trị đạo đức của dân tộc Việt Nam trong lịch sử, đồng thời tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại. Vì vậy, tăng cường xây dựng Đảng về đạo đức đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định công cuộc đổi mới và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; liên hệ mật thiết với nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, ý thức tự giác; nói đi đôi với làm; nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình; có lối sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, tham nhũng, không đặc quyền đặc lợi; bảo vệ uy tín, thanh danh, sức chiến đấu của Đảng mọi lúc, mọi nơi.

Hai là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc Quy định 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới: Tinh thần yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời. Các chuẩn mực nêu trên rất toàn diện, nhưng cũng rất ngắn gọn, súc tích, cụ thể, quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành “sợi chỉ đỏ” liên kết các yếu tố hợp thành phẩm chất, năng lực, phong cách của cán bộ, đảng viên; là thước đo nhân cách, thái độ, hành vi, tác phong công tác mà mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện hằng ngày; là cơ sở để Đảng lựa chọn những cán bộ, đảng viên có đủ đức, đủ tài đảm nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong giai đoạn cách mạng mới.

Thực hiện chuẩn mực đạo đức cách mạng vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên. Vì thế, trong tư duy và hành động, mỗi cán bộ, đảng viên phải đem tinh thần chí công vô tư mà xử trí mọi việc, với mọi người và chính bản thân mình; phải nhận thức sâu sắc bổn phận và trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được tổ chức phân công. Cán bộ, đảng viên cần chủ động ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tha hóa đạo đức, lối sống ích kỷ, cá nhân, thực dụng, cơ hội, hám danh, tham nhũng, lãng phí, mất đoàn kết, quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân. Phải rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, vững vàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nêu cao danh dự, lòng tự trọng; không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng; tự mình phòng, tránh chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, xây đi đôi với chống.

Ba là, các cán bộ, đảng viên trong quân đội là lực lượng nòng cốt, trụ cột của quân đội, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo, chỉ huy các cấp và thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu trong các cơ quan, đơn vị. Vì thế, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải làm tốt vai trò gương mẫu, nêu gương về đạo đức cách mạng, lấy đó làm nền tảng để xây dựng chuẩn mực đạo đức cho mọi quân nhân, qua đó góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, xây dựng Đảng bộ Quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, “mẫu mực, tiêu biểu”.

Với chức năng và nhiệm vụ có tính đặc thù của cán bộ, đảng viên trong quân đội, nên giá trị cao nhất về chuẩn mực đạo đức là: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Giá trị chuẩn mực đạo đức cao đẹp ấy trở thành đặc trưng của “Bộ đội Cụ Hồ”, là cội nguồn tạo nên sức mạnh để Quân đội nhân dân Việt Nam hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.

Để làm tốt vai trò gương mẫu, nêu gương thực hiện các chuẩn mực đạo đức, cán bộ, đảng viên trong quân đội phải thường xuyên rèn luyện lối sống trong sạch, lành mạnh, có phương pháp, tác phong công tác khoa học; rèn luyện cách sống, nếp sống tự soi, tự sửa, tự chỉnh đốn, tự mình phải liêm chính, chí công, vô tư; có sức cảm hóa, thuyết phục đối với cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị; chấp hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và cương lĩnh, điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội; có sức đề kháng và khả năng miễn dịch tốt, ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan của những hiện tượng thiếu văn hóa; giữ vững và phát triển nền tảng đạo đức, văn hóa Việt Nam - sức mạnh nội sinh, động lực tinh thần to lớn bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946 - cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam

 Tròn 79 năm trước - ngày 6 tháng 1 năm 1946 - cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam diễn ra chỉ 124 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử đất nước, đồng bào ta, không phân biệt giai cấp, giới tính, tôn giáo, trực tiếp cầm lá phiếu bầu ra những đại biểu ưu tú, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của mình lập thành Quốc hội. Sự kiện vẻ vang này không chỉ kết tinh khát vọng và bản lĩnh quật cường vì độc lập, tự do mà còn thể hiện tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc và phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại.

Và, Quốc hội Khóa I ra đời, với 333 đại biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân, các vùng miền và các tổ chức chính trị, xã hội trên dải đất Việt Nam độc lập, tự do. Quốc hội Khóa I không chỉ ban hành Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên đặt nền móng cho hệ thống chính trị dân chủ, pháp quyền, quyết định các chính sách lớn, xây dựng nền tảng cho sự phát triển của đất nước mà thật sự là nơi hội tụ và khẳng định ý chí, tiếng nói và sức mạnh của toàn thể Nhân dân suốt 79 năm qua. Đây là sự kiện lịch sử bằng vàng trên con đường nước ta xây dựng nền dân chủ cộng hòa, dưới ngọn cờ của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước thềm Xuân Ất Tỵ năm 2025, trên nền tảng đất nước sau 79 năm kể từ ngày Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội khóa đầu tiên, tổng kết chặng đường lịch sử vẻ vang, nhân lên sức mạnh toàn diện không ngừng của Quốc hội, tổng kết 40 năm công cuộc đổi mới toàn diện, đồng bộ, phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nắm chắc thời cơ, đón lấy vận hội, “Tìm con đường ngắn nhất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm, vì hoài bão Tổ quốc hùng cường, Nhân dân hạnh phúc, Việt Nam nhịp bước tiến cùng thời đại./.

Mục tiêu của kỷ nguyên mới



Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc. 

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Những vấn đề đã được đề cập ở trên là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN

 Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Hướng đến thực hiện thành công mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hệ thống pháp luật cần tiếp tục được hoàn thiện hơn nữa với nhiều giải pháp mạnh mẽ, phù hợp; cụ thể là cần thực hiện tốt những giải pháp sau:

Một là, tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý.

Tư duy của con người - đặc biệt là lý luận khoa học - có sức mạnh to lớn trong thay đổi hiện thực thông qua hoạt động thực tiễn. Về vai trò của tư duy, lý luận khoa học, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin từng khẳng định: “… lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó xâm nhập vào quần chúng”(11) và “Ý thức con người không phải chỉ phản ánh thế giới khách quan, mà còn tạo ra thế giới khách quan”(12). Nhận thức đúng đắn và tình cảm tích cực, từ đó hành động phù hợp với quy luật khách quan sẽ thúc đẩy điều kiện vật chất phát triển. Hiện nay, các quan hệ xã hội phát triển, biến động nhanh, đa đạng, đa chiều, phức tạp, nguồn thông tin phong phú, trình độ dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng được phát huy, đòi hỏi chất lượng xây dựng thể chế, pháp luật phải được nâng cao với tư duy mới. Do vậy, để hoàn thiện pháp luật đáp ứng mục tiêu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần tiếp tục đổi mới tư duy pháp lý theo tinh thần “tư duy sớm”, “tầm nhìn xa”, “4 kiên định, 5 tăng cường”. Trong đó:

+ “4 kiên định” đã được Đảng ta chỉ ra, gồm: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng, để Đảng thực hiện tốt vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, trong đó có công tác lãnh đạo Nhà nước tổ chức xây dựng, hoàn thiện pháp luật(13).

+ “5 tăng cường” gồm: tăng cường tư duy kiến tạo phát triển; tăng cường tư duy phát triển nhanh và bền vững; tăng cường tư duy hoàn thiện pháp luật phù hợp đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa; tăng cường tư duy “mở” trong tiếp nhận sáng kiến chính sách, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập; tăng cường tư duy bình đẳng, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

Như vậy, đổi mới tư duy xây dựng pháp luật là nhằm tạo lập hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo, khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. 

Hai là, giải pháp về hoạch định chính sách. 

Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạch định chính sách để góp phần nâng cao chất lượng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Chính sách công có các dạng biểu hiện cụ thể, trong đó phổ biến là thể hiện qua các văn bản quy phạm pháp luật. Hoạch định chính sách có chất lượng là yếu tố quyết định đến chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, đổi mới các khâu trong quy trình hoạch định chính sách phù hợp với yêu cầu quản trị quốc gia theo hướng hiện đại. Các chính sách nếu hoạch định theo quy trình phổ biến trong mô hình quản lý truyền thống, tức là về cơ bản khép kín, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cũng như tính đại diện, tính bao trùm, tính trách nhiệm, tính đáp ứng của chính sách. Về phương diện lý thuyết, quản trị quốc gia hiện đại có một số khác biệt so với quản lý truyền thống, trong đó có sự khác biệt trong quy trình hoạch định chính sách công. Về phương diện thực tiễn, quản trị quốc gia theo hướng hiện đại thể hiện ở tính “mở” của quy trình hoạch định chính sách. Theo đó, việc hoạch định chính sách không chỉ bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của xã hội và người dân, mà còn coi trọng phát huy vai trò và sự tham gia của xã hội và công dân, trong đó có việc phát huy vai trò tư vấn, phản biện chính sách của các tổ chức tư vấn (think tank). Trong quy trình hoạch định chính sách, Nhà nước tiếp nhận, thu thập một cách rộng rãi các thông tin, tri thức của cá nhân, tập thể và các tổ chức tư vấn, tăng cường tính bao trùm của chính sách, tránh sai lầm về các quyết định, góp phần nâng cao chất lượng chính sách. 

Thứ ba, tăng cường truyền thông chính sách ngay từ khi xuất hiện các sáng kiến chính sách, truyền thông trong quá trình hoạch định và khi một chính sách đã được ban hành để góp phần làm cho các đối tượng chính sách hiểu, tham gia thực hiện chính sách thống nhất; đồng thời, có đủ thông tin góp phần không ngừng hoàn thiện chính sách.

Thứ tư, thực hiện tốt việc đánh giá tác động chính sách, tạo cơ sở khoa học, thuyết phục, nâng cao chất lượng sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật.

Thứ năm, có biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa, kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm, các xu hướng cực đoan trong hoạch định chính sách, như: lồng ghép lợi ích cục bộ, tham nhũng chính sách trong xây dựng pháp luật; xa rời chủ trương, đường lối của Đảng; các chính sách cản trở sự phát triển; các chính sách làm phức tạp về thủ tục, tăng chi phí tuân thủ; các mục tiêu của chính sách mâu thuẫn; các chính sách có mục tiêu quá tham vọng; các chính sách phiến diện, không bảo đảm tính bao trùm, không được sự đồng thuận của đối tượng chính sách; xử lý nghiêm mọi hành vi tham nhũng, tiêu cực, “cài cắm” lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ trong dự thảo luật, nghị quyết của Quốc hội theo Quy định số 178-QĐ/TW, ngày 27-6-2024, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật”.

Ba là, giải pháp về ban hành văn bản quy phạm pháp luật và hoàn thiện hệ thống pháp luật cả về nội dung, hình thức, kỹ thuật.

Thứ nhất, có giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kịp thời thể chế hóa toàn diện, đầy đủ các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng vào chính sách, pháp luật. Có cơ chế phối hợp triển khai và có cơ chế kiểm tra, giám sát, phát hiện các thiếu sót, chậm trễ, sai khác (nếu có) trong quá trình xây dựng, hoàn thiện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục hoàn thiện các chế tài phù hợp, bảo đảm cơ chế áp dụng trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý để xử lý các vi phạm.

Thứ hai, bảo đảm hoàn thiện hệ thống pháp luật toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó, có ưu tiên trọng tâm, trọng điểm trong điều kiện còn nhiều văn bản cần ban hành, sửa đổi, bổ sung, theo tinh thần phản ứng nhanh trước thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo động lực mạnh cho phát triển nhanh và bền vững đất nước, khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của xã hội. Trong từng giai đoạn phát triển, cần bám sát thực tiễn, nắm bắt nhu cầu; từ đó, có chương trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật phù hợp và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết.

Trong giai đoạn hiện nay, cần xác định đúng, trúng các trọng tâm, trọng điểm để xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Dựa trên những nhận diện về 3 điểm nghẽn, 7 định hướng chiến lược(14), trong thời gian tới, cần chú ý các trọng tâm, trọng điểm sau đây để xây dựng, hoàn thiện pháp luật: 

+ Pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo tinh thần của đổi mới hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, bảo đảm cơ sở pháp lý cho “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và “Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát”(15).

+ Pháp luật về quyền con người trong bối cảnh hội nhập; pháp luật về phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng; pháp luật nhằm tháo gỡ điểm nghẽn về nhân lực, trong đó có công tác cán bộ của hệ thống chính trị.

+ Pháp luật về kinh tế theo tinh thần kiến tạo phát triển nhằm khơi thông nguồn lực, phát triển bền vững; tháo gỡ điểm nghẽn hạ tầng; pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, bảo đảm an toàn trong xã hội số.

Thứ ba, cần tiếp tục đổi mới quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng hiện đại hơn nữa, dựa trên lợi thế của công nghệ trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tăng cường minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường đổi mới sáng tạo.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật ở cấp độ trung ương và địa phương trên cơ sở tham khảo cách đánh giá về thể chế trong các bộ chỉ số như: Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và cấp tỉnh (PII), Chỉ số cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI)…; đồng thời, bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 27-NQ/TW với các yêu cầu của hệ thống pháp luật như: dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. 

Thứ năm, đồng lòng, nhất quán, kiên trì, quyết liệt tháo gỡ các vướng mắc khó khăn về pháp lý hiện đã nhận diện được, gồm cả những khó khăn vướng mắc trong văn bản quy phạm pháp luật và khó khăn vướng mắc trong tổ chức thực hiện pháp luật.

Hướng tới 100 năm thành lập Đảng, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), để đất nước tự tin, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cần nhiều nỗ lực hơn nữa, tranh thủ, khơi thông các nguồn lực, không bỏ lỡ cơ hội, nhận diện và vượt qua thách thức. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN chính là một trong những nhiệm vụ, giải pháp hết sức quan trọng, cấp thiết./.

Những thời cơ và thách thức đối với chúng ta trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

 Trong công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua, những thành tựu mà chúng ta đạt được là rất to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 5,9%). Nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu kém từ các năm trước đã được tập trung giải quyết và đạt những kết quả bước đầu. Chất lượng tăng trưởng cải thiện; kinh tế vĩ mô ổn định khá vững chắc; lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp; các cân đối lớn của nền kinh tế tiếp tục được bảo đảm và có bước cải thiện; kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước được tăng cường. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh, hiệu quả sử dụng nâng lên. Cán cân thương mại được cải thiện; xuất khẩu tăng nhanh. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, thực hiện ba đột phá chiến lược đạt được những kết quả quan trọng. Môi trường đầu tư, kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân cải thiện rõ rệt. Uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được củng cố; Việt Nam giữ một vị trí quan trọng trong việc tái cấu trúc chuỗi cung ứng trên thế giới; một điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thế giới; nhất là trong quá trình chuyển dịch sản xuất hiện nay trên thế giới. Việt Nam tái đắc cử Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021, với số phiếu gần như tuyệt đối, 192/193 phiếu. Việt Nam cũng trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025… Những thành tựu này khẳng định uy tín của Việt Nam và tạo điều kiện thuận lợi để đất nước ta bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật. Nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong phòng, chống đại dịch COVID-19 đã đem lại kết quả tích cực; dịch bệnh bị đẩy lùi, kinh tế khôi phục, phát triển nhanh chóng trở lại, đời sống của nhân dân giữ được ổn định, nhất là khi kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng của các cuộc xung đột trên thế giới, lạm phát, suy thoái kinh tế ở các nước là thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu… Nhiều chỉ số quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện và vươn lên trên các bảng xếp hạng quốc tế, như Top 30 các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới năm 2022; xếp vị trí 48/132 quốc gia về Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII); nhiều chỉ số không ngừng được tăng cao, như chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI), chỉ số các nước an toàn nhất, chỉ số Quốc gia hạnh phúc…

Hòa bình, hợp tác, toàn cầu hóa vẫn là xu thế lớn, dù gặp nhiều thách thức của chiến tranh, xung đột cục bộ, chiến tranh thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Nhân loại đã từng chứng kiến 2 cuộc chiến tranh thế giới tàn khốc, nhiều cuộc chiến tranh cục bộ, “chiến tranh ủy nhiệm”, “chiến tranh lạnh” ở thế kỷ XX, để lại nhiều hy sinh, mất mát, bất hạnh cho nhân dân các nước. Đặc biệt là xung đột giữa Nga và Ucraina, Israel - Iran đang diễn ra hiện nay gây ra sự lo lắng và để lại nhiều hệ lụy khó lường trong quan hệ quốc tế, “bàn cờ chính trị” giữa các nước trên thế giới, nhất là giữa các nước lớn. Dù vậy, hòa bình vẫn là khát vọng chung của mọi lực lượng tiến bộ trên thế giới. Thế chiến lược cân bằng tiếp tục được tạo ra do hình thành “đa trung tâm quyền lực”, “nhiều cực phát triển”. Song, tranh giành lãnh thổ, nguồn tài nguyên, vị trí địa - chiến lược cùng các mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo… vẫn tiềm ẩn nguy cơ khiến cho chiến tranh, xung đột cục bộ còn xảy ra ở nơi này hay nơi khác, hình thức này hay hình thức khác.

Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng theo các hiệp định tự do thế hệ mới làm cho không chỉ lĩnh vực kinh tế, mà tất cả các lĩnh vực của đời sống đất nước chịu tác động mạnh mẽ, thường xuyên, trực tiếp của các yếu tố bên ngoài. Tự do hóa thương mại làm cho các luồng đầu tư, di chuyển lao động, thuế khóa hầu như không còn tình trạng phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Nền kinh tế đất nước ngày càng tham gia sâu vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến cho tình trạng tùy thuộc nhau ngày càng chặt chẽ. Hội nhập bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế mở rộng sang các lĩnh vực phi kinh tế, trong đó có vấn đề quyền con người như là giá trị phổ quát, xây dựng luật pháp, hợp tác quốc phòng - an ninh, trao đổi lý luận,… giữa các nhà nước, chính đảng khác nhau về ý thức hệ. Hội nhập quốc tế thúc đẩy giao lưu văn hóa, du học, chia sẻ thông tin… ngày càng mạnh mẽ. Hội nhập quốc tế không chỉ mang lại cơ hội mà cả thách thức đan xen, nhất là trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ thị trường nội địa, giữ vững độc lập về chính trị, hoạch định luật pháp, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, đấu tranh có hiệu quả trước các hoạt động lợi dụng toàn cầu hóa để chống phá Đảng, Nhà nước, nhất là chống phá trên lĩnh vực ý thức hệ tư tưởng và lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo, nhân quyền” để hòng xuyên tạc, bóp méo, hạ thấp thành tựu phát triển của đất nước ta.

Những thập niên tới, thế giới tiếp tục đối mặt với những vấn đề nan giải toàn cầu mà từng nhà nước, dân tộc không thể tự mình giải quyết được, thúc đẩy hợp tác toàn cầu dưới những hình thức khác nhau để ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Nguy cơ chạy đua vũ trang, xung đột quân sự, tranh chấp lãnh thổ hay tranh giành các không gian chiến lược mới (vũ trụ, đáy biển, Bắc Cực, Nam Cực…), nhất là chủ nghĩa cường quyền, chủ nghĩa nước lớn trỗi dậy,… đe dọa đến hòa bình và phát triển. Các thách thức an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, suy thoái môi trường, dịch bệnh lây lan nhanh, an toàn lương thực, cạn kiệt nguồn năng lượng hóa thạch, tài nguyên nước, tình trạng sa mạc hóa,… khiến các nước phải hợp tác, bắt tay nhau để cùng chung sức hành động. Phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, nhà nước pháp quyền, tham gia toàn cầu hóa, nhiều vấn đề tiến bộ xã hội đặt ra ở từng quốc gia khiến các chính phủ phải đối mặt, rộng hơn là hợp tác trên quy mô toàn cầu để chia sẻ và thúc đẩy, như các vấn đề về dân chủ, nhân quyền, bảo vệ tính đa dạng của sinh học, bản sắc văn hóa dân tộc...

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi nền sản xuất vật chất và tinh thần, rút ngắn khoảng cách giữa công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ khi được số hóa, hình thành phương thức sản xuất thông minh; làm cho các lĩnh vực hoạt động tinh thần thuần túy trước đây trở thành các ngành kinh tế phi vật chất gắn với đổi mới sáng tạo; làm cho quan niệm giá trị tài sản, của cải không chỉ là những vật chất cụ thể có thể quan sát, đo lường bằng phương pháp thông thường mà có khi, đó còn là những cái vô hình như thương hiệu, giá trị lịch sử - văn hóa, bản quyền, sở hữu trí tuệ… Ngày nay, nhờ sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ, các phương tiện giao thông và thông tin hiện đại mới cho phép con người vượt qua các giới hạn không gian và thời gian, tạo điều kiện đẩy mạnh sự giao lưu về mọi mặt từ kinh tế mậu dịch, đầu tư, du lịch đến văn hóa nghệ thuật, ẩm thực, tâm linh.

Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, quyền con người ngày càng được đề cao là vấn đề lớn về nhận thức lý luận và thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới sắp tới. Quản lý phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, xã hội phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng đặt ra trước hết phải có hệ thống pháp luật công bằng, không thiên vị, phù hợp với các cam kết hội nhập quốc tế, dần loại bỏ những điểm trước đây được xem là “đặc thù”. Luật pháp đó phải lấy con người làm trung tâm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chân chính, phù hợp với luật pháp quốc tế. Nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn đòi hỏi phải hoàn thiện chế độ kiểm soát quyền lực, phòng ngừa và ngăn chặn nguy cơ tha hóa quyền lực, đặt ra những vấn đề mới về nhận thức và tổ chức thực tiễn cơ chế tổ chức các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa quyền lực trung ương và địa phương, giữa quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới là nhu cầu tất yếu khi dân chủ hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… ngày càng được mở rộng và nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, dân chủ trong Đảng, dân chủ trong bầu các cơ quan nhà nước, dân chủ về mặt tư tưởng, học thuật có vai trò quan trọng để phát huy cao nhất sức mạnh con người phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, lý luận về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tiếp tục được nghiên cứu sâu sắc, xem đây là cách thức khơi dậy các nguồn lực và phát huy động lực để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Kinh tế thị trường vừa tạo cơ hội phát triển, vừa tạo sức ép, thách thức cho quá trình phát triển. Bên cạnh những ưu điểm, thị trường cũng có những mặt trái và “khuyết tật”, có ảnh hưởng tới con người và xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới; cụ thể là: (i) Các lực lượng có lợi thế trên thị trường thường tìm cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách hướng lái chính sách của nhà nước, giành lấy các cơ hội tiếp cận thông tin và nguồn lực có lợi, hình thành nên “nhóm trục lợi”, đe dọa đến lợi ích của các lực lượng ít có lợi thế hoặc các nhóm yếu thế trong xã hội; (ii) Doanh nghiệp thường chỉ theo đuổi và làm cái gì có lợi nhuận, mà ít chú ý đến các hàng hóa công cộng, lợi ích công cộng (khi ít hoặc không đem lại lợi nhuận); (iii) Kinh tế thị trường lấy phân bổ kết quả sản xuất theo lao động, theo vốn đóng góp, gây nên tình trạng phân cực giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội, nhất là tình trạng nghèo của những người không có cơ hội tiếp cận nguồn lực, người gặp rủi ro, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt; (iv) Tìm kiếm, tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp thường có thiên hướng hy sinh các lợi ích công cộng, thậm chí có doanh nghiệp còn bất chấp cả những việc làm suy đồi đạo đức (như hy sinh môi trường, sức khỏe của người tiêu dùng, làm hàng giả, hàng kém chất lượng…); (v) Tính tự phát của kinh tế thị trường dẫn đến các cuộc khủng hoảng chu kỳ hoặc suy thoái, gây ra các hệ lụy khôn lường cả về kinh tế và xã hội. Đồng thời, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam còn những hạn chế, bất cập, có tác động không nhỏ, như quyền sở hữu tài sản và bảo hộ sở hữu tài sản còn yếu; trình độ phát triển của các loại thị trường còn thấp, cải thiện chậm, giá cả của các nhân tố sản xuất bao gồm vốn, đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên vẫn có những mặt chưa theo quy luật thị trường; vị trí, vai trò và chức năng của kinh tế tư nhân và doanh nghiệp nhà nước vẫn còn có yếu tố chưa phù hợp với tiêu chí, thông lệ của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

Doanh nghiệp FDI đầu tư sản xuất bằng công nghệ hiện đại tại các khu công nghiệp, khu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh_Ảnh: TTXVN

Vì vậy, nền kinh tế thị trường cũng tạo ra những sức ép, thách thức không hề nhỏ đối với chiến lược phát triển Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: (i) Tính năng động của khu vực tư luôn đặt khu vực công trước nguy cơ trì trệ, “chảy máu chất xám” nếu chậm đổi mới chính sách tiền lương và dân chủ hóa môi trường làm việc; (ii) Nguy cơ “chảy máu chất xám” ra nước ngoài trong cuộc cạnh tranh nhân tài gay gắt mà lợi thế luôn thuộc về các nước phát triển; (iii) Định hướng chính trị, tư tưởng cho trí thức gắn với xây dựng liên minh công - nông - trí khó khăn hơn, khi trí thức có xu hướng làm việc tự do gắn với doanh nghiệp, nhiều hơn là tham gia trong khu vực nhà nước.

Mức sống và chất lượng sống của nhân dân ngày càng được nâng lên rõ rệt, từ thụ hưởng đời sống vật chất đến đời sống văn hóa - tinh thần. Nhân dân khi đã được thỏa mãn các nhu cầu thông thường (ăn no, mặc ấm) thì sẽ phát sinh nhu cầu bậc cao như: tự do, dân chủ, an ninh, an toàn, khẳng định năng lực bản thân… Đây là những thách thức không nhỏ khi bước sang các giai đoạn, trình độ phát triển cao hơn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới sắp tới. Quản lý phát triển xã hội đặt ra những yêu cầu mới trong bối cảnh quy mô kinh tế ngày càng lớn hơn, hội nhập quốc tế sâu rộng, trình độ phát triển cao hơn, cơ cấu xã hội đa dạng hơn, tâm lý xã hội phức tạp hơn. Những vấn đề xã hội phát sinh từ quá trình phát triển nếu không được nhận diện, quan tâm, xử lý kịp thời, căn cơ thường dẫn tới xung đột xã hội, tạo lực cản cho phát triển bền vững. Nhiều vấn đề xã hội xuất hiện luôn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để làm cơ sở hoạch định chính sách hiệu quả, như: nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, thiết chế văn hóa cho công nhân khu công nghiệp, xử lý tội phạm và tệ nạn xã hội trong nền kinh tế thị trường, di cư nông thôn - đô thị, già hóa dân số, bảo hiểm y tế toàn dân... Thực tiễn phát triển mới trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Bối cảnh mới với sự gắn kết ngày càng chặt chẽ giữa tình hình thế giới và trong nước, mỗi chính sách trong nước không thể không tính toán đầy đủ yếu tố quốc tế, đòi hỏi tầm nhìn rộng và sâu hơn; đất nước ta bước sang giai đoạn phát triển mới thì đồng thời cũng sẽ xuất hiện những thách thức mới khó giải quyết hơn khi quy mô nền kinh tế lớn hơn, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, nhu cầu của nhân dân cao hơn; cơ hội và thách thức đan xen, nhưng thách thức ngày càng gay gắt hơn; các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường gắn bó chặt chẽ, đòi hỏi một năng lực tư duy lãnh đạo, quản lý sắc bén hơn, đa diện hơn, toàn diện hơn trong nhận diện và xử lý các vấn đề đặt ra; không gian và môi trường chiến lược cho phát triển đất nước rộng mở hơn nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức hơn. Điều đó khiến cho công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn, gồm cả những rào cản bên trong thuộc cơ chế, thể chế lãnh đạo, chỉ đạo và những thách thức từ bối cảnh bên ngoài.

Cơ động xã hội và sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, nhưng đồng thời cũng chứa đựng sự phức tạp, đan xen nhau về kết cấu và sự biến động về tính chất của tầng lớp trong xã hội. Thực tế phát triển qua gần 40 năm đổi mới cũng cho thấy, còn có sự bất cập trong đánh giá về vị thế và uy tín nghề nghiệp trong xã hội, dẫn đến sự phản ánh chưa đúng giá trị nghề nghiệp, làm méo mó và nảy sinh nhiều tiêu cực trong quá trình di động nghề nghiệp của cá nhân: Những ngành nghề đòi hỏi phải có trình độ, nhiều “chất xám” như giáo viên, nhà khoa học... có vị thế chưa tương xứng trong xã hội. Bên cạnh đó, cơ chế và hình thức di động nghề nghiệp ở nước ta trong thời gian qua còn biểu hiện thiếu lành mạnh, chưa thực sự công bằng giữa các cá nhân. Còn tình trạng không ít cá nhân thăng tiến vị trí nghề nghiệp nhanh, nhưng chủ yếu dựa vào các yếu tố quan hệ thân hữu, chưa thực sự dựa vào năng lực và sự cạnh tranh tài năng giữa các cá nhân một cách bình đẳng, vẫn diễn ra một cách nhức nhối, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Thực trạng này đặt ra những vấn đề bức thiết cần làm rõ từ phương diện lý luận và thực tiễn, từ đó đề ra được quyết sách phát triển đúng đắn trong kỷ nguyên phát triển mới, đáp ứng sự kỳ vọng, niềm tin, sự mong mỏi của nhân dân về những kỳ tích phát triển của đất nước ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.

Thể chế, chính sách đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, cũng như đối với từng lĩnh vực. Theo đó, xây dựng thể chế, chính sách phù hợp là một trong các tiền đề - điều kiện cho phát triển hiệu quả, bền vững trong kỷ nguyên phát triển mới. Một thể chế phù hợp, tiến bộ sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới và phát triển; ngược lại, một thể chế không còn phù hợp sẽ trở thành lực cản kìm hãm sự sáng tạo, khát vọng, tâm huyết và hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong xã hội. Bản thân thể chế, chính sách cũng không phải là bất biến, mà nó phải được liên tục đổi mới, hoàn thiện và phát triển cùng với sự phát triển và trình độ xã hội hóa ngày càng cao hơn của xã hội. Nâng cao chất lượng thể chế là khâu đột phá trong chính sách phát triển, trong đó có chính sách phát triển nhân tố con người. Tuy nhiên, hiện nay, đang có nhiều “điểm nghẽn” về thể chế, gây cản trở đến phát triển hạ tầng và nguồn lực, làm chậm bước phát triển của đất nước. Yêu cầu đặt ra cấp bách hiện nay là cần có sự đột phá về tư duy để giải quyết bài toán thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm(2). Vì vậy, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tăng cường hợp tác quốc tế trong xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển, là một định hướng quan trọng, giúp chúng ta có thể kế thừa những giá trị phổ quát của văn minh nhân loại, phát triển đất nước tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Phân tích, dự báo, xử lý thấu đáo tất cả những vấn đề mới đặt ra đều cần đến tri thức lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; do đó, yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là phải phát huy tốt hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam, đủ sức đảm đương được sứ mệnh, nhiệm vụ nghiên cứu, tích cực tham mưu chính sách, chiến lược cho Đảng, Nhà nước để phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bên cạnh những thành tựu, thì thực tế cũng cho thấy còn không ít những thách thức, hạn chế, hay “khoảng trống” từ công tác nghiên cứu lý luận khi chưa làm rõ nhiều vấn đề lý luận mới, khó, phức tạp, nhất là liên quan đến xác định rõ hơn, sâu sắc hơn nội hàm, mục tiêu, phương thức, điều kiện để đưa đất nước bước vào “kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” trong thế kỷ XXI.

Chẳng hạn, cần tăng cường nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc, dân tộc - quốc gia và các khía cạnh mở rộng chủ quyền, lợi ích chiến lược, không gian sinh tồn, trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc. Hiện nay, nghiên cứu lý luận về quốc gia - dân tộc còn khá hạn chế, trong khi đó quốc gia - dân tộc hiện đại đã biến đổi khác trước rất nhiều cả về mặt dân cư, nhà nước, lãnh thổ, chủ quyền, nền tảng kinh tế, bản sắc văn hóa, trình độ phát triển,… do tác động của toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế thị trường hiện đại, quản trị toàn cầu. Chính vì thiếu những luận cứ khoa học cho xây dựng quốc gia - dân tộc, nên chưa rõ khi xác định các trình độ phát triển của quốc gia - dân tộc, những điểm tương đồng và khác biệt giữa các loại hình quốc gia - dân tộc, sự mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc, tính đan xen, tương tác, chuyển hóa ngày càng lớn giữa những vấn đề quốc nội với quốc tế… Càng thiếu những nghiên cứu về quốc gia - dân tộc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, thời cơ và vận hội phát triển mở ra rộng lớn; tuy nhiên, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vẫn diễn biến phức tạp, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... vẫn chưa được đẩy lùi có hiệu quả. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết chống phá, tăng cường gieo rắc thông tin xấu độc trên không gian mạng, nhằm xuyên tạc, bóp méo về tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam, thực hiện âm mưu xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đã tạo ra nhiều thách thức cũng như cơ hội đối với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cần đẩy mạnh công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tăng cường các hoạt động chống phá, kích động bạo loạn, lật đổ…, gia tăng lợi dụng các nền tảng truyền thông xã hội để đăng tải, phát tán tin bài, video… xuyên tạc, bôi nhọ, kích động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là khi đất nước ta có những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa quan trọng, như đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp… Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu; tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định, sức chiến đấu một số tổ chức đảng suy giảm, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chưa được đẩy lùi triệt để, còn phức tạp. Điều này gây tổn hại đến vị thế, uy tín của Đảng đối với nhân dân, tác động không tốt đến công tác đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Thực tế này đang đặt ra thách thức không nhỏ đối với công tác cán bộ của Đảng. Chính vì vậy, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết”(3).

Nhận diện rõ thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đang đặt ra đối với Việt Nam có vai trò quan trọng trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, không ngừng tìm tòi, đề xuất các giải pháp đồng bộ, khả thi để phát triển đất nước ta tiến bước cùng thời đại, thực hiện khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, với niềm tin và khí thế mới, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XXI./.

Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

 Hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là khẳng định mục tiêu phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc của Đảng ta trên thực tế; sự đúng đắn của đường lối chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của mọi thắng lợi cách mạng, của mọi sự phát triển đất nước; tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên thực tế. Đồng thời, hiện thực hóa hệ mục tiêu này còn góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, nâng cao uy tín, vị thế của Đảng và đất nước ta trên trường quốc tế; thực hiện thành công Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.