Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

SỨC MẠNH NHÂN DÂN LÀ CỘI NGUỒN SÂU XA CỦA THẮNG LỢI

Đọc bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tôi đặc biệt tâm đắc với nhận định:

“Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội.
Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân; trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn thể hiện tình cảm quý trọng nhân dân và chăm lo xây dựng lực lượng toàn dân tham gia vào các công việc của cách mạng. Thực tiễn cũng đã chứng minh, quy tụ được lòng dân, phát huy sức mạnh của nhân dân là nguyên nhân quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm lấy dân làm gốc. Đại hội lần thứ XIII của Đảng đúc rút bài học kinh nghiệm quý báu: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Nghiên cứu bài viết của Tổng Bí thư, tôi càng thêm tin tưởng vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn khi nhận thức sâu sắc rằng, dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội.
Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: Pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Tôi cho rằng, để phát huy những kết quả đã đạt được trong phát huy sức mạnh của nhân dân, các cấp ủy đảng, chính quyền, cả hệ thống chính trị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện nhất quán quan điểm: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tạo môi trường thuận lợi để nhân dân phát triển tài năng, sức sáng tạo, mang lại lợi ích cho đất nước.
Yếu tố đóng vai trò quan trọng là phải thực hành dân chủ rộng rãi, để làm sao thật sự dân là chủ, dân làm chủ, bảo đảm dân chủ từ trong Đảng đến dân chủ xã hội được thực hiện ở các cấp, các địa bàn, các lĩnh vực. Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương của Đảng về phát huy quyền dân chủ, về mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ", nhất là nội dung nhân dân làm chủ và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng", để nhân dân thực hiện tốt hơn quyền dân chủ trực tiếp cùng với quyền dân chủ gián tiếp thông qua đại diện của mình.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN, XUYÊN TẠC HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Gần đây, trên trang mạng Vietnamthoibao có bài viết của tác giả Phạm Đình Trọng với tựa đề: “Lại hăm hở sắp xếp lại bộ máy nhà nước”. Bài viết đưa ra luận điểm đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cổ súy Việt Nam nên đi theo mô hình “Tam quyền phân lập” kiểu phương Tây. Thực chất, đây là luận điệu xuyên tạc tuy không mới, nhưng mang đầy những lời lẽ kích động, hằn thù, nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta, bởi những lý do sau:

Một là, điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) đã khẳng định rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Thực tiễn lịch sử hơn 94 năm ra đời và phát triển của Đảng đã chứng minh rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền duy nhất đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách; đánh đuổi các thế lực xâm lược đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng đã đem lại nền độc lập, hòa bình tự do cho dân tộc ta, nhân dân ta; từng bước đưa cách mạng Việt Nam đi lên con đường xã hội chủ nghĩa. Giành độc lập dân tộc nay tiếp tục giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo đưa Việt Nam từ nền kinh tế kém phát triển, nay đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Công cuộc phòng, chống tham nhũng được đẩy mạnh, gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu đó của Đảng lkhông bao giờ thay đổi, Đảng đại diện trung thành lợi ích toàn dân, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân ta đã thừa nhận và tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc “Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” được ghi trong Hiến pháp đã khẳng định: Đảng thực hiện sự lãnh đạo xã hội qua chủ trương, đường lối được luật hóa. Nguyên tắc này còn bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, phòng, chống mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất (có thể xảy ra) trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta.
Hai là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được thể chế hóa thành Hiến pháp và pháp luật thông qua trình tự lập pháp, hành pháp, tư pháp, qua đó thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội (Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013). Trong Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 ghi rõ: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây là vấn đề đã được Đảng, Nhà nước ta nghiên cứu, tiếp thu một cách có chọn lọc trong kỹ thuật tổ chức các thiết chế nhà nước trên thế giới, trong đó việc phân công và phối hợp giữa 3 nhánh quyền lực nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp) để tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Theo đó, quyền lập pháp được giao cho Quốc hội, quyền hành pháp giao cho Chính phủ, quyền tư pháp giao cho Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân. Trong đó, Quốc hội Việt Nam là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng, cốt yếu của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước. Các cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân) là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân… Bộ máy Nhà nước ta được vận hành như vậy là đúng với bản chất và nguồn gốc của quyền lực nhà nước, quyền lực nhà nước là thống nhất; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Khi quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân, thì về nguyên tắc, quyền lực nhà nước không thể phân chia cho cá nhân hay tổ chức nào khác; các cơ quan nhà nước khi thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là thực hiện các quyền của nhân dân giao phó, ủy quyền… Điều này khác xa với cái gọi là “Tam quyền phân lập” trong bài viết: “Lại hăm hở sắp xếp lại bộ máy nhà nước”của Phạm Đình Trọng là sự thể hiện tư tưởng phân quyền, về bản chất là đối lập với tư tưởng thống nhất quyền lực, phủ nhận sự phân chia quyền lực về mặt chính trị - xã hội, phủ nhận chân lý: Quyền lực của Nhà nước được bắt nguồn từ nhân dân.
Từ lý luận và thực tiễn có thể khẳng định: Điều 4 trong Hiến pháp của Nhà nước ta về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo Nhà nước Việt Nam là điều tối thượng. Được Hiếp pháp và pháp luật Nhà nước ta bảo vệ. Đây là vấn đề không thể xuyên tạc và phủ nhận. Còn cái gọi là “Tam quyền phân lập” như Phạm Đình Trọng đã nêu ra trong bài viết “Lại hăm hở sắp xếp lại bộ máy nhà nước” thực chất chỉ là sự tiếp nối của việc kích động, chống phá đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta, cổ súy cho bất ổn chính trị, xung đột quyền lực, cần phải đấu tranh, bác bỏ.

Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc

 

Nhân dịp năm mới 2025, Thủ tướng Phạm Minh Chính có bài viết "Đổi mới, sáng tạo, tăng tốc, bứt phá, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc". Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu bài viết của Thủ tướng.

Những kết quả quan trọng, toàn diện, nổi bật đạt được trên các lĩnh vực trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi của năm 2024 khẳng định nỗ lực vượt bậc, ý chí kiên cường, quyết tâm sắt đá tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; qua đó củng cố nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ để phấn đấu thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ của giai đoạn 2021-2025, đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc Việt Nam.

I. Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt dự báo; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt; xung đột quân sự leo thang ở nhiều nơi; tình hình chính trị bất ổn tại một số quốc gia; kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều, thiếu vững chắc; các vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng ngày càng nghiêm trọng.

Ở trong nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức nhiều hơn; nền kinh tế tiếp tục chịu "ảnh hưởng kép" từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều năm; trong khi thiên tai, bão lũ gây thiệt hại lớn cho sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân.

Trong bối cảnh đó, với tinh thần nỗ lực vượt bậc "biến nguy thành cơ", "thay đổi trạng thái, xoay chuyển tình thế"; với phương châm "kỷ cương trách nhiệm, chủ động kịp thời, tăng tốc sáng tạo, hiệu quả bền vững", "chỉ bàn làm, không bàn lùi"; ngay từ những ngày đầu năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội; chủ động, linh hoạt, bám sát thực tiễn, thực hiện đồng bộ, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực; trong đó ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; tập trung tháo gỡ những vướng mắc, điểm nghẽn về thể chế, pháp luật; đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng trọng điểm; chú trọng các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường; tăng cường phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế; đồng thời, nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, hiệu quả trước những biến động từ bên ngoài.

Nhờ sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục phục hồi tích cực, với xu hướng tốt hơn qua từng tháng, từng quý, tính chung cả năm 2024 đạt và vượt toàn bộ 15 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó có những kết quả nổi bật trên nhiều lĩnh vực, được Nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Việt Nam tiếp tục là điểm sáng về tăng trưởng và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt khoảng 7%; quy mô kinh tế đạt khoảng 470 tỷ USD; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực; tỷ trọng khu vực nông nghiệp còn khoảng 11%. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện; tăng năng suất lao động ước đạt 5,7%, vượt mục tiêu đề ra; chỉ số tự do kinh tế tăng 13 bậc, lên vị trí 59/176 quốc gia, vùng lãnh thổ [1].

Việt Nam được đánh giá cao về kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô trong bối cảnh thế giới biến động mạnh, nhiều khó khăn. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2024 tăng khoảng 3,6%, trong khi vẫn thực hiện tăng lương, tăng giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý. Các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu ghi nhận kỷ lục, cùng với kỷ lục xuất khẩu nông sản trên 62 tỷ USD; thặng dư thương mại ước đạt khoảng 24 tỷ USD, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ nền kinh tế phục hồi tích cực và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý thuế, tổng thu ngân sách nhà nước vượt trên 19% dự toán (khoảng 320.000 tỷ đồng), góp phần bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển; nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia và bội chi ngân sách nhà nước thấp hơn giới hạn quy định [2].

Việt Nam tiếp tục là điểm đến an toàn, hấp dẫn của các doanh nghiệp, đối tác, nhà đầu tư quốc tế; thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất thế giới, đạt khoảng 40 tỷ USD, trong đó vốn FDI thực hiện khoảng 25 tỷ USD; là một trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới với 17 FTA, trở thành một mắt xích quan trọng trong các chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số, kinh tế xanh, công nghệ cao, thân thiện với môi trường; đặc biệt đã xác lập được vị thế quan trọng trong chuỗi công nghiệp bán dẫn toàn cầu, thu hút được nhiều tập đoàn công nghệ lớn. Giá trị thương hiệu quốc gia năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Các đột phá chiến lược được tập trung chỉ đạo thực hiện quyết liệt và đạt nhiều kết quả rõ nét. Tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật; Quốc hội đã thông qua nhiều Luật, Nghị quyết nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn cho phát triển trên các lĩnh vực [3]. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược được đẩy mạnh toàn diện; đã đưa vào khai thác trên 2.000 km đường bộ cao tốc; hoàn thành Dự án đường dây 500kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên trong thời gian ngắn kỷ lục 6 tháng; tập trung chuẩn bị, khẩn trương triển khai các dự án đường sắt quốc gia. Phát triển nguồn nhân lực chuyển biến tích cực; khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp được thúc đẩy mạnh mẽ. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 xếp hạng 44/132 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 2 bậc so với năm 2023. Công tác quy hoạch được đẩy mạnh; đã phê duyệt, triển khai thực hiện toàn bộ 111 quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch cấp tỉnh và quy hoạch quốc gia; đồng thời tập trung xử lý các dự án tồn đọng, kém hiệu quả, kéo dài [4]; góp phần khơi thông nguồn lực, chống lãng phí, tạo không gian, động lực mới cho phát triển.

Phát triển văn hóa, xã hội được chú trọng; an sinh xã hội được bảo đảm; đời sống người dân tiếp tục được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng 1,9%; thu nhập bình quân người lao động tăng khoảng 7,4%; chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143[5]; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) xếp thứ 54/166 quốc gia, vùng lãnh thổ, tăng 1 bậc so với năm 2023[6]. Kịp thời khắc phục hậu quả và hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3 với những hình ảnh, nghĩa cử cao đẹp, xúc động, ấm áp "tình dân tộc, nghĩa đồng bào" trên mọi miền đất nước.

Công tác cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh. Tập trung đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thực hiện nghiêm túc, hiệu quả chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo; nâng cao hiệu quả xử lý tham nhũng, tiêu cực, không để ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin trong Nhân dân.

Độc lập, chủ quyền quốc gia được giữ vững; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh; uy tín, vị thế đất nước tiếp tục được nâng cao. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân được tăng cường, củng cố vững chắc; công nghiệp quốc phòng đạt nhiều kết quả tích cực. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Hợp tác quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, nâng cấp [7], ngoại giao kinh tế được chú trọng; tạo lập được cục diện đối ngoại thuận lợi; góp phần giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển.

II. Vui mừng, phấn khởi trước những thành tựu, kết quả nổi bật đạt được trong năm 2024, nhưng chúng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận còn những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức cần được tiếp tục tập trung xử lý, giải quyết, hóa giải một cách kịp thời, hiệu quả trong thời gian tới. Trong đó, ổn định kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn rủi ro, sức ép điều hành về tỷ giá, lãi suất, lạm phát còn lớn, nhất là trước những tác động bất lợi từ bên ngoài. Tình hình sản xuất kinh doanh một số lĩnh vực còn khó khăn; sức mua thị trường phục hồi chậm, chưa rõ nét. Việc triển khai một số dự án kết cấu hạ tầng còn vướng mắc; giải ngân vốn đầu tư công chưa đáp ứng yêu cầu.

Thể chế, pháp luật vẫn là "điểm nghẽn của điểm nghẽn"; tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý hơn là kiến tạo phát triển; quy trình, thủ tục có điểm còn bất cập. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chậm được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Phân cấp, phân quyền còn vướng mắc, vẫn còn nhiều công việc cụ thể ở cấp trung ương; thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh có lĩnh vực còn rườm rà, ách tắc. Lãng phí vẫn còn trong nhiều ngành, lĩnh vực, gây nhiều hệ lụy, làm suy giảm nguồn lực, tăng gánh nặng chi phí, tạo rào cản, bỏ lỡ thời cơ cho phát triển của đất nước.

Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chưa góp phần tạo đột phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, tầng lớp nhân dân chưa được cải thiện nhiều; đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn. Việc giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ùn tắc giao thông, ngập úng tại các thành phố lớn còn chậm. Biến đổi khí hậu, thiên tai, bão lũ, sạt lở, ngập lụt, sụt lún, khô hạn biến động khó lường, gây hậu quả nặng nề. Tình hình tội phạm công nghệ cao, lừa đảo qua mạng và công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở một số địa bàn diễn biến phức tạp...

Những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức nêu trên có những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan chủ yếu là do tình hình thế giới phức tạp, khó lường, nhiều khó khăn, thách thức; hậu quả của đại dịch Covid-19 tiếp tục có những ảnh hưởng tiêu cực; trong khi đó thiên tai, bão lũ, nhất là bão số 3 (Yagi) gây hậu quả nặng nề. Nguyên nhân chủ quan là do kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; phân cấp, phân quyền ở một số lĩnh vực còn vướng mắc; một bộ phận cán bộ né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm; việc nắm bắt tình hình, tham mưu, phản ứng chính sách một số trường hợp chưa kịp thời, hiệu quả, chưa tận dụng hết các cơ hội phát triển; tinh thần nỗ lực vượt khó, tự lực, tự cường của một số cơ quan, đơn vị và một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao…

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình các lĩnh vực và từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm quý, sâu sắc, góp phần bổ sung, hoàn thiện về tư duy, phương pháp luận, định hướng chính sách và tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

Thứ nhất, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch, là yếu tố nền tảng căn bản cho phát triển bền vững, là điểm tựa để vượt qua mọi khó khăn; cần phát huy tinh thần tự lực, tự cường, nỗ lực đổi mới vươn lên của toàn dân tộc; luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Thứ hai, phải có tư duy phát triển đột phá, tầm nhìn chiến lược, nhìn xa, trông rộng, nghĩ sâu, làm lớn; làm việc nào dứt việc đó; coi trọng thời gian, trí tuệ, sự sáng tạo, quyết đoán, đúng thời điểm. Tập trung nắm chắc tình hình, phản ứng chính sách linh hoạt, kịp thời, hiệu quả; chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Thứ ba, phải tập trung khơi thông, huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực; lấy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định và ngoại lực là quan trọng, cần thiết, đột phá; phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam.

Thứ tư, phải đặc biệt chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; lấy con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là nguồn lực, động lực quan trọng nhất cho sự phát triển; không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần, "không để ai bị bỏ lại phía sau".

Thứ năm, phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; quyết liệt cải cách thủ tục hành chính; kiên quyết, kiên trì xóa bỏ cơ chế "xin - cho"; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần củng cố niềm tin trong nhân dân và toàn xã hội.

III. Thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới phục hồi chậm, rủi ro gia tăng; xu hướng phân tách, phân cực ngày càng rõ nét. Trong nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nền kinh tế tiếp tục xu hướng phục hồi, các chủ trương, cơ chế, chính sách mới đang tiếp tục phát huy hiệu quả tích cực; nhưng khó khăn, thách thức còn rất lớn, nhất là từ những yếu tố bất lợi bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài; các yếu tố an ninh phi truyền thống, thiên tai, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên, già hóa dân số tác động, ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng; trong khi nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế.

Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá để về đích để thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, là năm diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước - kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 80 năm thành lập Nước và là năm tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã định hướng. Để thực hiện thành công mục tiêu chiến lược phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; ngay từ năm 2025 chúng ta phải nỗ lực tối đa, tạo những yếu tố đột phá thu hút đầu tư, thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt mức tăng trưởng ít nhất 8% hoặc phấn đấu cao hơn trong điều kiện thuận lợi; trên cơ sở đó tạo nền tảng vững chắc để đạt tốc độ tăng trưởng hai con số từ năm 2026.

Đất nước trong những thời điểm lịch sử cần những quyết sách mang tính lịch sử. Việc thực hiện các mục tiêu chiến lược kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập Nước trên đây là sứ mệnh đầy thử thách, nhưng cũng rất vẻ vang của các thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau, là điểm kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai, là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, vươn lên trở thành nước phát triển. Chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được với tư duy đổi mới, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, giải pháp đột phá, cách làm hiệu quả, tổ chức thực hiện kịp thời, linh hoạt, hiệu quả. Tập trung hiện thực hóa những tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của đất nước, từng cấp, từng ngành, mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, từng người dân Việt Nam cần phát huy cao độ tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, "dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung"; "đã nói là làm, đã cam kết là phải thực hiện; đã làm, đã thực hiện là phải có hiệu quả, cân đong, đo đếm được"; quán triệt và thực hiện hiệu quả phương châm "Đảng chỉ đạo, Chính phủ thống nhất, Quốc hội đồng tình, Nhân dân ủng hộ, Tổ quốc mong đợi, thì chỉ bàn làm, không bàn lùi, làm việc nào ra việc đấy, làm việc nào dứt việc đó". 

Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đã thể hiện rõ các nhiệm vụ, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực và cần được các cấp, các ngành, các địa phương triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả với tinh thần "rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời hạn, rõ kết quả"; trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

1. Tiếp tục tập trung hoàn thiện thể chế, pháp luật để thực sự là "đột phá của đột phá", tạo động lực phát triển đất nước với tinh thần "chính sách thông thoáng, hạ tầng thông suốt, quản trị thông minh". Đặc biệt chú trọng tư duy đổi mới, kiến tạo phát triển, tạo ra không gian phát triển mới. Đổi mới, số hóa, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả của các loại thị trường; thực hiện đồng bộ các giải pháp để phục hồi, phát triển lành mạnh thị trường bất động sản và sớm nâng hạng thị trường chứng khoán. Quyết liệt sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng "Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả" gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW; có chính sách cụ thể, tạo thuận lợi cho cán bộ, công chức dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, thực hiện Đề án 06; thực hiện hiệu quả các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, bảo đảm khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.

2. Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng kinh tế gắn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo; điều hành chủ động, kịp thời, linh hoạt, hài hòa, hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ để khơi thông, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhất là trong Nhân dân. Tập trung làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, nhất là các giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu; đồng thời tạo đột phá thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới, nhất là chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển các ngành, lĩnh vực mới nổi như chíp bán dẫn, dữ liệu lớn (big data), trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây...

3. Tập trung phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại; đẩy nhanh các dự án trọng điểm; kết nối hệ thống đường bộ cao tốc với sân bay, cảng biển; khẩn trương triển khai đường sắt tốc độ cao, đường sắt đô thị; Phấn đấu đến hết năm 2025 hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc và trên 1.000 km đường bộ ven biển. Phát triển mạnh hạ tầng số, hạ tầng đô thị, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, thể dục thể thao…; nghiên cứu, khai thác hiệu quả không gian ngầm, không gian biển, không gian vũ trụ.

4. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Phát triển mạnh các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, ứng dụng công nghệ cao, theo hướng xanh hóa, hiệu quả, bền vững; giảm chi phí logistics; đánh thức tiềm năng, phát triển mạnh các loại hình du lịch. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; xây dựng chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân; đẩy mạnh thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài; tham gia sâu rộng hơn vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.

5. Xác định rõ và có cơ chế, chính sách, giải pháp đột phá cả ở tầm chiến lược và sách lược để nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đối số thực sự là quốc sách hàng đầu theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, tạo sự bứt phá, bay cao, vươn xa trong nỗ lực "bắt kịp, tiến cùng, tăng tốc, bứt phá và vượt lên", đưa đất nước vào quỹ đạo phát triển nhanh và bền vững. Tập trung rà soát, có cơ chế, chính sách đột phá nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, tạo động lực, truyền cảm hứng cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài, đặc biệt là cho thế hệ trẻ Việt Nam xung kích đi đầu, vươn lên mạnh mẽ.

6. Chú trọng phát triển văn hóa hài hòa với kinh tế, xã hội; xây dựng cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí; xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam phát triển toàn diện; thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững; chú trọng các chính sách dân tộc, tôn giáo, phát huy tinh thần "đạo pháp và dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo". Triển khai hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, phát triển văn hóa và phòng, chống ma túy. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025"; phấn đấu sớm hoàn thành trên 100.000 căn nhà ở xã hội.

7. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Tiếp tục đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

8. Tiếp tục củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; giữ vững độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh lưỡng dụng; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tăng cường các giải pháp kiềm chế tội phạm, phấn đấu kéo giảm 5% số vụ phạm tội về trật tự xã hội; bảo đảm trật tự an toàn giao thông; chú trọng nâng cao hiệu quả phòng, chống cháy, nổ.

9. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; tiếp tục đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả, đan xen lợi ích. Nâng cao chất lượng tham mưu, dự báo chiến lược, chủ động ứng phó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi chưa lâm nguy. Thúc đẩy mạnh mẽ công tác ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, giao lưu nhân dân phục vụ phát triển đất nước.

10. Đẩy mạnh công tác thông tin truyền thông, nhất là truyền thông chính sách; tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo, gương người tốt, việc tốt. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên giáo, dân vận, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể nhân dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu hoàn thành toàn diện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đề ra.

                                                                                ** *

Nhiệm vụ đặt ra cho năm 2025 và thời gian tới là rất nặng nề. Phát huy những thành tựu đạt được sau gần 40 năm đổi mới; với tinh thần đoàn kết, chung sức, đồng lòng, ý thức trách nhiệm cao, ý chí tự lực, tự cường của cả hệ thống chính trị, Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, đất nước ta nhất định sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2025, góp phần hoàn thành cao nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.

Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam đã được thử thách qua lịch sử hào hùng đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc ta, sẽ tiếp tục tỏa sáng để đưa đất nước ta vươn lên tầm cao mới, đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc, đưa đất nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn.

VẠCH TRẦN THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC VỀ TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

Trong những năm qua, các thế lực thù địch không ngừng lợi dụng vấn đề tôn giáo để xuyên tạc, vu khống, cáo buộc Việt Nam vi phạm quyền tự do tôn giáo. Những luận điệu này không chỉ gây hiểu lầm trong dư luận quốc tế mà còn tạo ra những nguy cơ ảnh hưởng đến sự ổn định và đoàn kết nội bộ. Để đấu tranh với những quan điểm sai trái và thù địch, việc làm sáng tỏ chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam và đưa ra các số liệu thực tế là nhiệm vụ cần thiết nhằm bảo vệ sự thật và củng cố niềm tin của cộng đồng quốc tế.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo với gần 27% dân số, tương đương khoảng 26 triệu người, theo một số tôn giáo. Hiện tại, có 16 tôn giáo và 43 tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động. Đây là minh chứng rõ ràng về chính sách tự do tôn giáo của Việt Nam, tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển bình đẳng và hài hòa trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn xuyên tạc rằng Việt Nam đàn áp tôn giáo, bất chấp thực tế rằng hàng triệu tín đồ đang tự do thực hành tín ngưỡng mỗi ngày trên khắp đất nước.
Cả nước hiện có hơn 25.000 cơ sở thờ tự, với hàng triệu hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo được tổ chức hàng năm. Nhà nước đã hỗ trợ xây dựng và tu bổ hàng trăm cơ sở thờ tự, từ chùa chiền, nhà thờ đến các địa điểm hành lễ của các cộng đồng tôn giáo. Chỉ riêng năm 2022, đã có hơn 2.000 hoạt động tôn giáo lớn được tổ chức, thu hút sự tham gia của hàng triệu tín đồ trên cả nước. Những con số này thể hiện rõ chính sách tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của Nhà nước.
Bên cạnh việc hỗ trợ các tôn giáo đã được công nhận, chính quyền cũng linh hoạt và cởi mở trong việc xử lý các nhóm tín ngưỡng chưa đăng ký. Nhà nước khuyến khích các tổ chức này hoàn tất thủ tục pháp lý để hoạt động hợp pháp, đảm bảo quyền lợi cho các tín đồ và bảo vệ lợi ích chung của xã hội. Thực tế, trong giai đoạn 2018-2023, đã có thêm 7 tổ chức tôn giáo được cấp phép hoạt động, nâng tổng số tổ chức tôn giáo chính thức lên con số 43. Điều này bác bỏ hoàn toàn các cáo buộc rằng Việt Nam cố tình “đàn áp” hoặc “kiềm chế” các nhóm tôn giáo.
Tuy nhiên, một số tổ chức và cá nhân, cả trong và ngoài nước, đã lợi dụng danh nghĩa tự do tôn giáo để xuyên tạc tình hình thực tế. Một ví dụ điển hình là những báo cáo thiếu khách quan từ các tổ chức phi chính phủ nước ngoài như Human Rights Watch, trong đó cáo buộc Việt Nam hạn chế quyền tự do tôn giáo của các cộng đồng thiểu số. Những cáo buộc này không đi kèm bằng chứng cụ thể mà chỉ dựa trên các thông tin bị thổi phồng, cắt xén hoặc xuyên tạc từ những cá nhân không đại diện cho cộng đồng tín đồ.
Những chiêu trò xuyên tạc này không chỉ nhằm mục đích bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế mà còn tạo ra sự hoài nghi trong nội bộ xã hội. Đặc biệt, chúng thường nhắm vào các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số như Tây Nguyên, nơi có khoảng 600.000 tín đồ Tin Lành, chiếm 45% số tín đồ Tin Lành cả nước. Thực tế, hơn 90% các tổ chức Tin Lành tại đây đã được công nhận và hoạt động hợp pháp. Nhưng một số nhóm nhỏ không tuân thủ quy định pháp luật lại trở thành công cụ để các thế lực bên ngoài lợi dụng, tạo cớ để vu khống chính quyền.
Ngoài ra, cần nhấn mạnh rằng các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam không chỉ được tự do mà còn gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn văn hóa. Trong giai đoạn 2015 - 2020, các tổ chức tôn giáo đã đóng góp hơn 1.000 tỷ đồng cho các hoạt động từ thiện, xây dựng trường học, bệnh viện và chăm sóc người nghèo. Đặc biệt, sự tham gia của các tổ chức tôn giáo trong đại dịch COVID-19 là minh chứng sống động cho tinh thần hòa hợp giữa các tôn giáo và chính quyền. Hàng ngàn tín đồ và chức sắc đã tự nguyện tham gia hỗ trợ công tác phòng chống dịch, góp phần bảo vệ sức khỏe và sinh mạng của người dân.
Những luận điệu xuyên tạc, vu khống về tự do tôn giáo ở Việt Nam không chỉ sai sự thật mà còn mang mục đích chính trị rõ ràng nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và uy tín quốc tế của đất nước. Trên thực tế, Việt Nam luôn coi trọng quyền tự do tôn giáo, với những chính sách cụ thể và sự hỗ trợ thiết thực cho các tổ chức tôn giáo và tín đồ. Các con số thực tiễn về số lượng tổ chức tôn giáo, tín đồ, cơ sở thờ tự và hoạt động tôn giáo là minh chứng không thể chối cãi cho cam kết của Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng.
Việc đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không chỉ là trách nhiệm của chính quyền mà còn là nhiệm vụ của toàn thể người dân Việt Nam. Thông qua việc phổ biến thông tin đúng đắn, công khai minh bạch và đối thoại với quốc tế, chúng ta có thể vạch trần các âm mưu xuyên tạc, bảo vệ sự thật và giữ vững hình ảnh của một đất nước hòa bình, tự do và đoàn kết. Chỉ có sự thật mới là nền tảng vững chắc để xây dựng niềm tin và phát triển bền vững.

ĐỐI NGOẠI VIỆT NAM NĂM 2024: TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG GÓP PHẦN TẠO ĐÀ ĐƯA ĐẤT NƯỚC BƯỚC VÀO KỶ NGUYÊN MỚI

Trong năm 2024, thế giới tiếp tục quá trình biến đổi sâu sắc, có nhiều diễn biến mới, phức tạp, tác động đến tất cả mọi mặt đời sống xã hội. Năm 2024 cũng là năm đất nước bước vào giai đoạn nước rút thực hiện thắng lợi Nghị quyết Ðại hội XIII. Trong bối cảnh đó, công tác đối ngoại đã được triển khai đồng bộ, hiệu quả, với nhiều hoạt động sôi động, đạt được nhiều kết quả tích cực. Mặc dù môi trường bên ngoài biến động, Việt Nam tiếp tục nổi lên là một "điểm sáng" hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực. Những thành tựu "quan trọng, có ý nghĩa lịch sử" của đối ngoại từ đầu nhiệm kỳ đến nay như đánh giá của lãnh đạo chủ chốt tiếp tục được kế thừa, phát huy và góp phần vào những thành tựu chung của đất nước.

Thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII
Các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại cấp cao được triển khai sôi động, nâng tầm quan hệ đối ngoại của đất nước. Bám sát đường lối đối ngoại Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ XIII, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, và các đồng chí lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại trong năm 2024 đã được triển khai một cách bài bản và rộng khắp với nhiều đối tác và tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng.
Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, nâng cấp quan hệ lên Ðối tác chiến lược toàn diện với Australia, Pháp và Malaysia, nâng cấp lên Ðối tác chiến lược với Brazil và thiết lập quan hệ Ðối tác toàn diện với Mông Cổ và Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), nâng tổng số đối tác ta có khuôn khổ quan hệ lên 32 đối tác và ký kết hơn 170 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Lãnh đạo chủ chốt ta đã tiến hành tổng cộng 60 hoạt động đối ngoại, trong đó có 21 chuyến thăm tới các nước và tham dự các hội nghị đa phương lớn; đón 25 đoàn lãnh đạo các nước thăm Việt Nam.
Những chuyến thăm, hoạt động đối ngoại này đạt được nhiều kết quả có tầm quan trọng chiến lược và lâu dài, nhất là việc nâng tầm, nâng cấp quan hệ với các đối tác chủ chốt và đưa quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả.
Cục diện đối ngoại thuận lợi, rộng mở được củng cố, tạo nền tảng vững chắc cho bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, nâng cấp quan hệ lên Ðối tác chiến lược toàn diện với Australia, Pháp và Malaysia, nâng cấp lên Ðối tác chiến lược với Brazil và thiết lập quan hệ Ðối tác toàn diện với Mông Cổ và Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), nâng tổng số đối tác ta có khuôn khổ quan hệ lên 32 đối tác và ký kết hơn 170 thỏa thuận hợp tác trên nhiều lĩnh vực.
Ðiều này một mặt thể hiện sự năng động, chủ động của đối ngoại, ngoại giao Việt Nam, mặt khác cho thấy sự coi trọng của các nước đối với giá trị, vai trò địa chiến lược của Việt Nam và mong muốn thúc đẩy quan hệ sâu sắc hơn với Việt Nam.
Trên bình diện đa phương, Việt Nam ngày càng khẳng định năng lực, vai trò và trách nhiệm của mình trong các vấn đề quốc tế. Trên các diễn đàn quốc tế như ASEAN, Liên hợp quốc, Tiểu vùng Mê Công, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Nhóm các nền kinh tế mới nổi và phát triển hàng đầu thế giới (G20), Nhóm các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS), Hội đồng liên Nghị viện Hiệp hội các quốc gia Ðông Nam Á (AIPA), Phong trào Không liên kết, Pháp ngữ, Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò chủ động, tích cực.
Lần đầu chúng ta tổ chức thành công Diễn đàn tương lai ASEAN, thiết lập cơ chế trao đổi, thúc đẩy vai trò của Việt Nam trong định hình tương lai của ASEAN sau năm 2025, tầm nhìn đến 2045.
Việc Ðại hội đồng Liên hợp quốc vừa qua thông qua Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng và chọn Việt Nam là địa điểm tổ chức Lễ ký Công ước đánh dấu một mốc mới trong công tác hội nhập pháp lý quốc tế nói riêng và đối ngoại đa phương của Việt Nam nói chung, khẳng định Việt Nam là đối tác tích cực, tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
Tại các tổ chức mà Việt Nam đang đảm nhiệm các trọng trách như Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và 6 trong số 7 cơ chế điều hành quan trọng của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), Việt Nam đã thể hiện năng lực đóng góp của mình, đưa ra nhiều sáng kiến được ủng hộ rộng rãi. Ðồng thời sự đóng góp có trách nhiệm của Việt Nam trong các vấn đề chung như chống biến đổi khí hậu, gìn giữ hòa bình, an ninh mạng… ngày càng được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.
Góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm từ xa, giữ nước từ khi nước còn chưa nguy, đối ngoại đã phối hợp hiệu quả với các lực lượng thực hiện nhiệm vụ "trọng yếu, thường xuyên" bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc.
Trước những biến động lớn trên thế giới, chúng ta đã xử lý đúng đắn quan hệ với các đối tác, duy trì đường biên giới trên bộ hòa bình, ổn định và hợp tác, đạt được tiến triển trong đàm phán với các nước, thúc đẩy xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Ðông hiệu lực, thực chất và phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Ðồng thời, chúng ta nêu cao chủ trương và thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế… Các cơ quan đối ngoại đã tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ chỉ đạo xử lý hiệu quả nhiều vấn đề trước diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế.
Xác định rõ vai trò trung tâm của nền ngoại giao trong kỷ nguyên mới, ngoại giao kinh tế đã góp phần quan trọng tạo đà bứt phá cho tăng trưởng. Các động lực tăng trưởng truyền thống về thương mại, đầu tư, du lịch, lao động được làm mới, sâu sắc hơn, hiệu quả hơn, nhất là với các thị trường lớn, các đối tác đầu tư chủ chốt truyền thống ở Ðông Bắc Á, châu Mỹ, mở lối đột phá vào thị trường Trung Ðông, châu Phi…
Với cách làm mới, chúng ta đã khai thác hiệu quả 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với hơn 60 đối tác, tháo gỡ các rào cản thị trường, qua đó góp phần phục hồi xuất khẩu, đưa kim ngạch thương mại dự kiến đạt con số kỷ lục gần 800 tỷ USD; đón bắt làn sóng chuyển dịch đầu tư, đưa Việt Nam tiếp tục là một trong những nước tiếp nhận FDI lớn trên thế giới; khai thác hiệu quả lợi ích của các cam kết, thỏa thuận quốc tế; thúc đẩy các thành viên Liên minh châu Âu (EU) phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA); tìm kiếm, mở ra thị trường mới như sản phẩm Halal cho xuất khẩu của Việt Nam.
Ðồng thời, ngoại giao kinh tế cũng thúc đẩy các động lực mới, nhất là ngoại giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, hợp tác bán dẫn… với các đối tác chủ chốt, các tập đoàn lớn, qua đó kết nối, tranh thủ các đối tác trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI)…
Thu hút đầu tư chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ mới, nhất là các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đầu tư vào Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, góp phần hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, thành lập trung tâm đổi mới sáng tạo về AI, thiết kế chip, đào tạo nguồn nhân lực công nghệ cao, tranh thủ thời cơ của Cách mạng công nghiệp 4.0 để tạo đột phá, thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước đến năm 2030 và 2045.
Cùng với đó, thế và lực của đất nước được nâng cao từ sự cộng hưởng hiệu quả của công tác thông tin đối ngoại, ngoại giao văn hóa, công tác người Việt Nam ở nước ngoài, bảo hộ công dân. Ngoại giao đã góp phần vận động thành công UNESCO ghi danh thêm 6 danh hiệu/di sản, nâng tổng số danh hiệu UNESCO lên 71, là một nguồn lực mới cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội bền vững ở các địa phương.
Công tác người Việt Nam ở nước ngoài thực hiện tốt chính sách chăm lo của Ðảng và Nhà nước với gần 6 triệu đồng bào, huy động nguồn lực cho phát triển với hàng nghìn dự án đầu tư và hàng chục tỷ USD kiều hối. Bảo hộ công dân tích cực bảo vệ an ninh, an toàn, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, doanh nghiệp Việt Nam, nhất là tại các vùng chiến sự, thiên tai, mất ổn định, sơ tán hàng nghìn công dân về nước. Thông tin đối ngoại quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước, con người, văn hóa, thành tựu đổi mới của đất nước ra thế giới.
Việc xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, nhất là việc sắp xếp tổ chức, bộ máy các cơ quan làm công tác đối ngoại theo tinh thần Nghị quyết 18 Khóa XII của Ðảng được triển khai quyết liệt, cùng với xây dựng, chỉnh đốn Ðảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Phương thức, lề lối làm việc không ngừng được đổi mới theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, hiện đại, để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới.
Những thành tựu quan trọng, có ý nghĩa trong năm 2024 gắn liền với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và những quyết sách sáng suốt, kịp thời của Trung ương Ðảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Thành công này cũng là kết tinh nỗ lực, chung sức, đồng lòng của các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị, trong đó có đóng góp tích cực của các lực lượng làm công tác đối ngoại.

CHÍNH SÁCH VỚI NGƯỜI THUỘC QUÂN ĐỘI NGHỈ HƯU TRƯỚC TUỔI KHI SẮP XẾP TỔ CHỨC BỘ MÁY

Chế độ, chính sách với người thuộc Quân đội nghỉ hưu trước tuổi khi sắp xếp tổ chức bộ máy theo Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31-12-2024 của Chính phủ được thực hiện như thế nào?

Ngày 31-12, Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2024/NĐ-CP về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Theo quy định của Nghị định, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; người làm việc trong tổ chức cơ yếu (sau đây gọi tắt là người thuộc Quân đội) trong quá trình thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy được thực hiện chính sách như đối với cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng quy định tại Nghị định.
Tuổi nghỉ hưu để tính hưởng chính sách, chế độ đối với sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam và các văn bản hướng dẫn.
Tuổi nghỉ hưu để tính hưởng chính sách, chế độ đối với quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng thực hiện theo quy định của Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng và các văn bản hướng dẫn.
Đối với người làm việc trong tổ chức cơ yếu; lao động hợp đồng hưởng lương từ ngân sách nhà nước thuộc Công an nhân dân, thì tuổi nghỉ hưu thực hiện theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Nghị định số 135/2020/NĐ-CP.
Được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm
Như vậy, theo Nghị định, người thuộc Quân đội nghỉ trong thời hạn 12 tháng đầu tiên kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy nếu có tuổi đời từ đủ 5 năm trở xuống đến tuổi nghỉ hưu thì được hưởng trợ cấp bằng 1 tháng tiền lương được hưởng tại thời điểm nghỉ nhân với số tháng nghỉ sớm so với thời điểm nghỉ hưu.
Ví dụ, Đại tá có tuổi nghỉ hưu theo quy định của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là 58 tuổi. Đồng chí Đại tá A nghỉ khi 54 tuổi, trong thời gian 12 tháng kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy. Đồng chí A nghỉ trước 4 năm so với quy định, nên số tiền trợ cấp 1 lần của đồng chí A là số tiền lương 1 tháng được hưởng tại thời điểm nghỉ nhân với 48 tháng.
Trường hợp có tuổi đời còn trên 5 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu thì được hưởng trợ cấp bằng 0,9 tháng tiền lương được hưởng tại thời điểm nghỉ nhân với 60 tháng.
Ví dụ, Đại tá B còn 6 năm đến tuổi nghỉ hưu, viên chức quốc phòng C còn 10 năm đến tuổi nghỉ hưu nhưng đều nghỉ trước do sắp xếp tổ chức bộ máy theo quy định thì cùng được hưởng trợ cấp là 0,9 tháng lương được hưởng tại thời điểm nghỉ nhân với 60 tháng.
Người nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi kể từ khi có quyết định sắp xếp thì được hưởng trợ cấp bằng 0,5 lần mức quy định áp dụng khi nghỉ trong 12 tháng.
Được hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi, không bị trừ tỷ lệ lương hưu
Người thuộc Quân đội khi nghỉ do sắp xếp tổ chức bộ máy cũng vẫn được hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi.
Trường hợp có tuổi đời còn từ đủ 2 năm đến đủ 5 năm đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng lương hưu theo quy định, người hưởng chế độ hưu trí theo quy định còn được hưởng 5 tháng tiền lương tại thời điểm nghỉ cho mỗi năm nghỉ trước tuổi; được trợ cấp 5 tháng tiền lương tại thời điểm nghỉ cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Ví dụ: Đại tá A nêu trên khi nghỉ hưu trước 4 tuổi sẽ được hưởng trợ cấp bằng 20 tháng lương được hưởng tại thời điểm nghỉ. Nếu Đại tá A đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc được 36 năm thì còn được hưởng thêm 5 tháng lương cho 20 năm đầu và 8 tháng lương cho 16 năm tiếp theo. Tổng cộng, Đại tá A được hưởng trợ cấp 33 tháng lương (theo mức lương được hưởng tại thời điểm nghỉ).
Trường hợp có tuổi đời còn trên 5 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và có đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc để được hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngoài hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì còn được hưởng trợ cấp 4 tháng tiền lương tại thời điểm nghỉ cho mỗi năm nghỉ trước tuổi; được trợ cấp 5 tháng tiền lương tại thời điểm nghỉ cho 20 năm đầu công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc. Từ năm thứ 21 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì được trợ cấp 0,5 tháng tiền lương hiện hưởng.
Như vậy, người thuộc Quân đội nghỉ hưu trước tuổi do sắp xếp tổ chức bộ máy sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cùng với trợ cấp nghỉ hưu trước tuổi, được hưởng đầy đủ lương hưu mà không bị trừ tỷ lệ lương hưu.