Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

Chiến thắng 7-1: Trang sử vàng của tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia

 

Chiến thắng 7-1: Trang sử vàng của tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia

Cách đây đúng 46 năm, vào ngày 7-1-1979, quân và dân Campuchia với sự giúp đỡ của Quân tình nguyện Việt Nam đã giải phóng Phnom Penh, đánh đổ chế độ diệt chủng bạo tàn do Pol Pot cầm đầu. Chiến thắng đó đã là một phần lịch sử như mốc son chói lọi của tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, đồng thời mở ra một trang mới trong quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước.

Thảm kịch diệt chủng đã qua đi, nhưng những “vết sẹo” lớn để lại vẫn nhức nhối và ám ảnh mỗi khi nhắc đến một trong những sự kiện bi thảm nhất lịch sử loài người trong thế kỷ 20…

Bên bờ vực diệt chủng!

Ngày 17-4-1975, thủ đô Phnom Penh - thành trì cuối cùng của chính quyền Lon Nol (Cộng hòa Khmer) thất thủ, chấm dứt cuộc nội chiến dai dẳng trong suốt 5 năm qua. Người dân Campuchia vui mừng khôn xiết đổ ra đường chào đón những đoàn quân giải phóng tiến vào tiếp quản Phnom Penh, bởi họ hiểu rằng chiến tranh đã kết thúc, hòa bình được lập lại. Người dân Campuchia đã vội vàng mơ về một cuộc sống thanh bình, hạnh phúc mà họ hằng chờ đợi. Nhưng trớ trêu thay, ngày mà họ kỳ vọng nhất vào một tương lai tươi sáng ấy lại chính là ngày khởi đầu của một giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử Campuchia.

Chỉ vài giờ sau khi tiến vào Phnom Penh, lực lượng của Pol Pot đã ra lệnh ép buộc tất cả người dân phải rời khỏi Phnom Penh, bất cứ ai không nghe theo mệnh lệnh đều bị sát hại không từ người già, trẻ nhỏ, người tàn tật, nhà sư, trí thức… Từng đoàn người dắt díu, bồng bế nhau bị xua đuổi về các vùng quê, chen lấn nhau như nước vỡ bờ tạo nên một cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.

Chiến thắng 7-1: Trang sử vàng của tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia
 Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia cùng Quân tình nguyện Việt Nam tiến vào giải phóng thủ đô Phnom Penh, ngày 7-1-1979. Ảnh tư liệu 

Ngay sau khi giành được chính quyền, chính quyền do Pol Pot cầm đầu đã tiến hành xây dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử, khi tách biệt đất nước với thế giới bên ngoài. Chúng thực hiện chính sách phản động trên toàn quốc, áp đặt những chính sách độc tài hết sức dã man, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân và biến họ thành nô lệ thực thi mọi mệnh lệnh của “Angkar”. Với luận điệu và khẩu hiệu “xóa bỏ giai cấp” chính quyền Campuchia Dân chủ đã xóa bỏ thành thị, lùa người dân từ thành thị về nông thôn, ép buộc họ phải làm nông dân, cưỡng bức lao động khổ sai, xóa bỏ trường học, giết hại trí thức, hủy bỏ hệ thống giáo dục, thủ tiêu văn hóa, phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân Campuchia, xóa bỏ một cách thô bạo tự do tín ngưỡng... Chỉ trong 3 năm 8 tháng 20 ngày (17-4-1975 / 7-1-1979), chúng đã sát hại hàng triệu người dân Campuchia vô tội.

Chúng cũng đồng thời thực thi chính sách về đối ngoại vô cùng nguy hiểm. Được bên ngoài kích động, xúi bẩy và hậu thuẫn, tập đoàn Pol Pot - Ieng Sary ra sức xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, kích động tư tưởng thù hằn dân tộc, chống Việt Nam. Những hoạt động quân sự xâm phạm biên giới của chúng là hành động cực kỳ nguy hiểm, xâm phạm thô bạo đến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau những sự kiện nghiêm trọng trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn bày tỏ mong muốn hai nước đàm phán trên tinh thần tôn trọng nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tiếp tục phát triển tình đoàn kết, hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Đáp lại đề nghị đầy thiện chí của Việt Nam, phía Campuchia dân chủ không những không chịu gặp gỡ, trao đổi với phía Việt Nam mà còn tăng cường xâm lấn quân sự dọc biên giới hai nước, mở nhiều cuộc tiến công lớn sang lãnh thổ Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia, suốt từ các tỉnh Kiên Giang, An Giang lên tới Tây Nguyên, gây nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam.

Trước tình hình đó, Việt Nam buộc phải thực hiện quyền tự vệ chính đáng, phối hợp với lực lượng cách mạng Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng Pol Pot, giải phóng nhân dân Campuchia khỏi họa diệt chủng, giúp nhân dân Campuchia hồi sinh.

Theo đó, từ ngày 23-12-1978, các binh đoàn chủ lực Việt Nam tiến hành chiến dịch tổng phản công trên toàn tuyến biên giới, tiêu diệt hàng chục nghìn tên địch, đẩy chúng vào thế bị động, lúng túng và tan rã từng mảng lớn. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnom Penh hoàn toàn được giải phóng. Phần lớn lực lượng Pol Pot - Ieng Sary bị tiêu diệt và tan rã, số còn lại lẩn trốn vào rừng trên tuyến biên giới phía Tây Campuchia.

Lịch sử không bao giờ bị lãng quên và không ai bị quên lãng

Chiến thắng đập tan chế độ diệt chủng Pol Pot - Ieng Sary mùa Xuân năm 1979 là chiến công chung của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia, kết quả của sự phối hợp chiến đấu giữa Quân đội Việt Nam với các lực lượng yêu nước, cách mạng chân chính Campuchia và sự ủng hộ to lớn của nhân dân Campuchia. Với Việt Nam, thắng lợi trong cuộc đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc một lần nữa khẳng định, nhân dân Việt Nam với ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế trong sáng, sẵn sàng đập tan bất kỳ âm mưu và hành động chống phá nào của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời thể hiện tinh thần quốc tế cao cả, mối quan hệ truyền thống gắn bó thủy chung, lâu đời, sự giúp đỡ trong sáng, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Campuchia.

Trong chuyến thăm cấp nhà nước đến Campuchia (2017), cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Lịch sử không bao giờ bị lãng quên và không ai bị quên lãng. Vinh quang đời đời thuộc về những người con ưu tú đã ngã xuống vì Tổ quốc của hai dân tộc”. Và trong thông điệp gửi tới nhân dân Campuchia nhân dịp kỷ niệm ngày chiến thắng 7-1 hằng năm, Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Samdech Techo Hun Sen cũng luôn nhắc đến công lao to lớn, sự hy sinh anh dũng của những chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam và chiến sĩ cách mạng Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã hy sinh xương máu vì nền độc lập của đất nước Campuchia. Đây vĩnh viễn là một phần lịch sử hào hùng, tráng lệ của tình đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung Việt Nam - Campuchia. 

Chiến thắng 7-1: Trang sử vàng của tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia
 Người dân Campuchia đứng hai bên đường vẫy chào, chia tay quân tình nguyện Việt Nam về nước năm 1989. Ảnh tư liệu: TTXVN 

Ở Campuchia, Chiến thắng 7-1 thật sự đã khắc sâu trong trái tim của người dân yêu chuộng hòa bình nơi đây, họ coi ngày 7-1-1979 là ngày họ được tái sinh và không có Chiến thắng 7-1 không có Campuchia ngày hôm nay. Đây là một chân lý lịch sử mà không ai có thể thay đổi, hoặc xóa bỏ. Chiến thắng 7-1-1979 chắc chắn là “Bài học lịch sử đắt giá nhất” được đúc rút cho các thế hệ hôm nay, mai sau ghi nhớ, kế thừa truyền thống đoàn kết, anh hùng, tinh thần quốc tế trong sáng tương trợ lẫn nhau của quân và dân Việt Nam, Campuchia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Trong bài viết mới đây của học giả Uch Leang đến từ Viện Hàn lâm Hoàng gia Campuchia (RAC) đã dẫn lời ông Sok Eysan, người phát ngôn Đảng Nhân dân Campuchia khẳng định rằng: “Dưới chế độ diệt chủng Pol Pot, nhân dân Campuchia đã rơi vào cảnh khốn cùng chưa từng có trên thế giới. Trong thời điểm bi thảm đó, quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đã nhanh chóng và kịp thời mở các cuộc tấn công để giải phóng nhân dân Campuchia khỏi chế độ diệt chủng”.

Sự thật luôn hiển nhiên là vậy, dù vẫn còn đâu đó những luận điệu cực đoan, thù địch của những kẻ cơ hội, đang cố tình xuyên tạc lịch sử, kích động, gây chia rẽ mối quan hệ láng giềng hữu nghị, đoàn kết và hợp tác giữa hai dân tộc Việt Nam và Campuchia.

Thậm chí, những hy sinh to lớn, tinh thần quốc tế cao cả và trong sáng của Việt Nam khi giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, thoát khỏi nạn diệt chủng Khmer Đỏ còn bị bóp méo, xuyên tạc và còn bị không ít dư luận từ cộng đồng quốc tế hiểu sai suốt thời gian dài.

Ngày 16-11-2018, khi Toà án đặc biệt xét xử tội ác Khmer Đỏ ra phán quyết về tội ác diệt chủng chống lại nhân loại của Khmer Đỏ, trả lại công bằng cho các nạn nhân Việt Nam và Campuchia, lúc này sự chính nghĩa, tinh thần quốc tế cao cả, trong sáng của Việt Nam khi sang giúp nhân dân Campuchia thoát nạn diệt chủng mới được sự thừa nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế.

Khi Tòa án xét xử Khmer Đỏ ra phán quyết này, nhiều dư luận trong và ngoài nước cho rằng “thế giới đang nợ Việt Nam một lời xin lỗi”. Nhưng nói như quan điểm của cố Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam thì có lẽ chúng ta không cần một lời xin lỗi, mà cần cộng đồng quốc tế nhận thức đúng đắn về lịch sử…

Vận mệnh hai dân tộc là không thể tách rời

Đã 46 năm kể từ sau Chiến thắng ngày 7-1-1979, hai nước Việt Nam và Campuchia luôn luôn trân trọng và gìn giữ mối quan hệ láng giềng tốt đẹp này. Lãnh đạo hai nước luôn khẳng định vận mệnh của hai dân tộc là không thể tách rời nhau và Việt Nam mãi mãi là người bạn láng giềng thủy chung, trước sau như một, mong muốn mối quan hệ đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Campuchia mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững.

Trong thời gian qua, quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, kinh tế đến văn hóa, giáo dục... Hai nước cam kết tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy phát triển bền vững. Thông qua tăng trưởng thương mại, đầu tư, dịch vụ, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm cho người dân Campuchia.

Chiến thắng 7-1: Trang sử vàng của tình hữu nghị Việt Nam - Campuchia
Chủ tịch nước Tô Lâm (nay là Tổng Bí thư) hội kiến với Quốc vương Norodom Sihamoni nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Vương quốc Campuchia, ngày 12-7-2024. Ảnh: TTXVN 

Tại cuộc hội kiến giữa Tổng Bí thư Tô Lâm và Quốc vương Campuchia Preah Bat Samdech Preah Boromneath Norodom Sihamoni nhân chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam, hai bên đều khẳng định mong muốn, quyết tâm cao và dành ưu tiên hàng đầu cho việc xây dựng, phát triển mối quan hệ giữa hai nước không ngừng phát triển tốt đẹp.

Năm 2024 vừa qua là một minh chứng rõ nét nhất cho điều này, khi hai bên duy trì một loạt các hoạt động tiếp xúc cấp cao quan trọng như: Chủ tịch nước Tô Lâm (nay là Tổng Bí thư) thăm cấp Nhà nước tới Campuchia (tháng 7-2024); Cuộc ăn sáng - làm việc giữa ba Thủ tướng Việt Nam - Lào - Campuchia (tháng 10-2024); Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn thăm chính thức Campuchia (tháng 11-2024); Quốc vương Campuchia Preah Bat Samdech Preah Boromneat Norodom Sihamoni thăm cấp nhà nước tới Việt Nam (tháng 11-2024) ... Có thể nói, các cuộc gặp gỡ, trao đổi trực tiếp của lãnh đạo cấp cao hai nước luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc dẫn dắt và định hướng cho quan hệ giữa hai nước.

Dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực trong thời gian tới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, hai nước Việt Nam và Campuchia vẫn sẽ cùng nhau cảnh giác, đấu tranh với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi bị kích động, những hoạt động vu khống, gây chia rẽ. Chúng ta tin tưởng quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia đã được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp tiếp tục được duy trì, củng cố và phát triển tốt đẹp, ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.   

ĐOÀN TRUNG

Không có "việc nhẹ lương cao"!

Không bao giờ có việc nhẹ lương cao, đây là thực tế. Khi người lao động được mời chào một công việc có tính chất nhẹ nhàng, lương hậu hĩnh thì điều đó chắc chắn không có...

Vào dịp cuối năm, nhu cầu tìm việc làm thời vụ của người lao động (NLĐ) thường tăng cao so với các thời điểm khác trong năm. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp cũng đẩy mạnh các hoạt động tuyển dụng với nhiều vị trí việc làm, mức lương hấp dẫn khiến thị trường lao động thời điểm này trở nên sôi động. Thế nhưng, các đối tượng lừa đảo cũng nhân cơ hội này để đăng tải các thông tin tuyển dụng lừa đảo lên mạng xã hội, do vậy NLĐ phải hết sức cẩn trọng.

Các chiêu trò lừa đảo phổ biến có thể kể tới như: Viết nội dung quảng cáo cho website, thời gian làm 2-3 tiếng/ngày, thu nhập 100.000-150.000 đồng/bài viết (tùy độ dài); tuyển nhân viên đánh giá sản phẩm, đăng bài theo các mẫu có sẵn, thu nhập cao, trả theo ngày; tuyển nhân viên đánh máy theo mẫu bài có sẵn, làm việc tại nhà, không giới hạn số lượng mỗi ngày, tiền công 50.000 đồng/bài; tuyển nhân viên xâu vòng, gia công tóc giả, mi giả...

Từ những nội dung quảng cáo này, chúng dẫn dắt nạn nhân truy cập vào các đường link độc hại để hack tài khoản ngân hàng hoặc yêu cầu đặt cọc tiền để giữ chỗ, sau đó chiếm đoạt tiền. 

Không có "việc nhẹ lương cao"!
 Ứng viên tham gia phỏng vấn trong khuôn khổ phiên giao dịch việc làm tại Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội.

Là nạn nhân của các đối tượng lừa đảo việc làm, Nguyễn Minh Nguyệt, sinh viên năm thứ hai, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) cho biết: “Cuối năm, lịch học không căng thẳng, tôi muốn tìm việc làm thời vụ để có thêm thu nhập tiêu Tết. Qua Facebook, tôi thấy có doanh nghiệp tuyển người làm thêm tại nhà với mức lương từ 6 đến 12 triệu đồng mỗi tháng. Đây là công việc đơn giản (gia công lông mi giả), nếu không muốn đến xưởng làm có thể đem hàng về nhà. Chỉ cần đặt cọc để ôm hàng là có thu nhập. Tôi đã chuyển khoản 500.000 đồng nhưng chờ mãi không thấy xưởng gửi hàng về để làm, sau đó, tôi mới biết là mình đã bị lừa”.

Minh Nguyệt chỉ là một trong nhiều trường hợp bị rơi vào bẫy lừa. Đáng nói, không chỉ NLĐ bị lừa mà các doanh nghiệp cũng “đau đầu” vì bị hiểu lầm, thương hiệu bị ảnh hưởng, phải liên tục đưa ra cảnh báo, khuyến cáo ứng viên nâng cao tinh thần cảnh giác.

Trao đổi với chúng tôi, ông Vũ Quang Thành, Phó giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội nhận định, tình trạng lừa đảo tuyển dụng lao động, nhất là vào dịp cuối năm không mới, tuy nhiên, hiện nay do mạng xã hội bùng nổ và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ khiến cho vấn nạn này ngày càng trở nên phức tạp hơn. Từ kinh nghiệm trong tổ chức các hoạt động kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp và NLĐ nhiều năm qua, ông Vũ Quang Thành lưu ý, để tránh sập bẫy lừa đảo, người dân cần cẩn trọng khi đi xin việc. Khi vào các website tìm việc làm, nên chú ý phần mô tả công việc bảo đảm được thể hiện rõ ràng, cụ thể về mức lương, công việc, địa chỉ công ty, năm thành lập...

Về mặt nội dung, khi đọc một quảng cáo mô tả công việc phải có đầy đủ nhiệm vụ, quyền lợi của nhân viên, nên xem yêu cầu công việc có phù hợp với vị trí công việc đó không, rồi tìm kiếm công ty đó trên nhiều trang thông tin khác. “Đặc biệt cần hết sức lưu ý là không bao giờ có việc nhẹ lương cao, đây là thực tế. Khi NLĐ được mời chào một công việc có tính chất nhẹ nhàng, lương hậu hĩnh thì điều đó chắc chắn không có”, ông Thành nhấn mạnh. 

Ông Ngô Minh Hiếu, Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia cho rằng, không nên tìm việc làm trên mạng xã hội, vì các bài tuyển dụng lừa đảo thường không có thông tin rõ ràng về công việc mà chỉ có số điện thoại liên lạc hoặc nhắn tin liên hệ qua mạng xã hội. Đối với các doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng thật thì thường không yêu cầu nộp phí khi ứng tuyển.

Khi muốn ứng tuyển, NLĐ có thể liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp để xác nhận thông tin tuyển dụng. Điều này không chỉ giúp NLĐ nắm rõ thông tin mà còn tạo cơ hội phỏng vấn trực tiếp, tránh mất thời gian đi lại không cần thiết.

Hiện, trên thị trường có nhiều kênh tuyển dụng việc làm, song điều này cũng tiềm ẩn rủi ro bởi nhiều trường hợp không được kiểm chứng. Vì vậy, ông Vũ Quang Thành khuyến cáo NLĐ cần tìm đến các kênh tuyển dụng chính thức của doanh nghiệp hoặc hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm thuộc sở lao động-thương binh và xã hội các địa phương cũng như tham gia các phiên giao dịch việc làm do các sở lao động-thương binh và xã hội tổ chức.

“Các doanh nghiệp tham gia tuyển dụng tại các phiên giao dịch việc làm hoặc đăng tuyển dụng thông qua các trung tâm dịch vụ việc làm đã được sàng lọc, thẩm định nên bảo đảm về độ tin cậy. NLĐ khi tham gia các phiên giao dịch việc làm dễ dàng tiếp cận với doanh nghiệp và phỏng vấn trực tiếp, tránh mất công đi lại, bảo đảm an toàn”, ông Thành chia sẻ.

Bài và ảnh: HUYỀN TRANG

Tỉnh táo trước sự xuyên tạc, chống phá về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp

“Công tác nhân sự là công việc rất quan trọng của mỗi kỳ đại hội Đảng. Công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng, quyết định sự thành bại của cách mạng. Do đó, công tác nhân sự phải được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, thận trọng”. Đó là kết luận của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc họp Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng mới đây.

Dựng chuyện, xuyên tạc - câu chuyện "bình cũ rượu mới"

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 sẽ được tổ chức trong năm 2025. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng (dự kiến được tổ chức vào tháng 1-2026). 

Trước thềm đại hội đảng các cấp, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt. Chúng tập trung xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là về công tác nhân sự đại hội... Đây sẽ là “điểm mấu chốt” để các thế lực thù địch, phần tử phản động câu kết chống phá trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên không gian mạng. Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong một bộ phận quần chúng nhân dân, tập trung ở những nơi từng gây ra mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tất cả sự chống phá nêu trên đều nhằm tới mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín cán bộ, nhất là cán bộ có khả năng là ứng viên cho cấp ủy khóa mới của các cấp; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguy hại hơn là đã có không ít cán bộ, người dân tin vào những thông tin và luận điệu xuyên tạc ấy.

Tỉnh táo trước sự xuyên tạc, chống phá về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp

Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 và một số nội dung quan trọng. Ảnh: dangcongsan.vn 

Trên internet, mạng xã hội và một số diễn đàn, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Các phần tử xấu tiếp tục dựng chuyện và quy chụp rằng “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIV là Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIV”. Đặc biệt, về vấn đề nhân sự, họ tự dựng lên danh sách lãnh đạo cấp cao... Họ tung hô, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác...

Tỉnh táo, ngăn chặn sự xuyên tạc, bịa đặt

Để phòng, chống thông tin giả, tin đồn thất thiệt về công tác nhân sự trước đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng có hiệu quả, phải thực hiện tổng hợp nhiều hình thức, biện pháp bao gồm cả phòng và chống trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở tất các các cấp, các ngành, từ Trung ương đến các địa phương, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng diễn ra tại Hà Nội vào ngày 13-3-2024, nói về nội dung “Trách nhiệm của chúng ta”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Phải xác định công tác chuẩn bị nhân sự là nhiệm vụ quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển vững mạnh của đất nước; phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã vi phạm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên nạt dưới; bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai họa cho Đảng, là điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.

Đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Đặc biệt, ngày 14-6-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng (Chỉ thị 35). Đây là văn bản hết sức quan trọng, định hướng rõ những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu và những nội dung cơ bản chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp để các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cấp mình; bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

 Chỉ thị 35 đặt ra 7 yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự. Theo đó, công tác nhân sự cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy các cấp, đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu theo quy định; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao, thận trọng từng bước, làm đến đâu chắc đến đó; cần có cơ chế, tiêu chí sàng lọc hiệu quả để không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài. Quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc, đúng quy trình, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong công tác lựa chọn, giới thiệu và bầu cấp ủy các cấp. Cấp ủy nhiệm kỳ 2025-2030 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.

Cụ thể về tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025-2030, Chỉ thị 35 và Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh: Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hai là, có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kê khai tài sản, thu nhập trung thực, minh bạch; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... Không để vợ hoặc chồng, con, người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Ba là, có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và “sản phẩm” cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao.

Công tác chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng đang được tiến hành một cách khẩn trương nhưng cũng rất chặt chẽ, chu đáo, công phu, bài bản, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục... được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Trong đó, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác nhân sự đại hội và quản lý đội ngũ cán bộ... Việc chủ động nhận diện, đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp là yêu cầu khách quan, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.

NGUYỄN NGỌC DOANH

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN ĐÒI PHI CHÍNH TRỊ HÓA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

 Trong mọi giai đoạn của cách mạng, lực lượng vũ trang có vai trò đặc biệt quan trọng, do đó họ luôn là mục tiêu của các thế lực thù địch hướng tới chống phá. Một trong những âm mưu của kẻ địch là tăng cường cổ xúy vấn đề phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an.

Đây chính là chiêu bài quen thuộc mà các thế lực thù địch, phản động thường áp đặt, tạo tiền đề cơ bản thực hiện ý đồ gây bạo loạn, lật đổ. Đối với Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Chúng xác định, muốn Đảng suy yếu vai trò lãnh đạo thì cần phải tước bỏ sức mạnh của Đảng, tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng, đó chính là lực lượng Công an và Quân đội.

Do đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá, trong đó tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội, công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng… để tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.

Thực chất hoạt động này là nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Công an và Quân đội, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng ta đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng Công an, Quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì các thế lực thù địch, số chống đối chính trị càng ráo riết tìm mọi cách thúc đẩy ý đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

Cụ thể:

Các đối tượng thù địch, phản động thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang bằng cách triệt để khai thác những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, ngụy tạo chứng cứ, bồi bút xuyên tạc, “tát bùn sang ao” nhằm bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng lực lượng vũ trang. Kích thích, cổ xúy những xu hướng tư tưởng sai trái, những hành vi phi đạo đức, lối sống lệch chuẩn, xa hoa, lãng phí trong chiến sĩ trẻ lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là thủ đoạn phổ biến nhằm tập trung phá hoại bản chất, truyền thống, những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của Quân đội, Công an, làm cơ sở cho việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hướng tới làm biến chất lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngay từ bên trong.

Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để tăng cường tuyên truyền, tác động tư tưởng, đạo đức, tư duy, lối sống lệch chuẩn vào đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh “cuộc xâm lăng về văn hóa” vào nhận thức của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, phòng, chống khủng bố, buôn người… để truyền bá, thâm nhập quan điểm dân chủ tư sản kết hợp mua chuộc bằng lợi ích vật chất, đẩy mạnh tuyên truyền lối sống thực dụng, làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, biến chất về chính trị. Thủ đoạn này được các thế lực thù địch triệt để khai thác dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau.

Thời gian gần đây, để đánh lạc hướng, các thế lực thù địch thông qua “tâm thư”, “thư ngỏ”, “kiến nghị” đòi “duy trì tính trung lập về chính trị” nhưng thực chất là đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an. Chúng cho rằng hai lực lượng này cần phải thực hiện “tính trung lập về chính trị”, tức là “đứng ngoài chính trị”, “không can dự” vào các cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị”; “là con em của nhân dân, các lực lượng vũ trang được nhân dân nuôi dưỡng thì chỉ vì nhân dân là đủ”. Chúng ngụy biện rằng, Quân đội có nhiệm vụ hiến định là quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào thực hiện nhiệm vụ phục vụ, bảo vệ Đảng; vu cáo việc Công an thực hiện một số nhiệm vụ như cưỡng chế giải phóng mặt bằng là “đàn áp dân”, “đối đầu với dân”…

Việc nêu ra quan điểm “tính trung lập về chính trị” của Quân đội và Công an đã cho thấy mục đích, bản chất phi khoa học, phi thực tiễn khi cố tình lèo lái việc “trung lập về chính trị” là đứng ngoài các lực lượng, đảng phái, các hoạt động chính trị, không tham gia đấu tranh chính trị... Qua đó hướng lái bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân sang lập trường, bản chất chính trị khác. Như vậy, thuật ngữ có sự thay đổi nhưng âm mưu, ý đồ không thay đổi, “trung lập hóa về chính trị” chỉ là một cách diễn đạt khác của phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhằm tước bỏ công cụ chuyên chính trọng yếu, tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Thực tế trên cho thấy âm mưu, hoạt động phi chính trị hóa lực lượng vũ trang là vô cùng nguy hiểm, có thể dẫn tới sự vô hiệu hóa công cụ chuyên chính của Đảng, tước bỏ sức mạnh quan trọng nhất để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng như chế độ XHCN tại Việt Nam. Những luận điệu tuyên truyền đòi phi chính trị hóa càng trở nên nguy hiểm hơn khi núp dưới nhiều danh nghĩa, vỏ bọc khác nhau trong thế giới toàn cầu hóa và được sự “hà hơi” “thổi sức” của khoa học công nghệ, các tiện ích của mạng internet, các nền tảng mạng xã hội như facebook, youtober, tiktok…

Việc nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang Việt Nam và triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái này là vấn đề quan trọng. Cần nhận thức rõ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được rời bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp lực lượng vũ trang. Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ lực lượng vũ trang trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về mưu đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là vấn đề cốt lõi, trọng tâm hàng đầu trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng vững chắc đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.

Để ngăn chặn những tác động, chuyển hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế cần có biện pháp bảo vệ cán bộ, chiến sĩ, không để bị tác động, lôi kéo. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, điều lệnh Công an nhân dân; có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng xây dựng tổ chức đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức, cán bộ và đạo đức. Đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật và thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá cán bộ; làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch.

Lực lượng Công an, Quân đội tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, kiến thức, năng lực toàn diện, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân. Đặc biệt, lực lượng Công an, Quân đội tiên phong, đi trước, mở đường trong việc tinh gọn bộ máy, hiện đại hóa, giúp cho lực lượng không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững chủ quyền lãnh thổ mà còn góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong sự nghiệp chung của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “vươn mình của dân tộc” như tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.

 

TOÀN QUÂN TĂNG TỐC, BỨT PHÁ TRONG NĂM 2025

 Vừa qua, tại Hà Nội, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2024. Đồng chí Lương Cường - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước dự, chỉ đạo hội nghị. Đại tướng Phan Văn Giang - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - chủ trì hội nghị.

Báo cáo một số kết quả nổi bật về công tác quân sự, quốc phòng năm 2024 cho biết: Toàn quân thường xuyên cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu cao, nắm chắc, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ; bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước.

Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng xác định, năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, toàn quân tăng tốc, bứt phá, quyết tâm hoàn thành thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo đó, Quân đội sẽ tập trung nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, đánh giá tình hình, tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đúng đắn chủ trương, sách lược quân sự, quốc phòng đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cả trước mắt và lâu dài; kịp thời xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ.

Phối hợp triển khai đồng bộ, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8 khoá XIII về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hoàn thành có chất lượng các nhiệm vụ trong Chương trình công tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong năm 2025.

Cùng với đó, toàn quân phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, khu vực phòng thủ các cấp vững chắc. Chủ động nghiên cứu, phát triển tư duy lý luận, nghệ thuật quân sự, chiến tranh nhân dân, ứng phó thắng lợi các loại hình chiến tranh trong điều kiện mới.

Toàn quân sẽ tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội; duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển, biên giới, nội địa, không gian mạng. Chủ động phối hợp với Công an và các lực lượng giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn cả nước. Bảo đảm kịp thời thông tin liên lạc, cơ yếu, an ninh, an toàn mạng đáp ứng các nhiệm vụ. Thực hiện tốt nhiệm vụ phòng thủ dân sự; tổ chức chặt chẽ, chất lượng, an toàn các cuộc diễn tập.

Toàn quân thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ điều chỉnh tổ chức lực lượng tinh, gọn, mạnh theo Nghị quyết của Bộ Chính trị và chủ trương mới của Trung ương về tổ chức bộ máy. Quản lý, điều chuyển, sử dụng hợp lý quân số. Chỉ đạo huấn luyện, đào tạo bảo đảm chất lượng, an toàn, đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp; tổ chức và tham gia thi đấu các giải thể thao trong nước, quốc tế đạt kết quả cao. Hoàn thành tốt nhiệm vụ diễu binh, diễu hành kỷ niệm các ngày lễ kỷ niệm trọng đại của đất nước; đẩy mạnh xây dựng chính quy, đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương.

Cũng trong năm 2025, Quân đội tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chỉ đạo của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh tiêu biểu và đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chỉ đạo tổ chức thành công đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Quân đội nhiệm kỳ 2025 - 2030.

 

ĐẬP TAN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ KỶ NGUYÊN MỚI CỦA DÂN TỘC

Phát biểu bế mạc tại Hội nghị Trung ương 10 và trong nhiều bài viết, phát biểu quan trọng vừa qua, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.

Tuy nhiên, bằng nhiều thủ đoạn, phương thức khác nhau, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lại ra sức xuyên tạc, phủ nhận mục tiêu đó của dân tộc ta. Vừa qua trên trang Thongluan-rdp, Kỷ Nguyên có bài “Những gì cần thấy đằng sau kỷ nguyên mới của Tô Lâm”, đã xuyên tạc, bóp méo quan điểm về kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần khẳng định:

1. Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là, dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược và có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước trên thế giới. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

2. Mục tiêu của kỷ nguyên mới

Theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, mục tiêu tổng quát của kỷ nguyên mới chính là: Phấn đấu đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả; kinh tế phát triển năng động, nhanh và bền vững, độc lập, tự chủ trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo gắn với nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy sức sáng tạo, ý chí và sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng xã hội phồn vinh, dân chủ, công bằng, văn minh, trật tự, kỷ cương, an toàn, bảo đảm cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Không ngừng nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.

Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Những vấn đề đã được đề cập ở trên là minh chứng khách quan, sinh động, phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch về mục tiêu đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

  

ÔNG CHA TA ĐÁNH GIẶC: ĐỘNG LỰC TỪ CỜ THI ĐUA QUYẾT CHIẾN QUYẾT THẮNG

 Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh, nguyên Phó tư lệnh về Chính trị Quân đoàn 4 (nay là Quân đoàn 34), nguyên Chính ủy Trung đoàn 141, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4, tham gia Chiến dịch Đường 14-Phước Long cách đây tròn 50 năm, khẳng định: Chiến thắng của Chiến dịch Đường 14-Phước Long có nhiều nguyên nhân, trong đó có động lực từ Cờ thi đua Quyết chiến Quyết thắng do Bộ Tổng Tư lệnh trao tặng Quân đoàn 4.

Ngày 12-12-1974, trước ngày nổ súng mở chiến dịch một ngày, đồng chí Nguyễn Ngọc Doanh vinh dự cùng với đồng chí Bùi Văn Vũ, nguyên Phó tư lệnh Quân đoàn 4 và đồng chí Lê Văn Dũng (sau này là Đại tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam) đại diện Quân đoàn 4 đón nhận phần thưởng cao quý. Đó là Cờ thi đua Quyết chiến Quyết thắng có hình ảnh Bác Hồ, do Bộ Tổng Tư lệnh tặng. Sau khi nhận cờ, các đơn vị nhanh chóng tổ chức quán triệt, xây dựng quyết tâm cho bộ đội trước trận chiến quan trọng và ác liệt.

Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh bồi hồi nhớ lại: Trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ đánh vào chi khu quân sự Đồng Xoài. Đây là một trong những trận đánh khó khăn, vì chi khu quân sự Đồng Xoài là căn cứ quân sự khá lớn, án ngữ một đầu mối giao thông chiến lược ở miền Đông Nam Bộ và là bàn đạp để địch lấn chiếm, chia cắt vùng giải phóng của ta. Tại đây, địch xây dựng lô cốt, ụ chiến đấu và những bức tường kiên cố, vững chắc. Xung quanh căn cứ, chúng bố trí nhiều lớp hàng rào thép gai các loại xen kẽ bãi mìn chống xe tăng và bộ binh; bên ngoài có các chốt điểm, vọng gác. Khi bị tấn công, quân địch ở chi khu Đồng Xoài được các lực lượng gần đó và không quân địch ở Tân Sơn Nhất, Biên Hòa sẵn sàng chi viện.

Nhờ được huấn luyện kỹ càng về kỹ thuật, chiến thuật, đặc biệt là thấu triệt tư tưởng tiến công, tinh thần quyết chiến, quyết thắng, sáng 26-12-1974, quân ta dũng mãnh nổ súng tấn công; đến 15 giờ cùng ngày, ta hoàn toàn làm chủ khu vực Đồng Xoài. Đánh chiếm được Đồng Xoài, Trung đoàn 141 bàn giao cho địa phương rồi rút lên Phước Long để tiếp tục Chiến dịch Đường 14-Phước Long.

Đại tá Trần Quang Triệu là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165, Sư đoàn 7 trong Chiến dịch Đường 14-Phước Long kể lại: Trong trận đánh chi khu quân sự Bù Đăng vào đêm 13-12-1974, chiến sĩ Đoàn Đức Thái chỉ huy tổ bộc phá vượt qua địa hình trống trải, sườn đồi dốc, hỏa lực của địch rất ác liệt để tiếp cận hàng rào quanh chi khu và liên tiếp các lớp hàng rào của địch bị phá tung.

Đến lớp hàng rào cuối cùng, dù 2 lần đặt xong bộc phá, nhưng vì độ dốc quá lớn, móc bộc phá bị tụt, rơi xuống. Trước tình thế hết sức khẩn trương, chiến sĩ Đoàn Đức Thái đã ôm bộc phá xông lên, bám vào hàng rào, tìm cách khắc phục, đặt được bộc phá, giật nụ xòe và định lui về vị trí thì bộc phá trượt khỏi hàng rào lăn xuống sườn dốc về phía đồng đội. Là quả bộc phá cuối cùng và có nguy cơ gây thương vong lớn cho đồng đội, Đoàn Đức Thái đã ôm quả bộc phá đang xòe lửa, lao ngược lên đồi dốc, dùng thân mình giữ chặt quả bộc phá vào tầng hàng rào cuối cùng và hô vang "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Xung phong! Xung phong!". Bộc phá nổ, hàng rào cuối cùng bật tung. Đoàn Đức Thái anh dũng hy sinh vào rạng sáng 14-12-1974.

"Học tập tấm gương của chiến sĩ bộc phá Đoàn Đức Thái, ngày 4-1-1975, khi quân ta đang đột phá mở cửa căn cứ địch ở Long Thủy, thị xã Phước Long, địch dùng máy bay đánh vào cửa mở, kết hợp lực lượng địch trong thị xã phản kích, bộ đội và nhân dân thương vong nhiều; nhưng các chiến sĩ truyền cho nhau: Thà hy sinh, quyết không bỏ nhiệm vụ, không bỏ đồng đội, không bỏ nhân dân. Với ý chí quật cường, quân và dân ta đã giải phóng Phước Long ngày 6-1-1975", Đại tá Trần Quang Triệu nhớ lại./.

 

HỘI THẢO “Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ TẦM VÓC CHIẾN LƯỢC CỦA CHIẾN THẮNG CHIẾN DỊCH ĐƯỜNG 14 - PHƯỚC LONG”

 Ngày 5-1, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước phối hợp với Thị ủy Phước Long (Bình Phước) tổ chức Hội thảo khoa học “Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc chiến lược của chiến thắng Chiến dịch Đường 14 - Phước Long”.

Đồng chí Vũ Tiến Điền, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước và đồng chí Huỳnh Thị Thùy Trang, Bí thư Thị ủy Phước Long đồng chủ trì hội thảo. Dự hội thảo có nhiều nhà khoa học, các tướng lĩnh, Anh hùng LLVT nhân dân, nhân chứng lịch sử…

Hội thảo có 33 tham luận của các tướng lĩnh, nhà nghiên cứu khoa học, nhân chứng lịch sử, lãnh đạo của nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương trong và ngoài quân đội trên địa bàn Vùng Đông Nam Bộ gửi đến.

Ngày 6-1-1975, Chiến dịch Đường 14 - Phước Long kết thúc thắng lợi, ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long lúc bấy giờ (nay là thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước).

Tại hội thảo, nhiều tham luận khẳng định Chiến thắng Đường 14 - Phước Long là đòn trinh sát chiến lược của ta, cung cấp những luận cứ thực tiễn để Bộ Chính trị, Trung ương Đảng khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chiến thắng Đường 14 - Phước Long chẳng những giải phóng hoàn toàn một tỉnh ngay sát Sài Gòn, mà còn cắt đứt Đường 14, cô lập Sài Gòn ở một hướng chiến lược quan trọng và cô lập cả Tây Nguyên. Chiến dịch đã tiệu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch, tạo bàn đạp thuận lợi cho các binh đoàn của ta sẵn sàng áp sát, tiến công Sài Gòn. Mỹ cũng không thể vào lại miền Nam và chấp nhận thực tế chiến tranh Việt Nam đã kết thúc với người Mỹ.

Hội thảo “Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc chiến lược của chiến thắng Chiến dịch Đường 14 - Phước Long”

Đồng chí Vũ Tiến Điền, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước phát biểu tại hội thảo. Ảnh: QUỐC VIỆT

Từ Chiến thắng Đường 14 - Phước Long, ta cũng đánh giá và thấy rõ bước suy sụp mới của quân đội Sài Gòn, đã không còn đủ sức để phản kích giành lại những địa bàn chiến lược quan trọng vừa mất. Toàn tỉnh Phước Long - nơi sát Sài Gòn, một địa bàn chiến lược quan trọng bị mất mà không ứng cứu được. Điều đó đặt ra nếu các địa bàn chiến lược khác xa hơn nếu mất, địch càng khó tái chiếm.

Chiến thắng Đường 14 - Phước Long là thành quả của quân và dân cả nước, trực tiếp là miền Đông Nam Bộ, là chiến thắng của lực lượng vũ trang ba thứ quân, sức mạnh tổng hợp của cả quân và dân trong chiến dịch. Đó cũng là thành quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, sự chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy, Bộ Chỉ huy Miền.

Chiến thắng Đường 14 - Phước Long minh chứng cho sự phát triển vượt bậc về nghệ thuật quân sự, trình độ, khả năng tác chiến của Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo đảm đánh thắng toàn bộ đội quân lớn mạnh hiện đại còn lại của địch ở miền Nam Việt Nam. Chiến thắng là bài học về chọn địa bàn chiến lược chính xác. Phước Long là địa bàn chiến dịch vừa đáp ứng yêu cầu của chiến lược, thích hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của ta. Chiến dịch Đường 14 – Phước Long giải phóng hoàn toàn tỉnh Phước Long, đưa đến quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bằng sức mạnh của cả dân tộc.

Chiến thắng cho thấy, Trung ương Đảng hết sức coi trọng và phát huy vai trò của tập thể và các lãnh đạo trực tiếp tại chiến trường; lãnh đạo, chỉ huy trên chiến trường tuân thủ ý đồ chiến lược và sự chỉ đạo của Trung ương. Sự kết hợp này đã trở thành truyền thống và kinh nghiệm quý giá của Đảng.

Theo đồng chí Vũ Tiến Điền, Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước, Chiến thắng Đường 14 - Phước Long để lại nhiều bài học vẫn còn nguyên tính thời sự trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là bài học về xây dựng, sử dụng đòn trinh sát chiến lược không chỉ có giá trị trong lĩnh vực quân sự, trong sự nghiệp xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, mà còn hết sức ý nghĩa trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

 

LÒNG SON SẮT CỦA NGƯỜI CAO TUỔI ĐỐI VỚI ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 Hơn 94 năm qua, dù bất kỳ trong hoàn cảnh lịch sử nào, người cao tuổi nước ta cũng đều tỏ rõ hào khí “Diên Hồng” trong đánh thắng giặc ngoại xâm và triệt tiêu giặc nội xâm, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, hun đúc ý chí tự lực, tự cường, cùng con cháu nuôi dưỡng khát vọng dân tộc hùng cường.

Khẳng định sứ mệnh lịch sử của người cao tuổi

Năm 1941, sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc, cùng một số đồng chí lãnh đạo tiền bối của Đảng trực tiếp nhóm lên ngọn lửa cách mạng ở Cao Bằng. Qua những tư liệu lịch sử và những câu chuyện truyền miệng của người dân trong vùng cho thấy, người cao tuổi là đồng bào dân tộc thiểu số ở Cao Bằng đã sớm giác ngộ đi theo cách mạng, hết lòng ủng hộ vật chất và tinh thần, che chở an toàn tính mạng cho lãnh tụ và cán bộ. Vì thế, khi viết “Lời hiệu triệu đoàn kết tất cả các bậc phụ lão” (6/6/1941), Hồ Chí Minh đã có cảm xúc lịch sử và sự trải nghiệm thực tiễn cách mạng của đồng bào Cao Bằng, đặt niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh ý chí, nghị lực và lòng yêu nước của người cao tuổi Việt Nam dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. Nhờ có người cao tuổi làm rường cột, anh dũng tham gia hoạt động cách mạng, Mặt trận Việt Minh (do Đảng làm hạt nhân lãnh đạo) đã mau chóng trở thành lực lượng đoàn kết rộng khắp vùng Việt Bắc, rồi lan tỏa khắp mọi miền, cùng hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc. Chớp thời cơ “ngàn năm có một” đến, người cao tuổi mọi miền đất nước đã làm ngọn đuốc sáng trong đoàn quân vùng lên tổng khởi nghĩa, như nước vỡ bờ, nhấn chìm bọn đô hộ, giành lại độc lập.

Sau Tuyên ngôn độc lập, nước nhà rơi vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”, người cao tuổi tiếp tục là chỗ dựa vững chắc cho chế độ mới. Họ gương mẫu thực hiện chính sách của Chính phủ về diệt giặc dốt, đẩy lùi giặc đói, cản bước thù trong giặc ngoài; hưởng ứng “Tuần lễ Vàng” do Chính phủ Hồ Chí Minh phát động đã đón nhận được hàng trăm ki lô gam vàng, thể hiện tấm lòng yêu nước, quyết chí bảo vệ thành quả cách mạng do Đảng lãnh đạo. Trải qua 30 năm kháng chiến trường kỳ vệ quốc, các cụ bạch đầu quân từ Nam ra Bắc, từ núi rừng cheo leo tới đồng bằng, vùng biển, dù là người Kinh hay người dân tộc thiểu số, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo…, hết thảy đều nêu cao ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Họ là lực lượng đặc biệt, vừa xông trận vừa động viên con cháu ra tiền tuyến.

Nhiều điển hình “Tuổi cao chí càng cao” của người cao tuổi Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã được ghi công trong sử vàng dân tộc, trở thành nguồn cảm hứng thi ca còn mãi với thời gian, được người đời tạc thành tượng đài bất tử. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng sáng ngời cho người cao tuổi học tập, noi gương, sống trọn đời cho Đảng, Tổ quốc và nhân dân. 55 năm sau ngày Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng, Di chúc thiêng liêng của Người tiếp tục được người cao tuổi nước nhà tận tâm, tận lực hiện thực hóa. Trong các lễ biểu dương việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, có vô vàn tấm gương người cao tuổi mẫu mực. Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Quảng Nam, có tới 11 người ruột thịt ra đi vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trở thành hình tượng bất tử cho tinh thần kiên trung của Mẹ Việt Nam anh hùng.

Công cuộc đổi mới đất nước qua gần 40 năm đạt nhiều thành tựu có tính lịch sử, cũng có một phần công lao to lớn của người cao tuổi nước nhà. Hiện nay, cả nước có trên 7 triệu người cao tuổi trực tiếp tham gia lao động, sản xuất kinh doanh, nhiều người thành công trong khởi nghiệp, tích cực ch.uyển đ.ổi s.ố, chuyển đổi xanh. Chương trình xây dựng nông thôn mới ngày một khang trang, cũng nhờ một phần có những người cao tuổi biết hiến công, hiến đất, cần cù lao động làm ra của cải vật chất nuôi sống xã hội, chăm hoa tỉa cành làm thi vị cuộc sống, say đắm với dân ca dân vũ, trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống cho con cháu. Đó là bức tranh sinh động trong thực tiễn cách mạng Việt Nam suốt 94 năm qua, là tiền đề đưa dân tộc ta trở thành nước phát triển hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình”, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như lòng mong muốn của Bác Hồ cách đây 55 năm.

Tiếp tục là chỗ dựa vững chắc giữ cho nước nhà ổn định, hòa bình để phát triển bền vững

Tuy là một trong những quốc gia có thu nhập bình quân còn khiêm tốn so với nhiều nước khác, song, Việt Nam đã đạt tuổi thọ bình quân cao hơn nhiều nước (người Việt Nam có tuổi thọ bình quân là 74,5 vào năm 2023). Trong vòng 10-15 năm tới, xu thế già hóa dân số nhanh sẽ hình thành một lực lượng người cao tuổi với khoảng 1/5 dân số, chuyển trạng thái từ “dân số vàng” sang “dân số bạc”. Trong số đó, còn một bộ phận vẫn ở độ chín về sự trải nghiệm, sự tích lũy tri thức ở những lĩnh vực khác nhau, nhất là ý chí, nghị lực, họ thực sự là nguồn lực quí báu, quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững và hội nhập quốc tế.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng: “Hội Người cao tuổi cần làm tốt hơn nữa vai trò cầu nối giữa Đảng và nhân dân”. Thực hiện chỉ đạo nêu trên, trong gần 3 năm qua, Hội Người Cao tuổi Việt Nam đã tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, trong đó chú trọng tuyên truyền, khích lệ ý chí tự lực, tự cường của người cao tuổi cả nước; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Ngay sau khi được Quốc hội bầu giữ chức Chủ tịch nước, đồng chí Tô Lâm đã có cuộc gặp mặt đầu tiên với Đoàn đại biểu tiêu biểu Người Cao tuổi cả nước tại Phủ Chủ tịch vào ngày 6/6/2024. Tại cuộc gặp mặt, đồng chí Tô Lâm khẳng định: “Người cao tuổi Việt Nam vẫn thực sự là chỗ dựa vững chắc, giữ cho nước nhà ổn định, hòa bình để phát triển bền vững và tiến lên cùng thời đại”. Trong mọi quyết sách chiến lược của Đảng, người cao tuổi luôn là một lực lượng chính trị làm hậu thuẫn rất đáng tin cậy để triển khai thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong hơn 5 triệu đảng viên hiện nay, người cao tuổi là thành trì vững chắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bởi vì họ chính là những nhân chứng sống trong thực tiễn cách mạng nước nhà, được Đảng tôi rèn thành “thép đã tôi thế đấy”, trọn đời quyết không phai nhạt lý tưởng cách mạng.

Trong khoảng 200 Ủy viên Trung ương Đảng, có không ít người cao tuổi đang đảm đương trọng trách lớn của Đảng, Nhà nước, nhân dân. Họ là tầng lớp tinh hoa dân tộc, có những người trải qua kháng chiến vệ quốc, được Đảng, Nhà nước đào tạo cơ bản, nên đã tích lũy được vốn tri thức khoa học, công nghệ tiên tiến, được thử thách qua các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…, thực sự là nòng cốt tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước.

Ở cấp cơ sở, người cao tuổi từ những cương vị khi đương chức đã tích lũy nhiều kinh nghiệm công tác Đảng, nên về nghỉ hưu mà vẫn được tín nhiệm giao nhiệm vụ “ăn cơm nhà” lo việc cộng đồng, xã hội một cách chu toàn. Theo báo cáo của Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi (ngày 28/8/2024), hiện cả nước có gần 800.000 người cao tuổi làm bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố. Ở đâu có tranh chấp, xung đột cộng đồng, người cao tuổi chẳng nề hà tham gia vào hòa giải để giữ mái ấm gia đình, tình làng nghĩa xóm. Ở vùng biên giới, người cao tuổi lặng lẽ tự giác tham gia gìn giữ cột mốc, xây đắp tình hữu nghị, kiên quyết đấu tranh tố giác tội phạm buôn lậu qua biên giới. Ở đô thị, người cao tuổi tự tổ chức thành đội điều phối giao thông ở những điểm nút giờ cao điểm, đón đưa trẻ qua đường. Ở những làng nghề, người cao tuổi đóng vai trò nghệ nhân trao truyền những giá trị lao động đã được nâng lên thành sáng tạo nghệ thuật lao động, thể hiện tài hoa người Việt. Đối với vốn văn hóa truyền thống, người cao tuổi là người truyền cảm hứng nghệ thuật dân gian cho đời sau.

Đặc biệt là, trong công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội XIV của Đảng, người cao tuổi các cấp sẽ tham gia với trách nhiệm cao, tâm huyết với Đảng, góp ý xác đáng vào dự thảo văn kiện, vào công tác nhân sự của Đảng.

Trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, người cao tuổi tiếp tục phát huy vốn lý luận, cùng với vốn kinh nghiệm thực tế để tham gia phản bác luận điểm sai trái, thù địch, phản động, bảo đảm an ninh tư tưởng chính trị. Đối với cuộc chiến chống giặc nội xâm, đẩy lùi nạn tham nhũng, tiêu cực, người cao tuổi tiếp tục thể hiện tinh thần dũng cảm, tạo nên thế trận “trên dưới đồng lòng”, “bách hô bá ứng”.

Bối cảnh thế giới đầy biến động đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia đều phải có trách nhiệm bảo vệ quyền của người cao tuổi. Người cao tuổi Việt Nam mong muốn cấp ủy, chính quyền các cấp cần quan tâm đặt quyền và lợi ích chính đáng của người cao tuổi vào trung tâm mọi chủ trương, chính sách. Trước hết, trong Tổng kết 40 năm đổi mới, trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, cần thể hiện sâu sắc quan điểm cách mạng không ngừng về đổi mới tư duy chiến lược, quản trị quốc gia đối với những vấn đề liên quan tới người cao tuổi. Các cơ quan liên quan cần quan tâm tham mưu Ban Bí thư chỉ đạo tổng kết Chỉ thị 59 - CT/TW ngày 27/9/1995 của Ban Bí thư về “Chăm sóc người cao tuổi”, xem xét ban hành chỉ thị mới có tính định hướng chiến lược đối với người cao tuổi trong bối cảnh già hóa dân số rất nhanh ở Việt Nam và là xu thế toàn cầu, làm cơ sở chính trị để cấp có thẩm quyền chỉ đạo toàn diện, đồng bộ việc chăm sóc, bảo vệ, phát huy vai trò người cao tuổi trong thời kỳ mới. Trong hoàn thiện Chiến lược Quốc gia về Người cao tuổi giai đoạn 2025- 2030, tầm nhìn tới năm 2050, cần thể hiện tính bao trùm mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, tranh thủ ngoại lực để tạo nên nguồn lực đủ mạnh, tạo chuyển biến cả về lượng và chất đối với công tác chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giúp người cao tuổi thực sự sống hạnh phúc trong niềm hạnh phúc dân tộc.

Người cao tuổi là một phần máu thịt trong nhân dân, là lực lượng đặc biệt trong cộng đồng xã hội, là rường cột xây dựng nên xã hội xã hội chủ nghĩa. Do đó, họ cần được quan tâm, chăm lo; đồng thời họ cũng cần được tiếp tục cống hiến vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, góp phần bồi đắp cơ đồ dân tộc trường tồn, cường thịnh, sánh vai với các cường quốc năm châu./.

 

GIỮ MÌNH LIÊM CHÍNH

 Gần ngàn năm trước, triều Lý có Tô Hiến Thành nổi tiếng thanh liêm, cương trực. Khi vua Lý Anh Tông băng hà, hoàng tử trưởng là Lý Long Xưởng hư hỏng, vua có di chiếu lập hoàng tử Lý Long Cán lúc này mới 3 tuổi lên ngôi (tức vua Lý Cao Tông), đã giao cho ông làm phụ chính.

Chiêu Linh Thái hậu nghĩ nhà vua còn nhỏ, bèn mưu đoạt lại ngôi vị cho con trai mình nhưng các đại thần một lòng nghe theo Thái úy Tô Hiến Thành nên mưu sự không thành. Thái hậu cho người hối lộ bà vợ Tô Hiến Thành mâm vàng để mong ông sửa di chiếu nhưng ông kiên quyết từ chối.

Thời Trần có Trần Thủ Độ (1194 -1264) là người có công sáng lập triều Trần và vai trò quan trọng trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất. Khi biết chuyện vợ mình xin cho một người cháu làm chức câu đương, Thủ Độ bảo viên câu đương phải chặt một ngón chân để phân biệt với người khác.

Thời Nguyễn, quan tổng đốc Nguyễn Văn Hiếu có khí chất của bậc Nho gia, cho rằng người làm quan phải tận hiến triều đình, phụng sự nhân dân. Có viên thổ ti đem lễ vật đến xin yết kiến, ông khước từ và sai mang về. Người đầy tớ biết được liền lẻn cửa sau ra, dọa nạt viên thổ ti rồi lấy một nửa lễ vật. Việc bị phát giác, ông sai đem tên đầy tớ chém đầu ngay, rồi dâng sớ xin chịu tội với triều đình. Vua Minh Mạng phạt giáng ba bậc nhưng vẫn cho lưu nhiệm chức cũ.

Nhắc sử cũ để thấy, quan thanh liêm đời nào cũng được yêu mến, kính trọng.

Trong bản Di chúc thiêng liêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”.

Thấm nhuần lời dạy của Người, đã có ngàn vạn cán bộ đảng viên hết lòng hết sức giữ mình liêm chính, phục vụ nhân dân. Nhưng cũng có không ít người nhúng chàm, làm ảnh hưởng xấu đến thanh danh của Đảng. Công cuộc chống tham nhũng hiện nay đang dần khui ra những con sâu làm rầu nồi canh, để xây dựng Đảng luôn trong sạch, vững mạnh; để giữ niềm tin yêu của Nhân dân.

Đọc lại sử cũ để thấy giá trị trường tồn của liêm chính và nhắc nhớ mỗi cán bộ, đảng viên giữ mình.

 

NGÀY TỔNG TUYỂN CỬ ĐẦU TIÊN BẦU QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM 6/1/1946

 Ngày 6/1/1946, đánh dấu một sự kiện quan trọng trong lịch sử nước ta khi lần đầu tiên người dân Việt Nam thông qua lá phiếu của mình được quyền trực tiếp lựa chọn, bầu những người có tài, có đức vào Quốc hội để gách vác công việc nước nhà. Thành công của cuộc Tổng tuyển cử đã đánh dấu sự ra đời của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, ngày nay là Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 16/8/1945, tại đình Tân Trào (Tuyên Quang), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh (Việt Nam độc lập Đồng minh hội) khai mạc Đại hội đại biểu quốc dân (còn gọi là Quốc dân Đại hội Tân Trào). Tham dự có hơn 60 đại biểu đại diện cho cả 3 miền Bắc - Trung - Nam, đại diện cho các ngành, các giới, các dân tộc, các đảng phái chính trị, các đoàn thể cứu quốc và một số Việt kiều ở Thái Lan và Lào để bàn kế hoạch Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về nhân dân.

Đại hội thông qua ba quyết định lớn: Thứ nhất, nhất trí tán thành chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh; Thứ hai, thông qua 10 chính sách của Việt Minh và hiệu triệu đồng bào tích cực phấn đấu thực hiện, trong đó điểm mấu chốt đầu tiên là giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập; Thứ ba, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Đại hội đã quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ có ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa, Quốc ca là bài “Tiến quân ca”. Ngày 17/8/1945, Đại hội bế mạc trong không khí sôi nổi của Tổng khởi nghĩa. Thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”.

Quốc dân Đại hội Tân Trào là mốc son trong lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam, là tiền thân của Quốc hội Việt Nam, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Việt Nam quốc dân đại biểu Đại hội cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam để lãnh đạo toàn quốc nhân dân kiên quyết đấu tranh kỳ cho nước được độc lập. Đó là một tiến bộ rất lớn trong lịch sử tranh đấu giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay. Đó là một điều khiến cho đồng bào ta phấn khởi và riêng tôi hết sức vui mừng”.

Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19/8/1945), Huế (ngày 23/8/1945), Sài Gòn (ngày 25/8/1945). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để “được làm dân tự do của một nước độc lập”. Ngày 25/8/1945, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam “một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hòa chính thức”.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 03/9/1945, Chính phủ lâm thời tổ chức phiên họp đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ “tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu, nghèo, tôn giáo, dòng giống…”.

Ngày 08/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 14-SL quy định mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội và ghi rõ: Chiểu theo Nghị quyết của Quốc dân Đại hội ngày 16 – 17/8/1945 tại khu giải phóng, ấn định rằng nước Việt Nam sẽ theo chính thể dân chủ cộng hòa và Chính phủ nhân dân toàn quốc sẽ do một Quốc dân đại hội bầu theo lối phổ thông đầu phiếu cử lên; tiếp theo đó, ban hành Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Ủy ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 02/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51-SL nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử. Công tác chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra rất khẩn trương trong điều kiện thù trong, giặc ngoài; trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội hết sức khó khăn. Cuộc Tổng tuyển cử lúc đầu được dự kiến là ngày 23/12/1945, nhưng để thực hiện chủ trương thống nhất và hòa giải, có thêm thời gian cho công tác chuẩn bị và các ứng cử viên có điều kiện nộp đơn, đi vận động tranh cử. Ngày 18/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày chủ Nhật, 06/01/1946.

Việc tổ chức Tổng tuyển cử, các ban bầu cử được thành lập tới tận làng xã do Ủy ban nhân dân các cấp trực tiếp đảm nhiệm. Nhiều người có tài, có đức xung phong ra ứng cử hoặc được quần chúng giới thiệu ra ứng cử. Danh sách cử tri và ứng cử viên được hoàn thành và niêm yết công khai. Quần chúng sôi nổi trao đổi, tranh luận, chất vấn nhằm lựa chọn được những người xứng đáng nhất làm đại diện cho mình, hạn chế những phần tử cơ hội lợi dụng dịp Tổng tuyển cử để tranh giành quyền chức.

Ngày 05/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi quốc dân đi bỏ phiếu, trong đó có đoạn: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà Nhân dân ta bắt đầu hưởng dụng quyền dân chủ của mình”.

Ngày 06/01/1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên đã diễn ra trên cả nước, kể cả các vùng đang có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Ở Hà Nội đã có 91,95% cử tri của 74 khu nội thành và 118 làng ngoại thành đi bỏ phiếu trong không khí tràn đầy phấn khởi của ngày hội dân chủ. Kết quả, có 6 trong số 74 ứng cử viên đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất (98,4%).

Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành sôi nổi trên khắp cả nước. Riêng các tỉnh phía Bắc, mặc dù phải đối phó với âm mưu phá hoại hết sức tinh vi và trắng trợn của kẻ thù, nhưng cuộc Tổng tuyển cử diễn ra an toàn. Các tỉnh phía Nam, nhất là ở Nam Bộ, cuộc bầu cử diễn ra dưới bom đạn rất ác liệt của giặc Pháp.

Tổng số cử tri đi bỏ phiếu đạt tỷ lệ 89%, trừ một số nơi phải bầu bổ sung còn tuyệt đại đa số các địa phương chỉ bầu một lần. Cuộc Tổng tuyển cử đã bầu được 333 đại biểu, trong đó có 57% số đại biểu thuộc các đảng phái khác nhau; 43% số đại biểu không đảng phái; 87% số đại biểu là công nhân, nông dân, chiến sỹ cách mạng; 10 đại biểu nữ và 34 đại biểu dân tộc thiểu số. Trong thành phần của Quốc hội có đại biểu đại diện cho cả ba miền Bắc - Trung - Nam, các giới từ những nhà cách mạng lão thành, thương gia, nhân sĩ trí thức và các nhà hoạt động văn hóa, đến đại biểu các thành phần tôn giáo, những người không đảng phái và các đảng phái chính trị.

Cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của Việt Nam năm 1946 được tiến hành theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ nhất, đó là: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã hoàn toàn thắng lợi. Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Thắng lợi đó là một mốc son đánh dấu bước phát triển nhảy vọt đầu tiên về thể chế dân chủ của nước Việt Nam.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước trưởng thành của Nhà nước cách mạng Việt Nam, mở ra một thời kỳ mới của đất nước ta có một Quốc hội, một Chính phủ thống nhất, một bản Hiến pháp tiến bộ và một hệ thống chính quyền hoàn toàn đầy đủ danh nghĩa về mặt pháp lý để đại diện cho Nhân dân Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Cuộc bầu cử là căn cứ để khẳng định Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có tính chất hợp pháp, dân chủ - Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được quốc dân giao phó trọng trách điều hành đất nước, tổ chức toàn dân kháng chiến, kiến quốc, giải quyết mọi quan hệ của Việt Nam trên trường quốc tế.

Từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946 đến nay, Quốc hội Việt Nam đã trải qua gần 79 năm hình thành và phát triển với 14 nhiệm kỳ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, ngày càng thực hiện tốt hơn chức năng là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện các quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước, bảo đảm việc thực hiện quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân, góp phần củng cố, xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

 

KỶ NGUYÊN MỚI THỜI CỦA KỶ CƯƠNG VÀ KỶ LUẬT

 Ngày đầu tiên áp dụng mức phạt mới đối với việc vượt đèn đỏ - 20 triệu đồng với ô tô và 6 triệu đồng với xe máy - đã cho thấy hiệu quả rõ rệt. Hầu như tất cả phương tiện đều nghiêm chỉnh dừng trước vạch, không còn cảnh vượt đèn đỏ như trước đây. Nhích 1 ly là đi ngay "5 củ". Thực tế này một lần nữa khẳng định: khi hình phạt đủ sức răn đe, ý thức tuân thủ sẽ được hình thành.

Nhìn lại quá khứ, chúng ta đã chứng kiến nhiều bài học tương tự. Việc đội mũ bảo hiểm hay đeo khẩu trang mùa dịch ban đầu cũng gặp khó khăn, nhưng khi áp dụng chế tài đủ mạnh, người dân đã nhanh chóng thích nghi và biến chúng thành thói quen. Bài học này hoàn toàn có thể áp dụng cho các vấn nạn xã hội khác, điển hình như tình trạng karaoke tự phát gây ô nhiễm tiếng ồn.

Cứ như những ngày Tết Tây vừa qua, nhiều khu dân cư phải chịu cảnh "gánh mẹ" cả đêm từ những chiếc loa kẹo kéo. Nếu áp dụng mức phạt đủ nặng, chẳng hạn 20 triệu đồng như với vi phạm giao thông, chắc chắn tình trạng này sẽ được cải thiện. Bởi lẽ, khi túi tiền bị ảnh hưởng, ý thức tự giác sẽ được nâng cao.

Từ những bài học nhỏ này, chúng ta có thể hướng đến việc giải quyết những vấn đề lớn hơn, mang tính quyết định đến sự phát triển của đất nước - đặc biệt là cuộc chiến chống tham nhũng. Luật đã quy định rõ: tham nhũng, ăn hối lộ từ 1 tỷ đồng trở lên sẽ bị xử lý ở mức cao nhất - tù chung thân hoặc tử hình. Việc cần làm là thực thi nghiêm minh, không khoan nhượng. Đồng thời, cần tịch thu triệt để tài sản không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của cán bộ các cấp. Chính sách thưởng 5% giá trị cho người tố giác sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc chống tham nhũng.

Bài học từ việc xử phạt vi phạm đèn đỏ đã vẽ ra một lộ trình rõ ràng: muốn thay đổi hành vi xã hội, cần có những chế tài đủ mạnh và quyết tâm thực thi. Đã đến lúc không cần những lời kêu gọi suông nữa, mà cần những hành động quyết liệt, để đất nước sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới của kỷ cương và minh bạch.

 

BẢO VỆ VỮNG CHẮC CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO, THỀM LỤC ĐỊA THIÊNG LIÊNG CỦA TỔ QUỐC

 Trong những ngày đầu năm 2025, cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân vui mừng, phấn khởi khi đơn vị vinh dự được tặng thưởng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và nhân dân dành cho đơn vị, ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Ngay sau khi đất nước thống nhất, non sông liền một dải, trước yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới, ngày 26/10/1975, Vùng 4 Duyên hải được thành lập - nay là Vùng 4 Hải quân.

Vùng được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ vùng biển rộng trên 360.000 km², từ Cù Lao Xanh, tỉnh Bình Định đến Mũi Ba Kiệm, tỉnh Bình Thuận, bao gồm quần đảo Trường Sa, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng cả về chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh của đất nước.

Trải qua gần 50 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, ngay từ những ngày đầu thành lập, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân đã vượt lên mọi khó khăn, gian khổ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, các đảo, điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa; tham gia và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả tại Campuchia, là lực lượng nòng cốt trong chiến dịch CQ-88 lịch sử.

Trong những năm gần đây, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân luôn quán triệt sâu sắc các nghị quyết, phương châm, đối sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị, mệnh lệnh của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Hải quân.

Toàn Vùng đã duy trì nghiêm chế độ trực, bảo đảm lực lượng, phương tiện luôn ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất. Tổ chức quan sát, trinh sát, phát hiện hơn 5 triệu lượt mục tiêu trên không, trên biển, tham mưu và trực tiếp xử lý tốt các tình huống trên biển không để bị động, bất ngờ, giữ vững được chủ quyền, môi trường hòa bình trên biển.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trên biển, hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ được điều động đến các khu vực trọng điểm, khó khăn, gian khổ, nhưng cán bộ, chiến sĩ luôn thể hiện bản lĩnh kiên cường và ý chí quyết tâm sắt đá, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Để xây dựng Vùng 4 Hải quân tiến thẳng lên hiện đại, những năm qua, các cơ quan, đơn vị trong toàn Vùng đã không ngừng đổi mới toàn diện, hoàn thành đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng.

Toàn Vùng đã bám sát phương châm huấn luyện “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, chú trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu; sát phương án, đối tượng tác chiến, chiến trường, tổ chức, biên chế và vũ khí trang bị; lấy nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và xây dựng đơn vị cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm mục tiêu huấn luyện.

Với tinh thần cầu thị, ham học hỏi, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã nhanh chóng làm chủ và khai thác hiệu quả nhiều vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ; hoàn thành xuất sắc các nội dung, khoa mục huấn luyện mới, độ khó cao.

Đơn vị cũng tăng cường huấn luyện đêm, huấn luyện trong điều kiện thời tiết phức tạp; huấn luyện và diễn tập đối kháng; tổ chức bắn thành công các loại tên lửa được trang bị trên tàu chiến đấu, tên lửa bờ… và các loại vũ khí mới được trang bị.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc ảnh 3

Phiên trực trên điểm đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

Thông qua các cuộc diễn tập lớn do Bộ Quốc phòng và Quân chủng Hải quân tổ chức, các lực lượng của Vùng 4 Hải quân đã khẳng định rõ bản lĩnh, trí tuệ, trình độ hiệp đồng tác chiến, hoàn toàn làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, của Tổ quốc trong tình hình mới.

Thực hiện phương châm “Cứu giúp nhân dân là nhiệm vụ chiến đấu trong thời bình, là mệnh lệnh từ trái tim người lính”; mỗi cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân luôn quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo: “Khi dân cần, khi dân khó có bộ đội Hải quân”, luôn coi nhiệm vụ bảo vệ tính mạng, tài sản của Nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là trách nhiệm thiêng liêng và cao cả của người lính.

Dẫu cho bão tố, sóng dữ hay điều kiện khắc nghiệt, hiểm nguy nơi biển khơi, mỗi khi có ngư dân gặp nạn, lực lượng và phương tiện của Vùng 4 nhanh chóng xuất phát, cơ động và có mặt kịp thời để cứu giúp ngư dân.

Đồng thời, toàn Vùng tiếp tục triển khai hiệu quả nhiều chương trình, cách làm sáng tạo góp phần xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận chiến tranh nhân dân trên biển.

Cụ thể như Chương trình “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Hải quân nhận đỡ đầu con ngư dân”...

Chỉ tính trong 10 năm gần đây, Vùng 4 Hải quân đã thực hiện hơn 650 lượt tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; cấp cứu, điều trị trên 6.000 lượt ngư dân; cứu kéo hơn 200 lượt tàu cá bị nạn về nơi an toàn; huy động hàng chục nghìn lượt cán bộ, chiến sĩ và hàng trăm lượt phương tiện các loại để hỗ trợ nhân dân địa phương phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai. Mỗi đảo, điểm đảo, mỗi con tàu của Vùng 4 Hải quân thực sự là điểm tựa và niềm tin vững chắc cho ngư dân vươn khơi bám biển.

Cùng với nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn, cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 còn tích cực tham gia hoạt động dân vận, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với địa phương; kịp thời hỗ trợ các chương trình phát triển kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; tổ chức khám chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí, thăm hỏi và tặng quà cho các gia đình chính sách, những hoàn cảnh khó khăn với tổng giá trị hỗ trợ lên đến hàng chục tỷ đồng.

Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân vượt sóng to, gió lớn để cứu dân, tận tụy đồng hành cùng sự phát triển của địa phương nơi đóng quân đã để lại nhiều tình cảm và ấn tượng tốt đẹp. Những nỗ lực ấy tiếp tục làm sâu sắc thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân” thời kỳ mới trong lòng nhân dân.

Ghi nhận thành tích của đơn vị, mới đây, Chủ tịch nước Lương Cường đã ký quyết định phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân” cho Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân.

Theo đồng chí Chuẩn Đô đốc Nguyễn Anh Tuấn, Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, phần thưởng cao quý này là nguồn cổ vũ, động viên to lớn để cán bộ, chiến sĩ toàn Vùng tiếp tục nỗ lực, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao.

Trao đổi với chúng tôi, đồng chí Thượng tá Bùi Xuân Bình, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Vùng 4 Hải quân chia sẻ: Tự hào về chặng đường đã qua, mỗi cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân hôm nay nguyện tiếp bước cha anh; trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, đoàn kết một lòng, nỗ lực khắc phục khó khăn, quyết tâm xây dựng Vùng thực sự “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ hiện đại”, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc; xứng đáng với danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” mà Đảng, Nhà nước và nhân dân trao tặng./.