Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

TIẾP TỤC NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI GÓP PHẦN XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH


          Nhận diện chủ nghĩa cơ hội và kiên quyết đấu tranh phòng chống chủ nghĩa cơ hội hiện nay là yêu cầu tất yếu, đòi hỏi phải gắn chặt với phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa, góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, hoàn thành trọng trách Đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cơ hội ra đời cùng với quá trình hình thành, phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Thời kỳ từ năm 1864 khi quốc tế I được thành lập đến 1914. Chủ nghĩa cơ hội bắt đầu từ một vài xu hướng, bè phái cơ hội như Frudong, Baculin đã phát triển thành một lực lượng chính trị đáng kể trong các Đảng chủ chốt của quốc tế II, dẫn tới sự phân liệt sâu sắc phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, cuối cùng làm cho Quốc tế II phá sản.
Quá trình lãnh đạo cách mạng, các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế vừa phải tập trung đấu tranh chống giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản để thực hiện mục tiêu cuối cùng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; vừa phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, nhận diện và tiến hành đấu tranh rất quyết liệt, phức tạp với một loại kẻ thù bên trong giấu mặt, trá hình giả danh chủ nghĩa Mác, chống lại chủ nghĩa Mác, phản bội lại phong trào cách mạng đó là chủ nghĩa cơ hội.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: Chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo một định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, ngả nghiêng nhằm mưu lợi trước mắt. Trong phong trào cách mạng vô sản, chủ nghĩa cơ hội là chính trị thỏa hiệp, cải lương, hợp tác vô nguyên tắc, trái với lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trên thực tế chủ nghĩa cơ hội có hai khuynh hướng chủ yếu: Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh có tính chất cải lương thiên về thỏa hiệp muốn "cải biến" một cách hòa bình, chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội từ bỏ đấu tranh giành thắng lợi thực sự về tay giai cấp công nhân. Chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh tiêu biểu là Becstanh và Causky tồn tại trong các Đảng công nhân thời quốc tế II cho đến tận ngày nay. Từ nửa sau thế kỷ XX chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh xuất hiện như một thứ chủ nghĩa xét lại hữu khuynh. Chủ nghĩa cơ hội "tả" khuynh là sự pha trộn giữa cực đoan và phiêu lưu, giáo điều, manh động, chủ quan, sùng bái bạo lực, không đếm xỉa tới tình thế khách quan. Chủ nghĩa cơ hội “hữu” hay “tả” khuynh đều đẩy phong trào công nhân đi đến hy sinh vô ích và thất bại [1].
Bản chất chủ nghĩa cơ hội là trào lưu tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mác- Lênin, là tàn dư tư tưởng tư sản, tiểu tư sản trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Là sự hy sinh lợi ích cơ bản lâu dài của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích trước mắt của một nhóm, một bộ phận, là sự đầu hàng trước những trào lưu tư tưởng tư sản và phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hình thức biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, về lý luận đó là sự chiết trung, ngụy biện sẵn sàng thay đổi quan điểm tư tưởng cơ bản để trục lợi, về kinh tế thể hiện tư tưởng thực dụng sẵn sàng đánh đổi cả phong trào vì lợi ích trước mắt của một nhóm người, về hành động là phiêu lưu, lúc tả, lúc hữu, lúc nóng vội, lúc chủ quan sẵn sàng từ bỏ mục tiêu của phong trào sự nghiệp. Về thủ đoạn thì lươn lẹo lắt léo, luồn lách, sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với mọi trào lưu khi có lợi.
Chủ nghĩa cơ hội là kẻ thù bên trong, tồn tại với rất nhiều đặc điểm và rất nguy hiểm phá hoại Đảng, phá hoại phong trào từ bên trong. Muốn phòng chống chủ nghĩa cơ hội có hiệu quả để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng, chúng ta cần nhận rõ nguồn gốc nảy sinh và sự phát triển, nhận diện chủ nghĩa cơ hội hiện nay ở nước ta và tiến hành đồng bộ các giải pháp để đấu tranh phòng chống chủ nghĩa cơ hội trong tình hình hiện nay.
Chủ nghĩa cơ hội là một hiện tượng xã hội lịch sử, nảy sinh trong cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và vô sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cho nên chừng nào còn tồn tại cuộc đấu tranh này thì vẫn còn cơ sở cho chủ nghĩa cơ hội.
Chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc từ mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa hệ tư tưởng vô sản và hệ tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản gắn chặt với các điều kiện khách quan và chủ quan đó là:
*Về các điều kiện khách quan.
- Do sự bổ sung vào lực lượng cách mạng, gia nhập Đảng xuất thân từ những tầng lớp không vô sản, như nông dân, tiểu tư sản, tri thức,… Trong quá trình đấu tranh cách mạng phần lớn những thành phần này giác ngộ mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của phong trào cách mạng đã dũng cảm từ bỏ lập trường giai cấp của mình, đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân thực hiện mục tiêu lý tưởng cộng sản chủ nghĩa: giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tuy nhiên, một số người không vượt qua được tàn dư tư tưởng giai cấp của mình cho nên khi cách mạng phát triển thuận lợi thì những tàn dư tư tưởng đó tạm thời bị đẩy lùi hoặc giấu kín, nhưng khi cách mạng gặp khó khăn thách thức thì những tàn dư tư tưởng này lại trỗi dậy làm nảy sinh khuynh hướng cơ hội, xét lại, cải lương, giáo điều, gây nhiều nguy hại cho Đảng và phong trào cách mạng.
- Trong cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, các nhà tư tưởng tư sản tìm mọi cách đưa các loại tư tưởng của họ xâm nhập vào trong Đảng cộng sản và phong trào cách mạng. Từ những năm 50 thế kỷ XX, Mỹ đã hình thành chiến lược "Diễn biến hòa bình" nhằm mục tiêu chiến thắng chủ nghĩa xã hội không bằng chiến tranh!
- Các thế lực thù địch thực hiện chính sách hai mặt đối với phong trào cách mạng, một mặt chúng dùng bạo lực đàn áp, trấn áp phong trào làm cho một bộ phận lực lượng cách mạng hoảng sợ, lung lay ý chí, hoài nghi, dao động về con đường mục tiêu, lý tưởng cách mạng, từ bỏ lập trường cách mạng, thỏa hiệp chạy theo giai cấp tư sản. Mặt khác chúng dùng lợi ích kinh tế để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo hình thành tầng lớp "công nhân quý tộc", "công nhân tư sản hóa", thành những Đảng viên thoái hóa biến chất, làm tay sai cho giai cấp tư sản ẩn náu bên trong để chống phá Đảng, chống phá phong trào cách mạng.
* Về các điều kiện chủ quan:
- Trong quá trình lãnh đạo, các Đảng cộng sản và công nhân ở một số nước đã phạm sai lầm về đường lối và phương pháp tiến hành cách mạng, điều rất đáng lưu ý là các sai lầm này không được phát hiện hoặc phát hiện nhưng không được kiên quyết sửa chữa khắc phục dẫn đến tình trạng bất ổn nghiêm trọng, kinh tế trì trệ, khủng hoảng, xã hội rối loạn, nội bộ Đảng mất đoàn kết - Đây là điều kiện là cơ hội cho các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội nổi lên chống phá Đảng, chống phá cách mạng.
- Các Đảng cộng sản, công nhân ở một số nước đã coi nhẹ, buông lỏng công tác xây dựng Đảng, đáng chú ý là một số Đảng cộng sản đã xem nhẹ hoặc từ bỏ những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lê nin, coi nhẹ hoặc từ bỏ những nguyên tắc xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin tạo điều kiện cho các phần từ cơ hội chui sâu, leo cao vào trong hàng ngũ của Đảng phá hoại Đảng từ bên trong. Đây là nguyên nhân vừa sâu xa vừa trực tiếp dẫn tới Đảng cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên xô, Đông âu sụp đổ.
Nhận rõ bản chất, những biểu hiện chủ yếu, nguồn gốc và nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội đối với sự tồn vong của Đảng và sự thành bại của phong trào cách mạng, cho nên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc “tả” khuynh, hữu khuynh, giáo điều, xét lại không chỉ là yêu cầu tất yếu của phong trào cách mạng mà còn là quy luật, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ và xây dựng Đảng cộng sản trong sạch vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức.
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã ghi nhận, chủ nghĩa cơ hội thời nào cũng có, nhưng thường xuất hiện công khai và phát triển vào những thời điểm cách mạng gặp những khó khăn thách thức hoặc các bước ngoặt của cách mạng.
Thời kỳ từ năm 1864 đến 1914, Mác, Ănghen và những người Mácxít chân chính đã phải liên tục đấu tranh với các loại chủ nghĩa cơ hội như Fruđông, Baculin Aizonếc, Látxan, Môs tơ, Bécxtanh, Cauxky. Từ thập kỷ đầu tiên của Thế kỷ XX, Lênin và những người Bôxêvich Nga đã đấu tranh quyết liệt chống phái "Dân túy" phái “Mác xít hợp pháp” phái "Kinh tế" ở Nga, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của Bécxtranh và Cauxky và đặc biệt đấu tranh chống bệnh “ấu trĩ” tả khuynh chống chủ nghĩa xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Từ năm 1946 đến 1980, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã đấu tranh quyết liệt với chủ nghĩa cơ hội của Troxky và chủ nghĩa xét lại Khorutxốp, đấu tranh chống bệnh giáo điều, rập khuôn máy móc và tệ sùng bái cá nhân…
Trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam do những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, phong trào cách mạng cũng có một số thời điểm chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tuy nhiên chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách một lực lượng, một phong trào có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của cách mạng. Nhưng trong những thời điểm cách mạng gặp khó khăn thách thức gay gắt và nhất là trước các bước ngoặt của phong trào cách mạng đã xuất hiện những tư tưởng, những biểu hiện cơ hội dưới hai hình thức tả khuynh, hữu khuynh với mức độ khác nhau. Thời kỳ 1930 - 1940, khi Đảng ta mới ra đời lãnh đạo phong trào cách mạng, tại Đại hội Đảng lần thứ I, (3-1935) đã có một nhận định: “Hiện thời trong Đảng ta còn có những xu hướng đầu cơ (cơ hội) "tả" khuynh và hữu phái cả về lý thuyết và thực hành"[2].
Đáng chú ý là sự xuất hiện quan điểm tư tưởng ấu trĩ "tả" khuynh phê phán một vài luận điểm cuốn sách "Đường cách mệnh": "Là cuốn sách huấn luyện đầy rẫy những lý thuyết đầu cơ (cơ hội) cải lương, duy tâm, quốc gia chủ nghĩa"[3].
Trong chỉ đạo khẩu hiệu hành động, có Đảng bộ đã đưa ra khẩu hiệu: Trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ! và một vài Đảng bộ như Thông cáo cho đồng chí của Trung ương trong quý 3 năm 1930 đã chỉ rõ: "Tuy là mấy xã ấy (mấy xã ở huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Nghệ An) có đủ giác ngộ, đủ hăng hái tranh đấu. Song chưa có dự bị vũ trang. Hiện nay theo hoàn cảnh trong nước. Trình độ dự bị của vô sản và quần chúng lao khổ thành phố, nhà quê trình độ dự bị của Đảng, tình hình của địch thủ, thì thực hành lẻ tẻ bạo động riêng trong một vài địa phương là manh động chủ nghĩa, chứ không phải là chủ trương đúng.[4]  "Đó là điều mà các cấp Đảng bộ phải nhận cho rõ để tránh khỏi cái… manh động"[5].
Thời kỳ từ năm 1954 đến 1975, có một số thời điểm trong thời kỳ này như trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức “Chúng ta đã phạm nhiều sai lầm. Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt. Những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc và điều lệ của một Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trái với pháp luật của Nhà nước dân chủ nhân dân… gây ra những tổn thất rất lớn”. Những nguyên nhân trực tiếp đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức được nghị quyết, hội nghị trung ương lần thứ 10 mở rộng, khóa II về công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức chỉ rõ: "Trong khi chỉ đạo thực hiện, việc lãnh đạo tư tưởng đã có nhiều lệch lạc lúc đầu phong trào mới thực hiện, phương châm chống hữu, phòng "tả" là đúng. Nhưng về sau trong phong trào đã có những sai lầm "tả" khuynh. Sự chỉ đạo không những đã không phát hiện được những sai lầm, mà lại cứ một chiều nhấn mạnh chống hữu khuynh, gây ra một cao trào chống hữu trong Đảng, không chú ý đến việc phòng “tả” do đó mà những sai lầm "tả" khuynh càng trở nên trầm trọng"[6].
Thời kỳ từ 1976 đến 1986, trong chỉ đạo thực hiện đường lối kinh tế của Đại hội IV và Đại hội V, Báo cáo chính trị từ Đại hội VI, Đảng ta đã chỉ rõ: "Trong 10 năm qua đã phạm nhiều sai lầm trong việc xác định bước đi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời" "cho tới nay cơ chế tập trung quan liêu bao cấp về căn bản chưa bị xóa bỏ". "Công cuộc cải tạo XHCN đã có nhiều biểu hiện nóng vội, muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh." "Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện" "Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan duy ý chí lối suy nghĩ và hành động nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa hữu khuynh". "Chúng ta vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ, trì trệ"[7].
Sau 30 năm đổi mới ngày 30 tháng 10 năm 2016, Hội nghị lần thứ IV Ban Chấp hành trung ương (khóa XII) chỉ ra 27 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức lối sống và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Thực chất là những biểu hiện cụ thể với các mức độ khác nhau của những cán bộ, đảng viên chịu sự tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới sau sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, từ mặt trái của kinh tế thị trường, từ các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình" lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, "dân chủ”, “nhân quyền" và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, đồng thời cấu kết với các phần từ cơ hội, bất mãn chính trị trong nội bộ hoạt động ráo riết chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Còn Nguyên nhân sâu xa, trực tiếp của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trước hết là do bản thân những cán bộ Đảng viên này thiếu tu dưỡng rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ vụ lợi, lợi ích nhóm. Số thoái hóa về tư tưởng chính trị. Từng bước chuyển thành các phần tử cơ hội chính trị cùng với những phần tử thoái hóa biến chất về đạo đức lối sống nếu không đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tất yếu sẽ dẫn đến sự tồn vong của Đảng và sự mất còn của chế độ XHCN.
Nhận thức sâu sắc nguyên nhân và nguy cơ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự tăng cường có hiệu quả công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực chất cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị đạo đức lối sống, "tự diễn biến" "tự chuyển hóa" là cuộc đấu tranh “sống mái”, lâu dài chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, cải lương, xét lại và chống chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực, thù địch.
Trong cuộc đấu tranh phòng chống kẻ thù tư tưởng bên trong, chúng ta phải nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện quyết liệt 4 nhóm giải pháp của Nghị quyết TW4 Khóa XII, cụ thể là 10 nội dung của giải pháp về công tác chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình. 6 nội dung của giải pháp về cơ chế chính sách, 8 nội dung về giải pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng; 5 nội dung về giải pháp phát huy vai trò của nhân dân và mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội.
Hơn lúc nào hết cần tăng cường và đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống chủ nghĩa cá nhân, phòng chống tư tưởng cơ hội chính trị và các phần tử cơ hội trong nội bộ mà chúng chưa bị vạch mặt, để loại ra khỏi Đảng các phần tử suy thoái biến chất và các phần tử cơ hội "chạy tuổi", "chạy bằng cấp", "chạy khen thưởng", "chạy chức", "chạy quyền"... Tư duy nhiệm kỳ "lợi ích nhóm" vẫn đang tồn tại trong Đảng ta để Đảng ta chuẩn bị và tiến hành thắng lợi Đại hội XIII: Hình thành được đường lối đúng đắn và Bầu được Ban chấp hành Trung ương tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức và gắn bó với nhân dân, đủ sức lãnh đạo nhân dân ta tiến lên giành những thắng lợi mới trong sự nghiệp tiến hành đồng bộ công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế bảo vệ vững chắc tổ quốc./.


[1]. Từ điển Bách khoa Việt Nam-Hà Nội 1995 – Tập 1 trang 498

[2]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, 2008, tập 5, tr.21
[3] . Sách đã dẫn-Tập 5-Trang 20.
[4]. Văn kiện Đại hội Đảng toàn tập - Tập 2 - Trang 5.
[5] . Sách đã dẫn - tập 2 - Trang 56.
[6] .Trích Nghị quyết Trung ương 10 (mở rộng) khóa II về công tác cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức

[7]. Báo cáo chính trị tại Đại hội VI.


LỜI BÁC DẠY NĂM XƯA!


“Trung với nước, hiếu với dân là một bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sĩ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”.

Ngày 26 tháng 5 năm 1946, đến dự lễ khai giảng khoá 8, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sỹ quan Lục quân 1/ Bộ Quốc phòng), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao tặng nhà trường lá cờ thêu sáu chữ vàng: “Trung với nước, hiếu với dân”, đồng thời căn dặn cán bộ, học viên: “Trung với nước, hiếu với dân là bổn phận thiêng liêng, một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng là một vinh dự của người chiến sỹ trong đạo quân quốc gia đầu tiên của nước ta”. Người muốn truyền tinh thần cao cả đó cho nhà trường và trao trách nhiệm nặng nề, chỉ rõ vinh dự cao quý cho cán bộ, giáo viên và học viên là phải suốt đời vì dân mà học tập, chiến đấu và công tác.
Thực hiện lời Bác dạy, cán bộ, giáo viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ nhà trường đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học… cung cấp kịp thời cho các chiến trường khi đất nước còn chiến tranh và các đơn vị trong toàn quân hàng trăm nghìn cán bộ có chất lượng, góp phần vào những thắng lợi vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay, xứng đáng với danh hiệu cao quý đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. “Trung với nước, hiếu với dân” trở thành niềm tự hào, nguồn gốc sức mạnh, động lực tinh thần tạo nên mọi chiến thắng, xây dựng nên bản chất, truyền thống “quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày càng nặng nề và phức tạp hơn. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội, cán bộ, giáo viên, học viên trong nhà trường quân đội phải luôn giữ vững và phát huy bản chất truyền thống “trung với nước, hiếu với dân”; luôn xứng đáng là đội quân cách mạng, lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng vũ trang sắc bén có sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực sự là đội quân cách mạng của dân, do dân, vì dân, xứng đáng với phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” và niềm tin về đội quân mãi “trung với nước, hiếu với dân” mà Bác Hồ gửi trọn niềm tin tưởng./.


CẦN CÓ CÁI NHÌN KHÁCH QUAN VỚI THỰC TẾ ĐỜI SỐNG



Quan điểm khách quan theo nghĩa đúng đắn, thực chất của khái niệm này chính là thái độ, quan điểm tôn trọng sự thật khách quan, luôn xuất phát từ hiện thực khách quan, tức là thực tiễn để nhận thức tiến trình cuộc sống. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Khoác áo “chủ nghĩa khách quan” trong nhận diện đời sống, nhất là trong đời sống chính trị chính trị rất nguy hại, bởi hệ quả mà nó gây ra tác động tiêu cực trực tiếp tới nhận thức, niềm tin và hành động của các tầng lớp dân cư. Và yêu cầu nghiêm túc đặt ra với mọi người là phải tôn trọng sự thật khách quan, bảo vệ chân lý khách quan và tỏ rõ lập trường, quan điểm nhất quán trong nhận thức, trung thực về đạo đức, trung thành với chân lý. Tôn trọng “cái khách quan”, hiện thực khách quan đòi hỏi phải nhận thức hiện thực khách quan đúng với bản chất của nó. Nếu không có quan điểm khách quan trong nhận thức, sẽ không nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong tính hệ thống, trong quá trình vận động và phát triển của nó.
Hiện nay, trong đời sống xã hội, đánh giá về công cuộc đổi mới ở nước ta, một số người do con mắt thiển cận, do thù oán, bất mãn…khi nhìn nhận các vấn đề luôn phiến diện, không khách quan, toàn diện. Chỉ thấy sự việc, hiện tượng đơn lẻ, cá biệt…rồi quy chụp, thổi phồng, bóp méo… xuyên tạc sự thật lịch sử, những quan điểm lệch lạc, gieo rắc sự hoài nghi, tâm lý hoài nghi trong quần chúng đối với lý tưởng, mục tiêu và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. 
 Chúng ta cần, nhận diện, phê phán để vạch rõ những sai trái, đấu tranh chống lại sự truyền bá những thông tin giả dối (thông tin xấu, độc) với động cơ, mục đích xấu, nhân danh sự thật để xuyên tạc sự thật, kích động và lừa mị dân chúng, nhân danh khách quan để che đậy thái độ và hành vi chủ quan, bề ngoài tỏ ra tôn trọng sự thật khách quan, nhưng thực chất bên trong là phủ nhận sự thật khách quan với bản chất đích thực của nó, với xu hướng phát triển tất yếu của nó.

ĐỪNG ẢO TƯỞNG – BÀN TAY SAO CHE ĐƯỢC MẶT TRỜI



Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là dịp những kẻ cơ hội mượn cớ, dựa hơi, “nhờ bão bẻ măng” chống phá Đảng, Nhà nước. Trên nhiều trang mạng xã hội như Dân làm báo; Quan làm báo; Dân luận;  Tintuchangngayonline… những ngày gàn đây thường xuyên xuất hiện có các tin, bài viết với những lập luận hết sức hồ đồ, nhảm nhí, thông tin xuyên tạc, bịa đặt, phủ nhận hoàn toàn công lao của Đảng, của nhân dân ta trong công cuộc đổi mới đất nước gần 35 năm qua.
Những kẻ cơ hội, thâm thù với cách mạng vì không được thỏa mãn cái tôi ích kỷ vẫn với giọng lưỡi quen thuộc, những chứng cứ xuyên tạc, bịa đặt, thiếu cơ sở, cố tình gán ghép, lập luận để chứng minh cho cái gọi là “Kinh doanh quyền lực dưới chế độ Độc tài Cộng sản trị”. “Bằng mọi cách chui cho kỳ được vào Đảng”; “cơ hội bom chen chụp giật”; “tham chiến chẳng phải vì lương mà vì bổng lộc”; “cán bộ đảng viên thi nhau hoán đổi “chí công vô tư thành “chí tư vô công”, “ra sức bòn rút của công cho vào túi riêng, tha hồ xây cơ lập nghiệp”… để rồi kết luận đi đến kết luận hồ đồ “quan chức trung, cao cấp của Đảng đều giàu có; lúc sống cũng như khi chết chiếm dụng đất vô tội vạ; hành xử đối với dân mệnh lệnh cường quyền chẳng khác mấy thời phong kiến, thực dân khi xưa”.
Những “chứng cứ” mà chúng đưa ra hoàn toàn thiếu trung thực, theo kiểu “vơ đũa cả nắm”, mượn cái không cơ bản, cái nhỏ, cái cá biệt, để đánh tráo, thay thế cho cái cơ bản, cái lớn, cái toàn thể. Chúng không hiểu hay cố tình không hiểu, con đường cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không dung nạp chủ nghĩa cá nhân. “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”, những phần tử cơ hội, len lỏi vào Đảng, cơ quan Nhà nước sớm muộn cũng bị Đảng, Nhân dân nhận diện và loại bỏ khỏi hàng ngũ những người Cộng sản.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm nên những chiến công thần thánh, đánh đổ những đội quân xâm lược hung bạo nhất, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước; công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 35 năm qua đã thu được những “thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử”; công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực được Đảng, Nhà nước ta lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt từ nhiều năm nay, thời gian gần đây càng được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã chứng tỏ, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Lý tưởng xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công - những đặc tính ưu việt vượt trội của chế độ xã hội chủ nghĩa so với chế độ tư bản chủ nghĩa ngày càng hiện thực hóa, không ai có thể phủ nhận. Chỉ có những kẻ đối lập với cách mạng, bị cách mạng tước đoạt đi đặc quyền, đặc lợi là hậm hực, tức tối và cố tình cho rằng tâm trạng của những kẻ như vậy là tâm trạng chung của đất nước, của nhân dân. Nhưng, dù có lu loa, “cả vú lấp miệng em” hay che dấu đến cỡ nào thì luận điệu của những kẻ cơ hội cũng chỉ như “lấy trứng chọi đá” mà thôi. Đúng như cổ nhân đã nói “bàn tay sao che nổi mặt trời”.
                                                                  
NGƯỜI VIẾT





 Trung Dũng


KẾT QUẢ THỰC TIỄN LÀ MINH CHỨNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CAO NHẤT


Hiện nay, một số ý kiến, bài viết trên mạng xã hội tập trung xuyên tạc việc cơ quan chức năng Việt Nam xử lý, trừng phạt những blogger lợi dụng internet, mạng xã hội để viết bài, nhằm kích động chống phá chế độ, phủ nhận công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt họ cho rằng ở Việt Nam luôn có vi phạm nhân quyền. Tuy nhiên, họ quên mất rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam vì con người, cho con người với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh luôn thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt:
Trên lĩnh vực chính trị, pháp luật, những năm gần đây, nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, Quốc hội Việt Nam khóa XIV đã thông qua nhiều dự án luật và nghị quyết, trong đó có Luật Quốc phòng (sửa đổi); Luật Cạnh tranh; Luật An ninh mạng; Luật Tố cáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao; Luật Đo đạc và Bản đồ; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến Luật Quy hoạch,  Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn;  Nghị quyết về chương trình giám sát của Quốc hội năm 2019, 2020...  Hoạt động xây dựng pháp luật của Quốc hội Việt Nam nói trên cho thấy quyền làm chủ của nhân dân đối với Nhà nước và xã hội thông qua cơ quan quyền lực đã được đổi mới, hiệu quả hơn các năm trước.
Trên lĩnh vực kinh tế-xã hội, kết quả nổi bật là tăng trưởng GDP hàng năm đều đạt trên 6,5%, bình quân 5 năm 2016-2020 tăng 6,8% (chỉ tiêu kế hoạch 5 năm là 6,5-7%); dự trữ ngoại hối Nhà nước đạt kỷ lục... Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện; mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch covid-19, nhưng Việt Nam được cộng đồng thế thế giới đánh giá là một điểm sáng, một môi trường lành mạnh vì con người, cho con người, thông qua kết quả phòng chống dịch bệnh.
Tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh từ 14,2% năm 2010 xuống còn 7% năm 2015 (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015) và giảm từ 9,2% năm 2016 xuống dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Thực hiện tốt các chính sách người có công, bảo đảm an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Đẩy mạnh hỗ trợ nhà ở cho người có công, người nghèo ở nông thôn và các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ; phát triển nhà ở xã hội. Bình đẳng giới được thực hiện có hiệu quả; công tác bảo vệ trẻ em được quan tâm. Mạng lưới y tế được mở rộng, nhất là y tế cơ sở. Năng lực, chất lượng khám, chữa bệnh và y đức được nâng lên. Nhiêu dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng. Nhiều chỉ tiêu về y tế đạt và vượt mục tiêu đề ra; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020. Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội được tăng cường; đã hình thành hệ thống cơ quan chuyên trách phòng, chống tệ nạn xã hội ở địa phương. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới.
Đối với nhân dân Việt Nam, QCN không thể tách rời độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong những năm qua, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm vững chắc. Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam đã chủ động ứng phó với các tình huống phức tạp, bảo đảm an ninh, an toàn cho ngư dân và các hoạt động kinh tế trên biển. Thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới, lãnh thổ; xây dựng, quản lý biên giới hòa bình, ổn định và phát triển.
Bằng những kết quả thực tiễn đó, cho dù các thế lực thù địch tán phát thông tin xuyên tạc, bôi đen chế độ xã hội cũng không thể phủ nhận được thành quả bảo đảm QCN của nhân dân Việt Nam./.


THỰC CHẤT CỦA HÀNH VI XUYÊN TẠC LỊCH SỬ


Những ngày qua, trên khắp cả nước đã diễn ra nhiều hoạt động chào mừng kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, trên các kênh thông tin, nhiều bài viết xuyên tạc lịch sử, kích động hận thù của bọn phản động trong và ngoài nước cũng xuất hiện với tần xuất khá dày đặc.
Đối với nước ta, xét lại lịch sử đã diễn ra từ khá lâu với nhiều sự kiện lịch sử, trong đó xét lại, làm thay đổi bản chất chính nghĩa, cách mạng của Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là một trọng điểm mà các thế lực thù địch đã và đang tiến hành hiện nay. Mục tiêu của xét lại lịch sử Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là nhằm “chính danh hóa” cho ngụy quyền, ngụy quân Sài Gòn, một thực thể chính trị bù nhìn tay sai do đế quốc Mỹ dựng lên, làm công cụ để xâm lược nước ta. Thực chất là mưu đồ nhằm biến Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ chính nghĩa sang phi nghĩa; từ cách mạng, chống xâm lược sang nội chiến Nam – Bắc. Mưu đồ này đã được “lập trình” từ khá lâu trong cái gọi là “Việt Nam cộng hòa trở lại”, bởi tổ chức phản động Việt Tân và số chống cộng cực đoan khác di tản ra nước ngoài trong thời khắc cuối cùng của Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta vào mùa Xuân 1975, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn cho đất nước.
Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn, nhận rõ bộ mặt của những kẻ “mang danh yêu nước”, che đậy bản chất phản động, thù địch, xuyên tạc sự thật về cuộc chiến tranh chính nghĩa vì hòa bình, độc lập của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ cứu nước.


CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN BÔI NHỌ, XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH



          Bôi nhọ uy tín, hình ảnh lãnh tụ và phủ nhận vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như tư tưởng của Người với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là mục tiêu chống phá trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đặc biệt, trong dịp kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Người vừa qua, các đối tượng lại ráo riết, đẩy mạnh các chiến dịch “xóa thần tượng” thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau. Chúng luôn tìm mọi cách để bôi nhọ danh dự, hình tượng Hồ Chí Minh, phá hoại phong trào “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” bằng cách ngụy tạo chứng cứ và xuyên tạc bóp méo tài liệu lịch sử về Bác Hồ để lừa mị nhân dân, đổi trắng thay đen hòng làm mất đi tinh thần dân tộc, lòng yêu nước của nhân dân ta.

NHẬN DIỆN SỰ CHỐNG PHÁ TRÊN LĨNH VỰC VĂN HÓA CỦA KẺ THÙ

Không ồn ào nhưng cuộc xâm lăng văn hóa diễn ra từ từ, ngấm ngầm, dai dẳng, nhưng vô cùng tai hại. Nếu không sớm nhận diện, tĩnh táo và có biện pháp phòng ngừa từ xa, văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ đứng trưốc thử thách “sinh tử” bởi “cuộc chiến mềm” đầy mưu mô, tính toán của các thế lực thù địch.
Sở dĩ người ta ví sự “xâm lăng văn hóa” như một “cuộc chiến mềm” bởi xuất phát từ vị trí, vai trò và chức năng của văn hóa. Văn hóa là gốc rễ, là cội nguồn làm nên sức mạnh nội sinh và sức sống của mỗi dân tộc, đồng thời được ví như “tấm thẻ căn cước”, “chứng minh thư” để nhận diện giữa dân tộc này với dân tộc khác
Quá trình phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập vối thế giới ngày càng sâu rộng, bên cạnh việc tiếp thu, hấp thụ nhũng giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, nước ta đang phải đối mặt với những thách thức, nguy cơ không nhỏ. Những năm gần đây, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc bị đảo lộn, nhiều hành vi phản văn hóa mổi xuất hiện với tần suất lớn, mật độ dày và nhất là môi trường văn hóa xã hội đang bị “ô nhiễm nặng nề” đã và đang trở thành nỗi bất an liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc và tương lai đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do cuộc “xâm lăng văn hóa” nhằm vào nước ta đang tấn công từ nhiều phía, từ nhiều con đường, thông qua nhiều hình thức, âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc.
       Tại sao trong thời gian qua, dư luận hết sức băn khoăn bởi một bộ phận giới trẻ sa đà vào lôi sông “gấp”, sông “thử”, sống “co ro” vào cái tôi nhỏ nhoi của mình? Tại sao nhiều thanh, thiếu niên nghiện trò chơi điện tử, nghiện xem phim sex, phim bạo lực đến mức báo động đỏ? Tại sao các vụ ly hôn trong gia đình trẻ, các vụ vi phạm pháp luật ở tuổi vị thành niên và thanh niên liên tục gia tăng? Tại sao rất nhiều ngưòi trẻ đã bị lôi kéo, mê hoặc đến mức “phát cuồng” một số ca sĩ, diễn viên, ngôi sao bóng đá từ nước ngoài mà họ coi là thần tượng? Tại sao một số bộ phim vừa ra đời đã bị công luận tiến bộ cảnh báo là nhảm nhí, thảm họa, làm “vẩn đục” môi trường điện ảnh Việt Nam? Tại sao xuất hiện một số bài báo theo kiểu “lượm lặt đó đây”, “sưu tầm bốn phương”, “thông tin đa chiều”, “thế giới nhìn từ nhiều góc cạnh”... với nguồn thông tin không được kiểm chứng, thậm chí là những thông tin vô bổ, có xuất xứ không rõ ràng từ. Vì vậy cần phải nêu cao cảnh giác trước sự chống phá, xâm lăng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn hóa để xây dựng con người mới XHCN, nhất là thế hệ trẻ.

CẢNH GIÁC TRƯỚC CHIÊU TRÒ MƯỢN DANH CỦA TỔ CHỨC KHỦNG BỐ VIỆT TÂN

Thời gian qua, nhằm tránh những cáo buộc liên quan đến khủng bố, Việt Tân đã sử dụng nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi hơn để tiếp cận, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người dân. Nổi lên gần đây nhất chính là việc thành lập tổ chức RISE, hoạt động dưới danh nghĩa là một tổ chức phi lợi nhuận, phi chính phủ (NGO) trong lĩnh vực môi trường.

Ở VIỆT NAM KHÔNG CÓ CÁI GỌI LÀ “TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM”

——————————— Không phải tới bây giờ, mà nhiều năm qua, các thế lực thù địch dường như không biết bấu víu vào vấn đề gì hơn là lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Mũi nhọn mà họ tập trung vào là vấn đề nhân quyền với nhiều hình thức tinh vi, thâm độc, xảo trá. Vậy, sự thật những người mà họ gọi là “tù nhân lương tâm” là những ai? Cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không bao giờ có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật. Ai được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam? Sẽ chẳng phải là những cái tên quá xa lạ, bởi những con người ấy đã được báo chí nhắc đến không ít lần. Tuy nhiên, với tuyệt đại đa số người Việt Nam thì những con người ấy chỉ đơn giản là đối tượng vi phạm pháp luật và phải chịu các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Vậy, họ là những ai? Đó là Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, Lê Thăng Long; là Trần Anh Kim, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài… Với người dân Việt Nam, thì các vụ án liên quan đến những đối tượng này chỉ là những vụ án hình sự đơn thuần; họ đều bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam truy tố, xét xử do phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xin được nêu lại một trường hợp cụ thể để minh chứng rõ hành vi phạm tội của những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam. Cù Huy Hà Vũ, một người được học hành cơ bản, có nhận thức cao và được thừa hưởng nhiều sự ưu ái của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, ảo tưởng với danh vọng, quyền lực, nên Vũ đã lầm đường, lạc lối, có nhiều hành vi đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an phát hiện Vũ đã làm ra nhiều tài liệu có nội dung chống Nhà nước Việt Nam để tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, đòi lật đổ chế độ, thực hiện đa nguyên, đa đảng, kêu gọi nước ngoài can thiệp. Không những vậy, Cù Huy Hà Vũ còn có quan hệ với các đối tượng có tư tưởng chống đối Nhà nước Việt Nam; thực hiện nhiều cuộc trả lời phỏng vấn các đài, báo của các đối tượng phản động chống Việt Nam ở nước ngoài có nội dung chống Nhà nước và chuyển tải các tài liệu do Vũ làm ra để chúng sử dụng chống phá Nhà nước Việt Nam… Những hành vi nêu trên của Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm nghiêm trọng Điều 88 Bộ luật Hình sự. Như vậy, với những chứng cứ hết sức rõ ràng, Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam và bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam xử phạt theo đúng các quy định của pháp luật. Với kiến thức về pháp luật và được đào tạo bài bản, chắc chắn Cù Huy Hà Vũ nhận thức đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, ngay tại phiên tòa Vũ đã phải cúi đầu nhận tội và nói những lời ăn năn, hối cải. Tuy nhiên, đáng tiếc, do ảo tưởng và sự tham vọng quyền lực, cùng với sự lóa mắt trước những cám dỗ vật chất tầm thường, nên sau khi được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước, Vũ lại "ngựa quen đường cũ", chống phá đất nước, quê hương của mình, đi ngược lại truyền thống dân tộc và truyền thống gia đình, dòng họ. Điều rất đáng bàn là những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam khi bị bắt và khai trước tòa hầu hết đều thừa nhận rằng do không có kiến thức pháp luật, không lường hết hậu quả của những việc đã làm, do nhận tiền và bị xúi giục, thậm chí bị đe dọa nên buộc phải tham gia. Ví như, tại phiên tòa, hai bị cáo Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung đều thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã vi phạm pháp luật. Nguyên nhân là do các bị cáo tiếp thu những quan điểm sai trái về “dân chủ”, “nhân quyền” của các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội và sự nhìn nhận chủ quan về các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong xã hội. Tại phiên xét xử phúc thẩm diễn ra ngày 11-5-2010, Lê Thăng Long tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và nói: “Tôi biết ơn Đảng và Nhà nước đã nuôi dưỡng, giúp đỡ tôi trưởng thành. Tôi không bao giờ muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho tôi sớm được trở về với gia đình”. Còn nhiều trường hợp khác mà chúng tôi không thể dẫn giải hết trong bài viết này để cho thấy họ là những “tù nhân lương tâm” theo cách gọi của các thế lực thù địch, phản động hay là những người vi phạm pháp luật Việt Nam. Vậy, phải chăng, chỉ có ở Việt Nam mới xử lý những người chống đối nhà nước? Trả lời câu hỏi này, chỉ cần một vài thao tác hết sức đơn giản thông qua công cụ tìm kiếm Google trên internet cũng cho ra hàng trăm nghìn kết quả. Đành rằng, mỗi nước tùy theo những quy định của pháp luật của nước mình để xử lý các hành vi vi phạm của công dân. Ví như, tại Singapore, các hành vi tuyên truyền kích động nhằm mục đích chống phá nhà nước, tung tin giả mạo, thao túng môi trường trực tuyến, gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng, mức phạt lên tới 100.000SGD hoặc thời hạn tù 10 năm. Hoặc kể từ ngày 1-1-2018, các trang mạng xã hội ở Đức nếu để người dùng đăng tải những nội dung, thông điệp mang tính thù hận dân tộc, gây nguy hại đến an ninh quốc gia, lợi ích đất nước đều bị xử lý với nhiều hình thức tùy thuộc vào tính chất, mức độ… Thậm chí ở một số nước, chưa nói đến lợi ích chung của quốc gia-dân tộc, mà chỉ cần tung tin, giả mạo có tính sỉ nhục cá nhân cũng đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý một cách nghiêm khắc. Dẫn lại một vài điều trên để nhằm khẳng định rằng: Ở bất kỳ quốc gia nào, những người vi phạm pháp luật cũng sẽ bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đó là một thực tế mà chúng tôi tin rằng, những người lợi dụng vấn đề về dân chủ, nhân quyền nhằm mục đích chống phá Nhà nước Việt Nam hẳn không thể không biết? Pháp luật của Nhà nước Việt Nam thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, bất kỳ quốc gia nào cũng đều sử dụng công cụ thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội. Mọi hành vi của các tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật do nhà nước ban hành. Pháp luật của mỗi quốc gia tuy có chung mục đích là để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức, nhưng chắc chắn sẽ có những điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau, bởi phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế-xã hội và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì vậy, không thể lấy pháp luật của nước này để áp dụng đối với công dân của nước kia và ngược lại. Hơn nữa, hệ thống pháp luật của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của nhân dân với mục tiêu cao nhất là bảo đảm mọi quyền lợi, lợi ích cơ bản, chính đáng của nhân dân. Hệ thống pháp luật Việt Nam không dành riêng để bảo vệ một người hoặc một nhóm người, mà duy trì mọi hoạt động chung của xã hội, là công cụ quan trọng để nhà nước bảo vệ trọn vẹn quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân trong xã hội. Điều 15 Hiến pháp 2013 của Nhà nước Việt Nam đã hiến định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Căn cứ theo quy định nêu trên, mọi công dân đều có quyền của riêng cá nhân mình, nhưng quyền phải luôn gắn liền với nghĩa vụ. Pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi công dân, nhưng cũng luôn đòi hỏi mọi công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Thực hiện quyền công dân, nhưng không cho phép bất cứ người nào xâm phạm đến lợi ích quốc gia-dân tộc. Nói vậy, chắc có người cho rằng, người viết chỉ dựa vào hệ thống pháp luật Việt Nam để chứng minh là thiếu khách quan. Vì thế, chúng tôi xin trích dẫn Khoản 2, Điều 29 “Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948” nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. Nhìn rộng ra thế giới, một trong những nguyên lý đã được khẳng định: Không có bất kỳ quốc gia nào có thể tồn tại mà thiếu hệ thống pháp luật và luật pháp không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy quốc gia. Để quản lý xã hội, nhà nước phải dùng nhiều công cụ, nhiều biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ cơ bản, quan trọng, thiết yếu nhất. Luật pháp và nhà nước luôn có quan hệ khăng khít với nhau. Khi luật pháp phản ánh đúng nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của dân tộc, của quần chúng nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng và tuân thủ. Theo đó, mọi hành vi đi ngược với lợi ích quốc gia-dân tộc không chỉ bị nhân dân phản đối, mà cần phải kiên quyết xử lý. Một bộ máy nhà nước lành mạnh là một tổ chức trong đó các quyết sách phải được thực thi một cách nghiêm minh, nhất quán từ trên xuống dưới mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Luật pháp chính là những mắt xích giúp cho bộ máy nhà nước có thể hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả. Suy cho cùng, pháp luật cũng là để phục vụ người dân, đối với người dân pháp luật chính là lẽ phải, sự công bằng, là môi trường pháp lý bình đẳng giúp người dân yên tâm làm ăn, sinh sống. Tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thống nhất sẽ là động cơ mạnh mẽ giúp bộ máy nhà nước vận hành trơn tru, thúc đẩy đất nước phát triển. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hệ thống pháp luật của Việt Nam là thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Vì vậy, việc tuân thủ pháp luật, thượng tôn pháp luật của mọi tổ chức, mọi công dân là vấn đề tất yếu. Đó cũng chính là cách để Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân. Theo đó, xử lý những người vi phạm pháp luật cũng là lẽ bình thường, đâu phải là chuyện riêng của Việt Nam. Vì vậy, cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật, bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.

TRUNG QUỐC GIA TĂNG HÀNH VI SAI TRÁI “CHƯA TỪNG CÓ” Ở BIỂN ĐÔNG


Trung Quốc đang lợi dụng dịch bệnh Covid-19 để đẩy mạnh một loạt các hành vi sai trái ở mức độ “chưa từng có tiền lệ” trên Biển Đông.
Đây là nhận định được bà Sumathy Permal, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Hàng hải eo biển Malacca, Malaysia đưa ra tại Hội thảo trực tuyến về vấn đề Biển Đông có chủ đề “Đi qua những vùng biển tranh chấp” diễn ra ngày 15/5 vừa qua.
Theo nữ chuyên gia người Malaysia, từ đầu năm 2020, Biển Đông đã trở thành “điểm nóng” chứng kiến những hành vi khiêu khích và gây hấn của Trung Quốc nhằm vào các quốc gia trong khu vực. Trung Quốc đã triển khai số lượng lớn tàu tới các Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của các nước và có những hành vi khiêu khích và quấy rối nguy hiểm.
Bà Sumathy Permal cũng cho biết, Trung Quốc cũng đã lợi dụng tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp tại các nước trong khu vực để tiếp tục có những hành động leo thang căng thẳng khiến cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại mà điển hình là vụ tàu Hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá QNg 90617 TS của Việt Nam với 8 ngư dân trên tàu ngày 2/4.
Đáng chú ý, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc có hành vi hết sức nguy hiểm và đáng lên án như trên. Gần một năm trước đó, hồi tháng 6/2019, tàu cá mang số hiệu F/B GIMVER1 của Philippines với 22 ngư dân trên tàu cũng đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm ở gần bãi Cỏ Rong trên Biển Đông. “Những hành vi gây hấn nói trên cùng với việc Trung Quốc từ nhiều năm qua liên tục cải tạo phi pháp các bãi đá ở Biển Đông và xây dựng các công trình trái phép trên đó, đồng thời ngang nhiên tuyên bố thành lập cái gọi là "khu Nam Sa” và "khu Tây Sa” trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam được cho là những bước đi đầy toan tính của Trung Quốc nhằm hiện thực hoá tham vọng độc chiếm Biển Đông của nước này thông qua chiến lược Biển xanh 2020, bà Sumathy Permal nhấn mạnh.
Vị nữ chuyên gia này nêu rõ, một trong những chiến thuật chính mà Trung Quốc thường xuyên sử dụng trong suốt hơn 10 năm qua là triển khai các nhóm tàu hỗn hợp gồm các tàu cá, tàu hải cảnh và hải giám tới vùng biển của các quốc gia trong khu vực nhằm thực hiện hành vi khai thác trái phép, quấy rối thậm chí gây hấn và tấn công tàu các nước khác.
Đáng lo ngại hơn, hành vi này của Trung Quốc không những duy trì liên tục trong suốt nhiều năm qua mà còn tăng cường cả về tần suất, mức độ và số lượng tàu tham gia và đã đạt ngưỡng “chưa từng có tiền lệ” trong khoảng đầu năm 2020 và dự kiến sẽ tăng mạnh trong thời gian tới khi Trung Quốc đã “rảnh tay” hơn trong việc đối phó với Covid-19.
Trước những diễn biến phức tạp và khó lường trên Biển Đông trong thời gian qua, bà Sumathy Permal cho rằng, điều quan trọng nhất hiện nay là các quốc gia trong khu vực, trong đó có Việt Nam, Philippines và Malaysia – vốn chịu nhiều tác động nhất từ các hành vi sai trái của Trung Quốc – cần tiếp tục duy trì các biện pháp pháp lý và ngoại giao cứng rắn hơn nữa nhằm đối phó với Trung Quốc.
Cụ thể, các nước trong khu vực đã nhất trí về một khuôn khổ pháp lý trong việc bảo vệ các tài nguyên, khoáng sản ở Biển Đông nhằm ngăn chặn những hành vi khai thác trái phép của Trung Quốc cũng như không để Trung Quốc tiếp tục có những động thái gây rối, cản trở hoạt động khai thái, đánh bắt cá và thăm dò dầu khí hợp pháp của các nước trong khu vực cùng các đối tác khác. Ngoài ra, một số quốc gia trong khu vực, dù không có tranh chấp trực tiếp ở Biển Đông như Indonesia cũng tham gia đề xuất các giải pháp và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao để giải quyết căng thẳng ở Biển Đông.
Hiện đã có ít nhất 3 cơ chế và khuôn khổ pháp lý và ngoại giao khác nhau có sự tham gia của cả các nước có tranh chấp như Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Việt Nam và các nước không có tranh chấp ở Biển Đông như Mỹ, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc… nhằm giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay.
Tuy nhiên, bà Sumathy Permal cho rằng, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao nói trên dù khá đầy đủ và đồng bộ nhưng vẫn chưa đủ sức buộc Trung Quốc từ bỏ tham vọng sai trái của mình. Trên thực tế, dù nhiều lần tuyên bố tôn trọng các thoả thuận hợp tác, đối thoại và tránh có các hoạt động làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông, Trung Quốc vẫn liên tục khiến các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế hết sức quan ngại về những hành vi gây hấn khiến tình hình khu vực trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.
Điều này cho thấy, các khuôn khổ pháp lý và ngoại giao này vẫn chưa đủ tính ràng buộc pháp lý cần thiết để buộc Trung Quốc chấm dứt những hành động sai trái của mình. Tương tự như vậy, Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (DOC) dù đã được Trung Quốc và ASEAN thông qua năm 2012 và được coi là một văn kiện quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông vẫn chưa thể phát huy hết tác dụng bởi cũng không mang tính ràng buộc.
Trong khi đó, việc đẩy nhanh tiến trình đàm phán thông qua Bộ Quy tắc Ứng xử của các Bên ở Biển Đông (COC) – với tính ràng buộc pháp lý cao – được kỳ vọng sẽ ngăn ngừa căng thẳng tại những khu vực tranh chấp ở Biển Đông lại đang gặp rào cản lớn cũng do đại dịch Covid-19 khiến các cuộc đàm phán về COC không thể diễn ra trực tiếp theo lộ trình đã được các bên nhất trí thông qua.
“Tôi vẫn cho rằng, việc tiếp tục thúc đẩy tiến trình đàm phán COC trong thời gian tới là rất quan trọng. Tuy nhiên, kết quả đàm phán có thể sẽ rất khác biệt so với trước đây nếu xét đến những gì đang diễn ra trên thực địa để đảm bảo rằng sự thành công trong việc thông qua COC là một kết quả xứng đáng với những nỗ lực và quyết tâm chính trị của các nước tham gia đàm phán”, bà Sumathy Permal nêu rõ./.

Nhận diện để chống xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh


Hiện nay, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị tăng cường sử dụng các website, các trang mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến để đẩy mạnh các hoạt động chống phá, xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Chúng tuyên truyền hết sức sai trái, cho rằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện của Việt Nam”. Cần khẳng định rằng, về bản chất, luận điểm tuyên truyền sai trái nói trên nằm trong mưu toan phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi nguồn gốc tư tưởng, lý luận chủ yếu, quyết định là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, từ đó làm suy yếu, tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận điệu sai trái đó nhằm ba mục tiêu: phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận, Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Từ đó, mưu toan làm tha hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống đối với một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm thực hiện mục tiêu làm suy yếu và đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Một số người tự nhận là “học giả”, những “chuyên gia” nghiên cứu, "người am hiểu" sâu sắc về Hồ Chí Minh, thường dựa vào đặc điểm ngôn ngữ và cách diễn đạt của Hồ Chí Minh để lập luận, xuyên tạc rằng "không có tư tưởng Hồ Chí Minh". Họ cho rằng, Hồ Chí Minh không hề có ý định viết lý luận, không hề có ý định trở thành nhà tư tưởng, nhà lý luận, không để lại những công trình lớn, "dày cộp" mang tính chuyên luận mà chỉ toàn là những bài viết, bức thư ngắn gọn vài trang nên không thể coi là tư tưởng, là lý luận được. Trước hết, cần phải khẳng định: Tư tưởng, lý luận không nhất thiết sinh ra từ những cuốn sách "dày cộp". Giá trị tư tưởng, lý luận không phụ thuộc vào số trang, số tập mà ở ý nghĩa, tác dụng đối với sự biến đổi của lịch sử, ở sự đóng góp vào sự phát triển của đời sống dân tộc và nhân loại. Trước hết, cần phải khẳng định: Tư tưởng, lý luận không nhất thiết sinh ra từ những cuốn sách "dày cộp". Giá trị tư tưởng, lý luận không phụ thuộc vào số trang, số tập mà ở ý nghĩa, tác dụng đối với sự biến đổi của lịch sử, ở sự đóng góp vào sự phát triển của đời sống dân tộc và nhân loại. Đúng là Bác Hồ không viết dài. Phần lớn những bài viết của Người là diễn văn, thư từ, lời kêu gọi, bài nói chuyện… rất giản dị, mộc mạc. Cần nói ngay rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết giản dị không phải vì Người không viết được uyên bác. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp thụ một nền Quốc học sâu sắc. 
Trong những năm bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã sống, học tập, hoạt động thực tiễn và lý luận ở giữa trung tâm văn hóa, khoa học và cách mạng châu Âu; đã gần gũi và làm việc bên cạnh những chính khách hàng đầu của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế… Một người có trí tuệ lỗi lạc và học vấn uyên thâm như Hồ Chí Minh, muốn viết lý luận kiểu hàn lâm không phải là chuyện không làm được.
Tùy đối tượng, khi cần uyên bác, Người cũng đã từng viết rất uyên bác. Đó là những bài báo, luận văn, bút chiến,… được viết một cách đanh thép, sắc sảo nhằm chống lại ngôn luận dối trá của bọn chính khách tư sản và lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân được viết vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX tại Pháp. Đó là những bài phát biểu, tham luận, tranh luận về các vấn đề lý luận phức tạp trên các diễn đàn quốc tế Cộng sản, các đại hội ở Paris và Moscow. Đó còn là cách nói hàm súc, ẩn dụ, "ý tại ngôn ngoại" để nói với các bậc đại nho ở trong nước. Nhưng từ những lớp huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu (Trung Quốc), nhất là từ sau khi về nước, Người không thể dùng cách viết “tầm chương trích cú” với hơn 90% đại đa số người Việt Nam là nông dân lúc bấy giờ được, mà bằng cách viết, cách nói dễ hiểu, dễ nhớ, Người làm cho lý luận trở nên gần gũi với tất cả mọi người. Thức tỉnh lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của hàng chục triệu người mù chữ, từ chỉ quen sống yên phận, dám vùng dậy đấu tranh đòi giải phóng, đó là một sự nghiệp gian nan và phi thường. Phải nói và viết sao cho họ hiểu được, hiểu để làm được, đó là mục tiêu, là cứu cánh của lý luận. Người chủ trương: “Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế”. Có thể hiểu được mục đích và quan điểm về cách viết lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới hiểu được phong cách lý luận Hồ Chí Minh, một phong cách thống nhất với lý tưởng, đạo đức của Người.  Cũng như việc Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề nhận mình là nhà thơ nhưng sự nghiệp thơ ca của Người để lại đã đưa Người lên hàng những nhà thơ xuất sắc của dân tộc, việc Người không hề có tham vọng trở thành nhà lý luận, nhà tư tưởng, càng không thích lý luận một cách dông dài, nhưng sự nghiệp tư tưởng, lý luận của Người để lại đã làm cho Người được thừa nhận là một nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo. 
Luận điệu xuyên tạc hòng bôi nhọ chân dung, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tìm cách hạ bệ hình ảnh của Người trong lòng nhân dân Việt Nam là chiêu bài xảo trá của các thế lực thù địch, song những di sản mà Người để lại có sức sống lâu bền, là những giá trị không thể phủ nhận./.

SẴN SÀNG ĐẤU TRANH VỚI CÁC NHÓM TÀU XÂM PHẠM VÙNG BIỂN CỦA TA



        Thời gian gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động nhằm khẳng định chủ quyền theo yêu sách phi lý trên Biển Đông; bên cạnh đó các hoạt động khẳng định chủ quyền của các nước trong khu vực, sự can dự của các nước lớn ngoài khu vực đã làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp thêm. Chủ trương bảo vệ chủ quyền biển, đảo của ta là: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, giữ vững 21 đảo (33 điểm đóng quân) ở quần đảo Trường Sa, DKI; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao và pháp lý, kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
        Giữ môi trường hòa bình, ổn định, giữ quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước để phát triển đất nước; xử trí tình huống trên cơ sở Công ước của Liên hiệp quốc về luật Biển 1982, luật Biển Việt Nam năm 2012 và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Giữ vững đường lối độc lập, tự chủ và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế”. 
       Đặc biệt trước sự việc Trung Quốc đưa tàu khảo sát địa chất HD-8 xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam tại khu vực bãi Tư Chính gần đây, ta đã kiên trì xử lý bình tĩnh, đấu tranh kiên quyết với Trung Quốc, triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao, dư luận, pháp lý và giữ vững trên thực địa.
       Những nỗ lực đó đã buộc Trung Quốc phải rút tàu khỏi vùng biển của ta; đồng thời, ta kiểm soát tốt tình hình và an ninh, trật tự xã hội. Do đó, quan điểm chung của ta là quán triệt tinh thần “kiên quyết, kiên trì”, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; những gì thuộc về nguyên tắc kiên quyết giữ; những gì thuộc về độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ kiên quyết không nhân nhượng, song phải có đối sách phù hợp.

    

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2020

Cảnh giác với chiêu trò tung hô nhảm nhí về nhân sự trước thềm đại hội đảng




Thời gian này, đại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, khó lường, là mối nguy hại ảnh hưởng đến các mặt đời sống chính trị, kinh tế-xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Thay vì chung tay phòng, chống dịch bệnh, nhiều tài khoản ở các trang mạng xã hội, một số website của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đăng tải, chia sẻ dưới nhiều hình thức những thông tin xấu độc, bịa đặt về công tác nhân sự đại hội đảng các cấp, nhân sự Đại hội XIII của Đảng.
Những phần tử này đã dựng chuyện về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo các tỉnh, thành phố, Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng khóa XIII, "bố trí, quy hoạch" cán bộ vào những chức danh lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ... Họ bịa đặt trắng trợn, tung hỏa mù, gây rối không khí và tâm trạng xã hội, kích động tâm lý tiêu cực, gây hoang mang trong dư luận, nhằm làm tổn hại đến niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ XHCN, làm suy giảm uy tín của một số cán bộ lãnh đạo cấp cao, tác động đến vai trò giám sát của quần chúng đối với CTNS đại hội đảng.
Phải khẳng định cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Việt Nam không lạ gì những chiêu trò chống phá trước thềm đại hội đảng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Dù thủ đoạn có tinh vi, xảo quyệt tới đâu, ngụy trang kiểu gì cũng không đủ để tác động tiêu cực đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Bởi mỗi người dân Việt Nam luôn mang trong mình truyền thống yêu nước, một lòng kiên trung theo Đảng, theo cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào công tác lãnh đạo của Đảng, của cấp ủy các cấp.
Thời điểm này, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung chống lại đại dịch Covid-19 nhưng vẫn không lơ là công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Nhiều đảng bộ (chi bộ) đã tổ chức đại hội thành công, đạt kết quả tốt, các đồng chí trúng cử BCH đảng bộ (chi bộ) đạt số phiếu tín nhiệm cao, tiêu biểu về phẩm chất và năng lực. Các đảng bộ trực thuộc Trung ương đã quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tổ chức Trung ương về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, làm tốt CTNS cấp ủy khóa mới bảo đảm dân chủ, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch; giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa đức và tài; giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển với quyết tâm xây dựng cấp ủy có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đặc biệt, CTNS Đại hội XIII của Đảng đã được BCH Trung ương Đảng khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu, bảo đảm đúng nguyên tắc, quy định.

VAI TRÒ TIÊN PHONG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN



Một mặt, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định tính thống nhất giữa Đảng và giai cấp, nhưng sẽ là sai lầm nếu xem Đảng và giai cấp là một. Sự khác nhau giữa Đảng và giai cấp là vai trò tiên phong của Đảng Cộng sản đối với giai cấp: "Những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; Về lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản".