Thứ Hai, 1 tháng 8, 2022

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG: DÙ THẾ GIỚI ĐỔI THAY, TÌNH NGHĨA VIỆT NAM -LÀO VẪN VỮNG BỀN HƠN NÚI, HƠN SÔNG!

         Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, dù thế giới có đổi thay thế nào chăng nữa, Việt Nam - Lào vẫn quyết tâm cùng nhau gìn giữ và phát huy mối quan hệ đặc biệt thủy chung, son sắt.
Sáng 18/7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, UB Trung ương MTTQ Việt Nam, TP Hà Nội long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Lào (5/9/1962-5/9/2022), 45 năm ngày ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam – Lào (18/7/1977-18/7/2022).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cùng các lãnh đạo, nguyên lãnh đạo ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương tham dự lễ kỷ niệm.
Về phía Lào có Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước Lào Bounthong Chitmany, thành viên trong đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Lào.
Ngoài ra còn có đại diện các tầng lớp nhân dân hai nước, cựu chiến binh, quân tình nguyện Việt Nam từng chiến đấu tại Lào.

Tình nghĩa Việt - Lào sáng hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn đóa hoa nào thơm nhất
Trong diễn văn kỷ niệm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, là hai nước láng giềng gần gũi, cùng uống chung dòng nước sông Mekong, cùng tựa lưng vào dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, Việt Nam và Lào có truyền thống bang giao hòa hiếu, gắn bó mật thiết với nhau trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của hai dân tộc.
Điểm lại lịch sử hào hùng cách đây hơn 9 thập kỷ, Tổng Bí thư cho biết, hai Đảng, nhân dân hai nước đã cùng kề vai sát cánh ngay từ những ngày đầu đầy thử thách, gian nan bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước.
Hai Đảng, hai nước đã hỗ trợ nhau từng bước khôi phục kinh tế - xã hội sau chiến tranh, đồng thời từng bước hình thành và phát triển mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực trọng yếu như kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục đào tạo, quốc phòng an ninh và đối ngoại...
"Nhìn lại những chặng đường lịch sử hào hùng mà hai dân tộc đã cùng đi qua, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về mối quan hệ mẫu mực, vô cùng trong sáng, hết mực thủy chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam và Lào. Quan hệ đặc biệt Việt - Lào đã được các lãnh tụ vĩ đại là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Kaysone Phomvihane và Chủ tịch Souphanouvong trực tiếp đặt nền móng; được dày công gây dựng, giữ gìn, vun đắp bằng mồ hôi, công sức và cả xương máu của các thế hệ quân và dân hai nước; thực sự trở thành tài sản vô giá, mối quan hệ "có một không hai" trong lịch sử thế giới", Tổng Bí thư bày tỏ.
Khẳng định thêm rằng, tình đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào là quy luật khách quan, là nhân
tố có ý nghĩa sống còn của mỗi Đảng, mỗi nước, người đứng đầu Đảng ta cho rằng đây cũng là tài sản chung vô giá và là nền tảng để hai nước cùng phát huy trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo. Việt Nam và Lào không chỉ là hai nước láng giềng, mà là "hai nước anh em, đồng chí".
Nhân dân Việt Nam hôm nay và mãi mãi mai sau luôn luôn ghi nhớ và khắc sâu lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Việt - Lào hai nước chúng ta, tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long" và câu nói chí tình của Chủ tịch Souphanouvong: "Tình nghĩa Việt - Lào cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, sáng hơn trăng rằm, ngát hương thơm hơn đóa hoa nào thơm nhất".
Những năm gần đây, Việt Nam vui mừng nhận thấy, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, kể cả những tác động chưa từng có của đại dịch Covid-19, quan hệ hợp tác giữa hai Đảng, hai nước tiếp tục phát triển vững chắc, ngày càng đi vào chiều sâu và hiệu quả.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, tinh thần đoàn kết và những thành tựu quan trọng đạt được trong quan hệ hai nước không chỉ tạo thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước, củng cố thế và lực của mỗi nước, mà còn đóng góp vào việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh thế giới và khu vực đang có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phân tích, hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước càng cần phải đoàn kết, gắn bó, tăng cường hợp tác hơn nữa để cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, cùng nhau làm hết sức mình để bảo vệ và không ngừng vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện.
Việt Nam luôn luôn mong muốn hợp tác, hỗ trợ đất nước Lào với tinh thần "giúp bạn là giúp mình", xem đây là nhiệm vụ chiến lược...
Tổng Bí thư khẳng định, dù thế giới có đổi thay thế nào chăng nữa, hai nước vẫn quyết tâm cùng nhau gìn giữ và phát huy mối quan hệ đặc biệt thủy chung, son sắt Việt Nam - Lào theo đúng như ý nguyện của Chủ tịch Kaysone Phomvihane: "Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Việt - Lào sẽ mãi mãi bền vững hơn núi, hơn sông".
Trong không khí thắm tình đoàn kết, Tổng Bí thư chúc mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt - Lào "mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững" theo đúng tinh thần tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thương nhau mấy núi cũng trèo/Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua/Việt - Lào hai nước chúng ta/Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long!".

Mồ hôi và máu quân tình nguyện Việt Nam
và nhân dân Lào hòa quyện nhau
Phó Chủ tịch nước Lào Bounthong Chitmany khẳng định, Lào và Việt Nam là hai nước có quan hệ láng giềng tốt đẹp từ lâu đời, nhân dân hai nước cùng làm ăn và sinh sống trên mảnh đất với núi sông liền một dải trải dài từ Bắc đến Nam có chiều dài hơn 2 nghìn km.
Từ thực tiễn của lịch sử nêu trên, hai nước Lào-Việt Nam đã cùng nhau liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung, vì cùng một mục đích lớn lao đó là giành độc lập, giải phóng và thống nhất đất nước, đem lại sự tự do cho nhân dân, xây dựng và phát triển đất nước ngày càng phồn vinh, thịnh vượng.
Phó Chủ tịch nước Bounthong Chitmany bày tỏ, Đảng, Nhà nước và nhân dân các dân tộc Lào vô cùng vui mừng và tự hào vì đã góp phần hết sức của mình trong liên minh chiến đấu và đấu tranh giành thắng lợi của hai nước. Ông nhắc lại đánh giá của Chủ tịch Kaysone Phomvihane: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như quan hệ Việt Nam và Lào”.
"Chúng tôi vô cùng phấn khởi thấy rằng, mặc dù tình hình khu vực, quốc tế tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp cộng với những khó khăn trong nội tại của mỗi nước song quan hệ đặc biệt Lào-Việt Nam tiếp tục được phát huy sâu rộng", lãnh đạo Nhà nước Lào cho biết.
Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện, theo Phó Chủ tịch nước Bounthong Chitmany, những thành tựu đó là bài học vô cùng quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng và quản lý Nhà nước Lào. Đây cũng là sự động viên, cổ vũ tinh thần mạnh mẽ cho nhân dân Lào trong công cuộc bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước.
Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào luôn kiên định và coi đây là trách nhiệm trong phát huy truyền thống quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào-Việt Nam được trải qua muôn vàn thử thách và dày công vun đắp bằng mồ hôi xương máu của các chiến sỹ anh hùng cũng như nhân dân Lào và nhân dân Việt Nam biết bao thế hệ để mãi được trường tồn.
Đến dự lễ kỷ niệm trọng đại tại thủ đô Hà Nội, Phó Chủ tịch nước Lào chia sẻ: "Đoàn đại biểu chúng tôi càng cảm thấy vô cùng ấm cúng và xúc động khi cảm nhận được bầu không khí hân hoan và phấn khởi của lễ kỷ niệm Năm Đoàn kết Hữu nghị Lào-Việt Nam 2022 với tràn đầy tình cảm trong sáng, chân thành, tin cậy và thắm đượm tình cảm gắn bó, yêu thương giữa hai dân tộc Việt Nam-Lào anh em".
Tại buổi lễ, đại diện sinh viên Lào đang học tập tại Việt Nam và đại diện thế hệ trẻ Việt Nam phát biểu nguyện phấn đấu hết sức mình để gìn giữ, phát huy mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước, hai dân tộc ngày càng bền chặt./.




Yêu nước ST.

PHÒNG NGỪA HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG ÂM NHẠC ĐỂ XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẤT NƯỚC

 

          Lâu nay, trong xã hội, nhất là trên không gian mạng xuất hiện tình trạng một số bài hát truyền thống, ca khúc cách mạng bị xuyên tạc, “hát nhại” không thể chấp nhận được. Sự phát triển tự do, khó kiểm soát nội dung trên các nền tảng mạng xã hội khiến cho các ca khúc bị xuyên tạc với nhiều ca từ dung tục không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc lan truyền rất nhanh. Nguy hiểm hơn, một số người đã đem những ca khúc “cải biên” ấy ra hát trong các cuộc nhậu, ở những nơi tụ tập đông người… xem đó như một trò tiêu khiển….         Tình trạng trên không chỉ làm làm xấu đi thị trường âm nhạc nước nhà, tác động tiêu cực đến nhân dân, nhất là giới trẻ mà còn dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền chống phá Việt Nam.

          Có nhiều cách nhìn khác nhau trước tình trạng trên, nhưng tựu chung lại có hai cách cơ bản.

          Cách thứ nhất cho rằng, người hát “nhại”, “cải biên” chỉ là trò đùa do hạn chế về ý thức chính trị nên hát cho vui chứ không nhằm mục đích gì…

          Cách thứ hai cho rằng, không loại trừ hành vi trên nhằm động cơ và mục đích xấu, có sự hà hơi tiếp sức của kẻ địch để chống phá Việt Nam. Cách này khá phổ biến.

          Khi nghe những giọng điệu “hát nhại”, “cải biên” theo kiểu xuyên tạc, bôi nhọ ấy, một số người kém hiểu biết thì cười vui tán thưởng, khen là “sáng tạo”. Nhưng hầu hết dư luận, nhất là các bậc cao niên, cán bộ hưu trí, các cựu chiến binh… khi nghe con cháu nghêu ngao những bài hát xuyên tạc, với những ca từ dung tục ấy đều lắc đầu, bày tỏ sự phẫn nộ bởi đó là hành vi lố bịch, lạc lõng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta…

          Có thể nói dù theo cách nào thì đó cũng là hành vi không thể chấp nhận được, cần lên án và đấu tranh để loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng những mặt trái trong xã hội để chống phá ta trên mọi lĩnh vực, nhất là trên mặt trận văn hóa, văn học nghệ thuật.

          Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước. Từ quan điểm đó, những năm qua, bằng nhiều chủ trương, chính sách Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng và tạo mọi điều kiện để các cá nhân, nhất là các văn nghệ sĩ được phát huy tài năng, sức sáng tạo góp phần nâng cao và làm phong phú hơn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân…

          Đồng thời, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn tận gốc những mầm mống văn hóa xấu độc đi ngược lại truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Quán triệt tinh thần ấy, cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục định hướng thẩm mỹ cho công chúng, dư luận cho rằng, cơ quan chức năng cần có các biện pháp xử lý kịp thời, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện xuyên tạc các ca khúc truyền thống như đã nêu để bảo vệ sự lành mạnh trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân và cũng là góp phần đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch./.

                                                                                                St

TIKTOK VÀ NỖI LO GIỚI TRẺ BỊ “ĐẦU ĐỘC”

 

          Mỗi video chỉ khoảng vài chục giây nhưng sức truyền đạt thông tin, hình ảnh bắt mắt, nhạc nền hay khiến TikTok đang là một ứng dụng phổ biến nhất trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó, TikTok lại ẩn chứa không ít sản phẩm độc hại, nhảm nhí, có nội dung tiêu cực, không phù hợp với lứa tuổi thanh thiếu niên, trẻ em.

          Bùng nổ người dùng tiktok tại việt nam

          Theo thống kê, lượng người dùng TikTok tại Việt Nam đang đứng thứ 6 thế giới, trong đó có tới 4 triệu người dưới 18 tuổi dùng mạng xã hội này. Với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, trẻ em rất có thể bị rơi vào “ma trận” của những video không được sàng lọc. Bất kỳ ai cũng có thể tải ứng dụng TikTok, thậm chí dễ dàng trở thành một TikToker chính hiệu.

          Mới đây, trang Q&Me đã công bố nghiên cứu rằng, thói quen của người dùng Việt Nam trong thời gian dịch bệnh có sự thay đổi lớn. Cụ thể, với giới trẻ họ dành nhiều thời gian xem video trực tuyến trên Youtube và TikTok, xu thế chuyển nhiều hơn cho việc xem TikTok. Trong khi đó người lớn dành nhiều thời gian rảnh cho Zalo sau Facebook.

          Còn theo báo cáo mới nhất của We Are Social, TikTok được tìm kiếm nhiều thứ 5 trên YouTube sau các từ khóa “phim”, “nhạc”, “remix” và “karaoke”. Theo đó lượng người dùng ứng dụng TikTok trên 18 tuổi tại Việt Nam 39,65 triệu người, tức đã tăng thêm hơn 5,4 triệu người dùng chỉ trong một thời gian khá ngắn. Con số 39,65 triệu cũng đưa Việt Nam lên vị trí thứ 6 toàn cầu về lượng người dùng TikTok sau các quốc gia Mỹ, Indonesia, Brazil, Nga, Mexico.

          Trong các ứng dụng mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất Việt Nam, TikTok đứng vị trí thứ 6 với tỉ lệ 47,6% (tức khoảng 34,2 triệu người dùng) nhưng nếu xét xếp hạng lượt tải về tại Việt Nam thì TikTok xếp số 1. Tuy nhiên, số người dùng thực tế tại Việt Nam hiện cao hơn rất nhiều bởi TikTok cho người dùng từ 13 tuổi được đăng ký mở tài khoản. Số người dùng trong khoảng 13 - 18 tuổi tại Việt Nam được nhiều chuyên gia trong ngành ước đoán rất nhiều.

          Tràn lan những video rác, trào lưu độc hại

          - Chẳng khó khăn gì để chúng ta tìm được những video có nội dung “người lớn” trên TikTok. Đó là những clip mà người chơi cố tình khoe những điểm nhạy cảm trên cơ thể, nhảy những điệu khêu gợi. Điều đặc biệt, người thực hiện còn là những bạn trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường.

          - Các video tạo trào lưu, trend dễ khiến người xem bắt chước, làm theo dẫn đến những hậu quả khác nhau cho chính bản thân người thực hiện về sức khoẻ, tính mạng lẫn thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể kể đến một số trend độc hại bị dư luận lên án trong thời gian qua, như: "quay video tại sân bay", "thử thách chọc ghẹo người khác", "thử thách bẻ xuơng", " hướng dẫn chế biến thực phẩm - kem dưỡng da với các công thức lạ tại nhà",...

          - Bên cạnh đó, tình trạng các video có nội dung tục tiễu, không phù hợp thuần phong mỹ tục văn hoá Việt Nam làm tiêm nhiễm nhận thức, tính cách của người xem gây ra những hệ luỵ về phong cách ứng xử, đạo đức lối sống.

          Từ những hệ lụy trên khi các video trên TikTok rất dễ tác động xấu giới trẻ khi ấy hậu quả thực sự là khôn lường. Theo báo cáo tại Việt Nam người dùng TikTok chủ yếu là học sinh, sinh viên từ 13 – 24 tuổi. Chính vì vậy thách thức về nội dung vừa hấp dẫn lại phù hợp với lứa tuổi luôn đè nặng lên nhà quản lý của TikTok. Trước đây, Mỹ và Ấn Độ đã có những cáo buộc, TikTok đã có những động thái đầu tiên như đưa ra những điều khoản riêng cho người dùng nhỏ tuổi như cơ chế liên kết tài khoản gia đình Family Pairing. Ngoài ra, những tài khoản có thông tin từ 13 - 15 tuổi cũng sẽ được mặc định ở chế độ riêng tư và tắt những tính năng đề xuất, livestream và nhận tin nhắn. Tuy nhiên, những điều khoản này chỉ hữu dụng khi người dùng khai báo thông tin trung thực, việc kiểm soát và đảm bảo đúng độ tuổi là không phải dễ dàng.

          Các bậc phụ huynh cần hết sức lưu ý quản lý, giáo dục trẻ trong quá trình tham gia các hoạt động trên không gian mạng để đảm bảo không bị tác động bởi các hệ lụy xấu. Việc TikTok mang đến nhiều lợi ích như tính giải trí cao, cập nhật tin tức xã hội, xu hướng nhanh là không thể phủ nhận. Tuy nhiên đối với giới trẻ thì cần phải xem xét lại, cần phải cho trẻ hiểu và phân biệt được đâu là nội dung phù hợp, đâu là những nội dung xấu. Cũng như đối với mỗi người dùng cần chung tay lên án, chủ động đấu tranh với các nội dung xấu, lệch lạc để xây dựng môi trường mạng lành mạnh./.

                                                                                                Đa22.st

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU LỢI DUNG CÔNG CUỘC CHỐNG THAM NHŨNG, XÂY DỰNG CHỈNH ĐỐN ĐẢNG ĐỂ CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC "KHÔNG THÂN THIỆN"

 Nhận diện các luận điệu chống phá

Tại cùng một thời điểm, liên quan đến cùng một vụ án, 2 Ủy viên Trung ương Đảng là ông Chu Ngọc Anh, Phó bí thư Thành ủy, Bí thư Ban cán sự Đảng, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội, nguyên Bí thư Ban cán sự Đảng, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và ông Nguyễn Thanh Long, Bí thư Ban cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Y tế đã bị khai trừ ra khỏi Đảng. Ngay sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cũng đã khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với 2 ông này để điều tra, làm rõ hành vi phạm tội. Như vậy, chỉ trong 2 ngày, các bước xử lý về Đảng, xử lý về chính quyền và xử lý về hình sự đã được thực hiện. Điều này khẳng định rõ sự đồng bộ, quyết liệt, không khoan nhượng trong công tác đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực. Việc xử lý với ông Chu Ngọc Anh và ông Nguyễn Thanh Long nhận được sự đồng tình ủng hộ từ quần chúng, góp phần nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tuy nhiên, vụ việc này cũng nhanh chóng được các “nhà bình luận” lợi dụng để xuyên tạc, xỏ xiên, đánh lận bản chất nhằm tấn công Đảng, Nhà nước.

 Trong một bài viết có tiêu đề “Phản hồi của dân chúng về vụ bắt giữ ba lãnh đạo cấp cao liên quan đến Việt Á” được đăng tải hôm 8-6, Đài Á châu tự do – RFA đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận quyết tâm chống tham nhũng của Việt Nam như: “Việc bắt giữ chỉ là sự đấu đá trong hàng ngũ cấp cao của Đảng cộng sản”, “đến giờ mới xử lý là đã quá trễ, quá coi thường công lý”, “việc xử lý không thể làm thay đổi được bản chất hư hỏng của hệ thống cai trị đất nước vì đây chỉ là việc ném đá ao bèo”?! 

Cùng ngày 8-6, BBC News tiếng Việt cũng rêu rao bài viết “Chiến dịch “đốt lò” của TBT Nguyễn Phú Trọng: Điều gì thực sự phía sau”. Trong đó, những luận điệu độc hại, sai trái, thể hiện tính vu khống trắng trợn theo đúng “kịch bản dân chủ” đã được đưa ra. Những kẻ này quy chụp tham nhũng là bản chất của chế độ một đảng lãnh đạo. Từ đó, chúng đánh lừa dư luận bằng cách đưa ra quan điểm cho rằng Việt Nam chỉ có thể chống tham nhũng khi thay đổi theo hướng chấp nhận “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự tự trị”, “báo chí độc lập”…?!

Những thông tin được các đối tượng nêu ra là vô căn cứ, phi lý, đi ngược sự thật. Mục đích mà những kẻ này hướng đến là làm loạn dư luận, kích động sự mâu thuẫn trong xã hội, phủ nhận những kết quả mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đích đến cuối cùng của chúng là tấn công chế độ, thay đổi thể chế chính trị của đất nước.

“Đấu đá nội bộ”?

Tham nhũng là “giặc nội xâm” tồn tại và phát triển ngay trong nội bộ. Người tham nhũng giữ chức vụ càng cao thì càng khó xử lý. Nếu nội bộ Đảng không thực sự đoàn kết, nhất trí thì chắc chắn sẽ không thể đưa những kẻ này ra xử lý. Vì vậy, việc Đảng xử lý 2 Ủy viên Trung ương Đảng là minh chứng trực tiếp nhất khẳng định nội bộ Đảng ta hoàn toàn đoàn kết, không hề có sự “tranh giành quyền lực”, “đấu đá nội bộ” như những gì các “nhà dân chủ” cố tình tô vẽ.

Việc xử lý kỷ luật đảng, kỷ luật chính quyền và xử lý hình sự đều được thực hiện trên nguyên tắc sai đến đâu xử lý đến đó, xử lý đúng người, đúng lỗi vi phạm, không có bao che, khoan nhượng, thỏa hiệp với sai phạm.

Phải khẳng định rõ, việc xử lý ông Chu Ngọc Anh và ông Nguyễn Thanh Long là đúng người, đúng tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an cũng chỉ rõ, ông Chu Ngọc Anh có hành vi vi phạm quy định pháp luật trong việc giao, quản lý, sử dụng đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia nghiên cứu, chế tạo kit xét nghiệm Covid-19, gây thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước, phạm vào tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”, quy định tại khoản 3 Điều 219 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Long có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái các quy định pháp luật trong việc cấp số đăng ký lưu hành, hiệp thương giá và kiểm tra giá hiệp thương kit xét nghiệm Covid-19, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước, đã phạm vào tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, quy định tại khoản 3 Điều 356 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Chẳng có sự “đấu đá nội bộ” nào ở đây, tất cả chỉ là những “thuyết âm mưu” được các đối tượng xấu vẽ ra để đánh lừa dư luận.

Tham nhũng không phải là bản chất của chế độ một đảng cầm quyền

Tham nhũng không phải là sản phẩm riêng của chế độ một đảng cầm quyền và càng không phải là sản phẩm riêng của Việt Nam. Tham nhũng là vấn nạn chung của cả thế giới. Ngay trong phần mở đầu của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2003 đã ghi nhận rõ: “Không còn là một vấn đề, tham nhũng là hiện tượng hiện đang vượt qua các biên giới quốc gia và ảnh hưởng đến mọi xã hội và nền kinh tế, nên hợp tác quốc tế nhằm ngăn ngừa và kiểm soát tham nhũng là yêu cầu cấp thiết”.

Bản chất của tham nhũng là sự tha hóa quyền lực. Vì vậy, tham nhũng có thể xuất hiện trong bất kỳ xã hội nào nếu quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ. Nên nhớ, năm 2017, Hàn Quốc (một quốc gia đa đảng) đã kết án cựu Tổng thống Park Geun-hye 22 năm tù vì tội tham nhũng, nhận hối lộ và lạm dụng quyền lực. Hồi tháng 7-2020, cựu Thủ tướng Malaysia Najib Razak cũng bị kết tội do tham nhũng liên quan đến quỹ nhà nước Malaysia 1MDB. 

Rõ ràng, “tam quyền phân lập”, “xã hội dân sự”, “đa nguyên đa đảng” không phải là công thức chuẩn mực, điều kiện bắt buộc để một xã hội không có tham nhũng, tiêu cực như những gì đang được các đối tượng rêu rao. Việc phòng, chống tham nhũng thành công hay không phụ thuộc vào quyết tâm chính trị và các giải pháp, chính sách, pháp luật được lãnh đạo quốc gia thực hiện. Hiện nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đang đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để “nhốt quyền lực vào lồng cơ chế” thì Việt Nam cũng kiên quyết xử lý đối với những cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Việc xử lý thể hiện tính nghiêm minh, công bằng và đồng thời cũng có tác dụng răn đe với toàn xã hội. 

Một thực tế không thể chối cãi là công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả không thể phủ nhận. Việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, nhất là cán bộ cấp cao đã góp phần nâng cao uy tín của Đảng, Nhà nước và củng cố niềm tin trong nhân dân.

LẠC PHONG

NHẬN DIỆN CÁCH MẠNG MÀU

     Cách mạng màu với nhiều tên gọi khác nhau như: cách mạng nhung, đường phố, cam, hoa hồng, hoa tulip, hạt dẻ… diễn ra ở một số nước Đông Âu và Trung Đông, Bắc Phi trong thời gian qua và những diễn biến chính trị tại Thái Lan, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Vênêxuêla đã cho thấy bản chất nguy hiểm từ sự can dự của các thế lực vào tình hình nội bộ các nước có chủ quyền, gây ra bất ổn chính trị kéo dài, ly khai dân tộc nhằm tìm mọi cách thay thế chính quyền hiện tại, xây dựng chính quyền thân Mỹ và phương Tây. Câu hỏi đặt ra là: Việt Nam chúng ta có phải đối diện với nguy cơ xảy ra “cách mạng màu” hay không? Đâu là giải pháp để ngăn ngừa âm mưu, thủ đoạn thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam?

Bản chất của âm mưu, thủ đoạn “cách mạng màu”

Cách mạng màu (tiếng Anh là colour revolution) là thuật ngữ chỉ các cuộc bạo lực chính trị có tổ chức, chính biến phi vũ trang ở quốc gia có chủ quyền nhằm lật đổ nhà nước đương nhiệm, gây ra khủng hoảng chính trị, đồng thời lập ra bộ máy cầm quyền mới của lực lượng đối lập được Mỹ và phương Tây hậu thuẫn. Đó là chiến lược toàn cầu của Mỹ sử dụng những phương thức, thủ đoạn điển hình là sự phản đối quy mô lớn bằng biện pháp phi bạo lực nhằm mục đích thay đổi chế độ đang tồn tại để thiết lập một chính phủ thân Mỹ và phương Tây kể từ thời kỳ hậu chiến tranh lạnh đến nay.

Các đối tượng của cách mạng màu là đảng phái, lực lượng chính trị đối lập trong nước hình thành từ các trào lưu “dân chủ hóa xã hội” hoặc nảy sinh, phát triển từ sự mâu thuẫn, phân hóa, phân lập của nội bộ đảng, chính phủ cầm quyền. Lãnh tụ phe đối lập thường là những người bất mãn, cơ hội chính trị, bất đồng với đảng, chính phủ cầm quyền được các thế lực nước ngoài hậu thuẫn, thậm chí nuôi dưỡng để thực hiện chính biến khi có thời cơ thuận lợi. Các thế lực bên ngoài là kẻ khởi xướng, định hướng, kích động, thúc đẩy, vạch kế hoạch, huấn luyện, tài trợ vật chất, ủng hộ tinh thần và phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong nước tổ chức và tiến hành hoạt động cách mạng màu. Thế lực bên ngoài đóng vai trò “đạo diễn”, lực lượng trong nước giữ vai trò” thực thi”. Đây là một hiện tượng chính trị diễn ra thông qua nghị trường, đấu tranh chính trị (mít tinh, biểu tình, tuần hành), dựa trên cơ sở những tiền đề trong một quốc gia, dân tộc có quan điểm, chủ trương trái với lợi ích của Mỹ và phương Tây; được hậu thuẫn bởi lực lượng bên ngoài nước can thiệp một cách thô bạo, trắng trợn vào công việc nội bộ của nước đó nhằm lật đổ chính quyền hay sự cầm quyền của các đảng phái chính trị để thay thế bằng đảng phái đối lập phù hợp với lợi ích Mỹ và phương Tây.

“Cách mạng màu” với nhiều tên gọi khác là cách mạng nhung, đường phố, cam, hoa hồng, hoa tulip, hạt dẻ,… xuất hiện lần đầu tiên với cách mạng Vàng ở Philíppin từ năm 1983, cách mạng Nhung ở Tiệp Khắc năm 1989, cách mạng Đường phố ở Nam Tư năm 2000, cách mạng Nhung ở Grudia năm 2003, cách mạng Cam ở Ucraina năm 2004 và 2014, cách mạng hoa Tulip ở Cưrơgưxtan năm 2005, cách mạng cây Tuyết tùng ở Libăng năm 2005, cách mạng Xanh ở Iran năm 2009, cách mạng hoa Nhài ở Tuynidi từ năm 2010, cách mạng hoa Sen ở Ai Cập từ năm 2011, cách mạng màu ở khu vực Trung Đông - Bắc Phi (còn gọi là Mùa xuân Arập, gồm: Libi, Xyri, Angiêri, Yêmen, Marốc, Gioócđani, Arậpxêút, Ôman, Irắc), cách mạng Ô dù ở Hồng Kông năm 2014,… và những diễn biến chính trị tại Thái Lan, Campuchia, Mianma, Inđônêxia, Vênêxuêla cho thấy bản chất nguy hiểm từ sự can dự của các thế lực phương Tây vào tình hình nội bộ các nước có chủ quyền, gây ra bất ổn chính trị kéo dài, ly khai dân tộc nhằm tìm mọi cách thay thế chính quyền hiện tại.

Bản chất cách mạng màu là phản cách mạng, là phương thức, thủ đoạn theo chủ nghĩa sôvanh nước lớn sử dụng để loại bỏ chính quyền các nước không đi theo quỹ đạo của mình bằng nhóm cầm quyền khác, mà chưa làm thay đổi bản chất bên trong của các nước. Lợi dụng những mâu thuẫn, khó khăn của chính quyền đương nhiệm để tạo ra nguy cơ chính trị, thông qua việc bầu cử tự do và “cách mạng đường phố” để lật đổ chính quyền hợp pháp, dựng lên chính quyền thân Mỹ và phương Tây.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa và nước có xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thì chúng tìm mọi cách lật đổ và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lập đảng chính trị cầm quyền mới đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Trong truyền thông phương Tây, cách mạng màu được miêu tả rất hấp dẫn, giàu hứa hẹn như là những cuộc cách mạng dân chủ và nhân quyền phổ biến, trong đó, người dân có quyền đòi hỏi trách nhiệm dân chủ và yêu sách đối việc quản trị của chính quyền sở tại. Thực tế, cách mạng mang tính mị dân, người dân không có quyền lợi gì, thậm chí sau cách mạng là khủng hoảng chính trị, bất ổn xã hội kéo dài, mâu thuẫn giai tầng và dân tộc sâu sắc, kinh tế chậm phát triển, đói nghèo và thương vong gia tăng, đẩy các nước lâm vào hỗn loạn.

“Cách mạng màu” là một bộ phận hợp thành của chiến lược “diễn biến hòa bình” với mục tiêu phá hoại nền độc lập của các quốc gia, dân tộc nhằm củng cố vị trí siêu cường quốc số một thế giới của mình, chi phối, dẫn dắt và truyền bá văn hóa, lối sống, dân chủ và nhân quyền của Mỹ và phương Tây trên thế giới; khống chế hoặc tạo ảnh hưởng mạnh mẽ để thiết lập chính quyền chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Mỹ. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, mục tiêu là lật độ vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, lập ra đảng phái chính trị đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa do Mỹ và phương Tây định đoạt. Hiện nay, đối tượng của cách mạng màu hết sức đa dạng, có thể diễn ra ở nước có chế độ chính trị khác nhau, trong đó có Việt Nam.

Các hoạt động nhằm thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam

Sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ ngày 25/12/1991, đặc biệt từ khi Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch gia tăng với những phương thức, thủ đoạn ngày càng thâm độc, quy mô lớn, tác động tiêu cực đến đời sống an ninh xã hội. Mục tiêu của chúng là xây dựng lực lượng, nhân tố và điều kiện và tạo ra thời cơ để tiến hành cách mạng màu gây bạo loạn, xúi giục nhân dân biểu tình, kích động chống đối chính quyền, tìm mọi cách lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sự lãnh đạo của Đảng.

Hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng nhằm tạo tiền đề về tư tưởng, chính trị, xã hội cho cuộc cách mạng màu ở Việt Nam. Đó là những hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò cầm quyền của Đảng. Những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, những kẻ thâm thù cộng sản, đối lập và phản bội cách mạng, những người a dua, kiêu ngạo, thậm chí có cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sử dụng những thủ đoạn và cách thức đa dạng, phong phú, mà chủ yếu là các bài viết theo lối “bổn cũ soạn lại”, các video, clip cắt ghép, các bloger trên một số báo chí nước ngoài, các trang mạng xã hội có tư tưởng chống phá Việt Nam như: Chantroimoi media, BBC NEWS, VOA tiếng Việt, Dân Báo, RFA,... ra sức đưa ra những luận điệu sai trái, thù địch, bóp méo và phủ nhận hoàn toàn nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng thời, tuyên truyền kêu gọi cải cách chính trị để tiến tới một nền dân chủ đa nguyên, đa đảng, thiết lập quyền tự do phát ngôn, ra báo tư nhân, lập đảng, lập hội, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang... Các hoạt động tuyên truyền kích động các hoạt động biểu tình, phá rối an ninh, trật tự xã hội, gây bạo loạn thông qua các sự kiện chính trị lớn của Đảng, Nhà nước, các vấn đề xã hội phức tạp, nhạy cảm như: tranh chấp, khiếu kiện, đình công, vấn đề tôn giáo, dân tộc, tranh chấp biển đảo.

Hoạt động tác động, chuyển hóa nội bộ, hình thành nhân tố chống đối từ bên trong, thúc đẩy “tự diễn biến” nội bộ. Chúng lợi dụng quá trình hợp tác toàn diện với Việt Nam, chúng tăng cường tiếp cận vào những vấn đề chính trị - xã hội nội bộ, thông qua các dự án, chương trình nhằm hiện thực hóa mục tiêu dân chủ hóa chính trị. Chúng sử dụng các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế đầu tư ở Việt Nam, tìm mọi cách tác động làm thay đổi chính sách, pháp luật, cải cách hành chính theo quỹ đạo dân chủ tư sản; tác động vào các cơ quan báo chí truyền thông và đội ngũ phóng viên định hướng theo cách làm báo phương Tây, thúc đẩy phát triển xã hội dân sự; thâm nhập vào lĩnh vực giáo dục, đào tạo nhằm hình thành “giá trị Mỹ”, tự do phương Tây để chuyển hóa tư tưởng giới trẻ, tạo đà xây dựng lực lượng chính trị và tổ chức đối lập ở Việt Nam. Chúng tác động phân hóa, xâm nhập, cài cắm cơ sở nội gián, in sao và phát tán rộng rãi tài liệu với nội dung sai lệch gây mất niềm tin chế độ, thay đổi lập trường, hình thành lực lượng chống đối từ nội bộ trong hệ thống chính trị.

Hoạt động thúc đẩy hình thành “xã hội dân sự” hướng đến một xã hội đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tạo tiền đề cho sự ra đời các tổ chức chính trị đối lập ở Việt Nam. Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng và các hoạt động trao đổi, chuyển giao, hỗ trợ, hợp tác góp phần đẩy mạnh xã hội dân sự theo tiêu chí phương Tây, tạo dựng hành lang pháp lý cho việc hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam. Thông qua quan hệ hợp tác, tài trợ cho các tổ chức đoàn thể quần chúng, các thế lực thù địch đẩy mạnh hình thành các tổ chức đối lập (như: công đoàn độc lập), tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam, đồng thời liên kết tạo thành mạng lưới các hiệp hội nhằm tăng cường vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức phi chính phủ trong nước phối hợp tổ chức quốc tế để tiến hành cách mạng màu ở Việt Nam khi có thời cơ.

Biện pháp ngăn ngừa nguy cơ “cách mạng màu” ở Việt Nam

Xác định được những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, Đảng và Nhà nước ban hành các chỉ thị, nghị quyết, văn bản pháp lý nhằm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý đối với công tác phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn nguy cơ cách mạng màu ở Việt Nam. Đặc biệt là chủ trương, chính sách về công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, phòng và chống “diễn biến hòa bình”; công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản; hoàn thiện hệ thống pháp lý trong đấu tranh với hoạt động thù địch, tăng cường quản lý nhà nước đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và tổ chức phi chính phủ Việt Nam. Đẩy mạnh các biện pháp ngăn ngừa hoạt động thù địch bên ngoài tạo dựng tổ chức chính trị đối lập gây nguy cơ cách mạng màu ở Việt Nam. Nâng cao chất lượng các tổ chức, cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ vô hiệu hóa những kế hoạch, phương thức tổ chức huấn luyện, đào tạo lực lượng hậu thuẫn, tài trợ vật chất, móc nối các đối tượng trong nước, tạo ảnh hưởng chính trị của các đối tượng thù địch đối với quần chúng nhân dân và với dư luận xã hội. Phối hợp chặt chẽ các cấp chính quyền, lực lượng vũ trang cơ sở, mạng lưới nhân dân triển khai các biện pháp nghiệp vụ, giám sát chặt chẽ các đối tượng cầm đầu, bao vây, phong tỏa, tước bỏ điều kiện hoạt động của đối tượng thù địch.

Đồng thời, ngăn chặn, bóc gỡ, triệt phá mọi hoạt động hình thành tổ chức đối lập ở trong nước dưới danh nghĩa hợp tác, chương trình, dự án, tài trợ,… nhằm thúc đẩy cho ra đời ồ ạt các tổ chức xã hội dân sự, đảng phái chính trị phản động, tranh giành ảnh hưởng, thu hút quần chúng, gây mất niềm tin của nhân dân với chính quyền, tạo ra mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo và đòi độc lập. Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ đấu tranh ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề chính trị, xã hội phức tạp để kích động thành những làn sóng chống đối cục bộ, biểu tình, bạo loạn, gây áp lực với Đảng và Nhà nước. Tùy từng đối tượng, vụ việc để có các biện pháp kịp thời, hợp lý để tổ chức phòng ngừa, răn đe, đấu tranh, trấn áp và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp luật, không để bị động, bất ngờ. Nâng cao nhận thức, cảnh giác cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về thủ đoạn, âm mưu cách mạng màu, nắm bắt tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, kịp thời định hướng, uốn nắn tư tưởng đúng đắn, phê phán những biểu hiện mơ hồ, lệch lạc, a dua, bị lôi kéo, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tiếp tục quản lý có hiệu quả Luật An ninh mạng, kiểm soát mạng xã hội và định hướng các kênh thông tin đại chúng.

Thực tiễn các cuộc cách mạng màu đã diễn ra trên thế giới và cuộc đấu tranh phòng ngừa nguy cơ ở Việt Nam, vấn đề đặt ra là tiếp tục xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị vững mạnh từ Trung ương đến địa phương; giữ gìn nền quốc phòng toàn dân, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; nâng cao tinh thần đoàn kết toàn dân; các lực lượng vũ trang luôn chủ động trước những nguy cơ và thách thức; tăng cường vai trò quản lý báo chí, truyền thông, đặc biệt là mạng xã hội trong việc phát tán thông tin, định hướng dư luận…

Có thể khẳng định một điều, không có liều thuốc nào hữu hiệu bằng việc tự đề kháng và ngăn ngừa dịch bệnh từ xa. Loại bỏ tham nhũng tiêu cực, xử lý các cá nhân cán bộ biến chất, suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa là điều chúng ta bắt buộc phải làm. Làm tốt việc này, không những đất nước phát triển giàu mạnh mà niềm tin của nhân dân dành cho Đảng, chính quyền sẽ tăng lên. Khi nhân dân có niềm tin, họ sẽ không dễ bị lôi kéo, kích động. Bài học ở nhiều quốc gia trên thế giới cho chúng ta thấy rõ ràng rằng phải cảnh giác với chúng và cũng cần phải chấn chỉnh lại chính mình./.

                                                                                                                                             LẠC PHONG

BÁO ĐỘNG CA SĨ TRẺ PHÁT ÂM SAI TIẾNG VIỆT!

         Báo Tiền Phong số ra ngày 19/7 đăng bài Những ca sĩ "làm gỏi" tiếng Việt, nêu hiện tượng một số ca sĩ trẻ hát không rõ lời, lời phát âm sai tiếng Việt. Thực tế, cách hát tự nhiên, nhẹ như hơi thở ngày càng phổ biến trong thế hệ ca sĩ trẻ, nhất là thế hệ GenZ.
     Tuy nhiên khi bị lạm dụng, cách hát này dẫn đến hệ lụy ca sĩ hát không rõ lời, thậm chí phát âm sai chuẩn ngữ âm tiếng Việt.

NSND Thanh Hoa: Rèn ngữ âm tiếng Việt từ bậc học phổ thông.
     "Hát tiếng Việt như người nước ngoài hay như trẻ con mới tập nói là hiện tượng vài năm trở lại đây và chúng ta cũng không chấn chỉnh nên một số bạn trẻ cứ nghĩ thế mới là văn minh, mới lạ. Tiếng nào phải ra tiếng đấy. Tiếng Việt có đặc trưng đơn âm, bằng trắc rõ ràng. Mình không biết trân trọng vẻ độc đáo mà cứ làm mất sự trong sáng, cái đẹp của tiếng nước mình đi. Đánh mất nó thì cũng mất luôn nguồn cội.
     Theo tôi các trường chuyên nghiệp phải nghiêm khắc trong rèn cách nhả chữ khi thể hiện bài hát Việt Nam. Không ít bạn qua trường lớp chính quy rồi vẫn vô tình hay cố ý hát không rõ lời. Tiếng Việt để hát chuẩn đã không dễ, lại còn bắt chước tiếng Anh một tí, lai tiếng Hàn một tí rồi lầm tưởng đó là văn minh, mới mẻ. Nó chỉ thể hiện trình độ thẩm âm, thẩm mỹ và suy nghĩ của các bạn mà thôi.
     Làm nhòe phát âm tiếng Việt cả trong cách nói, cách hát là một thực tế đáng báo động. Phải chăng càng ngày chúng ta càng quan trọng dạy tiếng Anh ở bậc phổ thông mà quên mất rèn giũa tiếng Việt cho thế hệ tiếp nối. Giáo dục về ngữ âm ngay từ bậc phổ thông rất quan trọng. Cho nên đòi hỏi các thầy cô phải phát âm chuẩn, không nói ngọng, phải là tấm gương về ngôn ngữ để học trò noi theo.
     Việc này cũng không thể đổ lỗi toàn bộ cho giới trẻ. Phải hiểu rõ giá trị của tiếng Việt, phải trân trọng, phải yêu nó thì mới phát âm chuẩn và hay được"./.
Yêu nước ST.

SỰ THẬT VỀ BẢN CHẤT CỦA VIỆT NAM CỘNG HOÀ!

ĐỆ NHẤT CỘNG HOÀ 1955-1963

Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Genève, QUỐC GIA VIỆT NAM"*" cùng Pháp tập kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam.


Theo kế hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau 2 năm và Việt Nam sẽ tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành.


Không thể chấp nhận việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập chính phủ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra nhằm chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2 quốc gia.


Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không.


Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch “bình định Việt Minh và các vùng chống đối”.


Edward Lansdale, Chỉ huy cố vấn Mỹ ở Việt Nam.

Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho Quốc gia Việt Nam. Thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F. Kennedy tuyên bố vào ngày 1/6/1956:


“Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ (chỉ Việt Nam Cộng hòa) thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con đẻ của chúng ta – chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”.


Trong những năm 1954–1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu USD giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ.


Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chở vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.


Đến lúc này lại xảy ra mâu thuẫn giữa Ngô Đình Diệm lúc này đang là Thủ tướng với Bảo Đại (nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn) lúc này đang là Quốc trưởng.


Năm 1955, nhờ gian lận trong một cuộc trưng cầu dân ý (thường gọi là “trò hề trưng cầu dân ý”), Ngô Đình Diệm đã phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.


Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội lập hiến và ban hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, ngày ban hành Hiến pháp 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa.


Việt Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam.


Chính quyền Ngô Đình Diệm bị giới đối lập xem là chính phủ độc tài gia đình trị, dần dần tích lũy nhiều mâu thuẫn nội bộ.


Từ năm 1955 và đặc biệt là từ 1959, cùng với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ (do lo ngại ảnh hưởng của phong trào Việt Minh), chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách đàn áp những người cộng sản, tố cộng, diệt cộng trên toàn bộ Nam Việt Nam, dựa theo Luật 10-59. Phong trào Đồng khởi năm 1960 (do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo) và cuộc đảo chính hụt năm 1960 là những đòn giáng mạnh vào chế độ Ngô Đình Diệm.


Mâu thuẫn tôn giáo cũng trở nên gay gắt. Sự kiện Phật Đản năm 1963, việc cấm treo cờ Phật giáo ở Huế đã gây ra phản ứng mạnh mẽ từ các Phật tử, dẫn đến các hoạt động đàn áp Phật giáo của chính quyền.


Việc Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu giữa đường phố Sài Gòn cùng những phát biểu của bà Trần Lệ Xuân là vợ Ngô Đình Nhu làm chế độ Ngô Đình Diệm bị báo chí phương Tây đả kích kịch liệt và mất hết mọi sự ủng hộ từ phương Tây.


Ngày 1 tháng 11 năm 1963, nền Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ bởi một nhóm quân nhân dưới sự chỉ huy của một số tướng lĩnh (cả ba anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn đều bị giết), về sau, ngày này được xem là ngày Quốc khánh của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam.


Theo như hồi ký của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, chính CIA đã hỗ trợ cho việc lật đổ. Khi được thông báo anh em Ngô Đình Diệm đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: “C’est formidable! C’est formidable!” (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu).


Kể từ đây, sự phụ thuộc của Việt Nam Cộng hòa vào viện trợ của Hoa Kỳ ngày càng lớn, cả về tài chính cũng như về quân sự. Sự can thiệp của Tòa đại sứ Mỹ vào công việc nội bộ về chính trị và quân sự của Việt Nam Cộng hòa ngày càng lên cao.


THỜI KỲ QUÂN QUẢN 1963-1967

Trong thời gian 18 tháng sau cuộc đảo chính 1963, miền Nam phải chứng kiến hơn 10 cuộc khủng hoảng chính trị: cuộc đảo chính năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh, thành lập Tam đầu chế; phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu; chính phủ dân sự Trần Văn Hương lên rồi đổ; chính phủ dân sự Phan Huy Quát lên rồi đổ; đảo chính hụt ngày 13 tháng 9, 1964 của tướng Dương Văn Đức và Lâm Văn Phát; đảo chính hụt ngày 20 tháng 2, 1965 của đại tá Phạm Ngọc Thảo.


Phe quân đội lần lượt hạ bệ lẫn nhau cùng những chính phủ dân sự liên tiếp được dựng lên rồi lại phải rút lui. Cùng khi đó về mặt xã hội, các khối Phật giáo và Công giáo cũng nhiều lần xuống đường biểu tình gây áp lực.


Ngày 8/3/1965, Mỹ chính thức đổ quân lên Đà Nẵng mà không hề lấy ý kiến chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Khi biết tin thì quân Mỹ đã đổ bộ rồi, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa phải hợp thức hóa việc này bằng cách gọi Tổng trưởng Phủ Thủ tướng là Bùi Diễm làm thông cáo chào mừng quân Mỹ: “Viết càng ngắn càng tốt. Chỉ mô tả sự kiện rồi khẳng định rằng chúng ta đã đồng ý mà thôi”. Trong những tháng sau đó, Mỹ đổ bộ hàng chục vạn quân, lính Mỹ hiện diện ở khắp miền Nam.


ĐỆ NHỊ CỘNG HOÀ

1967-1975

Để chấm dứt tình trạng rối ren về chính trị, tháng 6 năm 1966, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ điều hành tuyên bố mở cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến vào ngày 3 tháng 9 có 118 đại biểu đắc cử gồm nhiều thành phần và đến 1 tháng 4 năm 1967 thì ra tuyên cáo bản Hiến pháp Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam. Hiến pháp này là cơ sở pháp lý của Việt Nam Cộng hòa cho đến 30 tháng 4 năm 1975.


Tháng 6 năm 1969, trong vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã diễn ra Đại hội đại biểu quốc dân và thành lập ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, do ông Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch và Hội đồng Cố vấn do ông Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.


Năm 1971 là cuộc Tổng tuyển cử thứ nhì của nền Đệ Nhị Cộng hòa. Kỳ này Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai một cách dễ dàng vì không có đối thủ nào khác ra tranh cử.


Khi sự việc này xảy ra, nhiều người cho là do điều luật mới thông qua ngày 3 tháng 6 năm 1971 nhằm hạn chế khả năng tham gia của ứng cử viên đối lập. Theo đó thì ứng cử viên phải có 40 chữ ký ủng hộ của Dân biểu hay Nghị sĩ Quốc hội và 100 chữ ký của các thành viên trong Hội đồng tỉnh. Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ vì không thỏa mãn được quy định trên đã phải rút tên, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất trong cuộc bầu cử.


Vào năm 1973, sau Hiệp định Paris (được thảo luận giữa bốn bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hoa Kỳ, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa), quân đội Hoa Kỳ đã rút khỏi Việt Nam.


Việt Nam Cộng hòa cố gắng trì hoãn việc ký kết hiệp định, nhưng phía Mỹ đã có quyết định dứt khoát về việc này và gây áp lực cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Cuối cùng, Việt Nam Cộng hòa phải chấp nhận ký kết hiệp định.


VÀ SUY VONG

Bị mất viện trợ về tài lực và quân sự từ phía Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa không thể tự đứng vững được.


Theo nhà sử học Vũ Ngự Chiêu thì Việt Nam Cộng hòa giống như “một lâu đài xây trên cát, trông bề thế bên ngoài nhưng chỉ cần một con sóng nhỏ là tan vỡ”, mầm mống của sụp đổ gồm những lý do sau:


+ Không có lãnh đạo đủ khả năng: Người được Mỹ đưa lên cầm quyền năm 1967 (Nguyễn Văn Thiệu) chỉ là một bù nhìn, giống như khởi đầu binh nghiệp làm thông ngôn Pháp của ông ta. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tự đưa ra được quyết sách gì, chính sách từ lớn xuống bé đều do Tòa Đại sứ Mỹ, các tướng lĩnh MACV (Trung tâm Chỉ huy Tác chiến Hoa Kỳ tại Việt Nam), sau này là USAID (Cơ quan Quản lý Viện trợ Hoa Kỳ) soạn thảo, đôn đốc thực hiện. Đại sứ Ellsworth Bunker và rồi Graham Martin có quyền lực không khác gì những “Toàn quyền Đông Dương” của Pháp trước kia – dù Việt Nam Cộng hòa không ngừng tự xưng là “Đồng minh” của Mỹ.


+ Không có sự ủng hộ của người dân: Mặc dù cơ quan tuyên truyền của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa luôn kêu gọi tinh thần chống Cộng với dân chúng miền Nam, nhưng thực ra họ chỉ có thể kiểm soát được khoảng 20 – 30% dân số miền Nam. Phần còn lại sống trong những vùng quân Giải phóng miền Nam kiểm soát một phần hoặc toàn bộ. Ngay trong số 20 – 30% dân chúng trong vùng do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát, nhiều người cũng không ủng hộ chế độ này và chia làm nhiều phe phái chống lại nhau vì những lý do như tôn giáo (Thiên Chúa giáo – Phật giáo), sắc tộc (người Việt – người Hoa), vùng miền (người thành thị – người nhập cư)…


+ Nền kinh tế phụ thuộc vào viện trợ Mỹ, khi Mỹ giảm viện trợ thì lập tức lâm vào khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1973 – 1974 khiến đời sống người dân rất khó khăn, lương bổng cho binh sĩ bị cắt giảm, làm suy sụp ý chí chiến đấu của đa số binh sĩ.


+ Quân đội Việt Nam Cộng hòa thiếu chỉ huy có kinh nghiệm: qua màng lọc của hệ thống phe đảng và tham nhũng, những cấp chỉ huy có tiềm năng nhất nhưng không có thế lực chính trị đỡ đầu thì thường chết trận hay bị loại ngũ. Khi tác chiến thì quen dựa vào hỏa lực mạnh của Quân đội Hoa Kỳ, nên khi không còn hỏa lực Mỹ nữa thì bị lâm vào lúng túng. Bản thân Nguyễn Văn Thiệu lên chức đều là do đảo chính chứ không phải vì thành tích mặt trận. Có được ghế Tổng thống rồi, ông Thiệu lại tập trung hết quyền bính trong tay, biến Bộ Tổng Tham mưu thành một cơ cấu thư ký, không được tự ra quyết sách (vì ông Thiệu sợ rằng đến lượt chính mình sẽ bị người khác đảo chính lật đổ). Hiệp định Paris 1973 khiến binh sĩ hoang mang rằng “Mỹ đã bỏ rơi chăng? Nếu Mỹ còn không đánh lại thì sao mà tự đánh được?”, thế là tinh thần chiến đấu càng sụt giảm. Có đơn vị tự ý bỏ chạy khi vừa bị một viên pháo nã vu vơ vào đồn, đơn vị khác thì vừa nghe tiếng máy cày trong đêm đã thấy hoảng sợ, vội báo cáo xe tăng địch xuất hiện.


Việt Nam Cộng hòa duy trì chủ yếu nhờ vào khoản viện trợ kinh tế và quân sự rất lớn của Mỹ, nhưng do nạn tham nhũng nên viện trợ bị sử dụng rất phung phí và kém hiệu quả.


Quy mô tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa là rất lớn: cả nửa triệu tấn gạo biến mất khỏi các kho lương thực trong năm 1967, súng cũng được tuồn ra bán với giá 25 – 30 đôla một khẩu, ngay cả xe bọc thép hoặc máy bay lên thẳng cũng có thể tuồn ra được.


Hồi ký Nguyễn Cao Kỳ nêu trường hợp tướng Tư lệnh đồng bằng sông Cửu Long đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ viện trợ và sớm bán hết sạch ra chợ đen, tài liệu mật từ Tòa Đại sứ Mỹ cho biết phần lớn số đó đã lọt vào tay quân Giải phóng.


Nhà báo người Mỹ William J. Lederer, trong chuyến điều tra năm 1968, nhận xét: kẻ thù tồi tệ nhất của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chính là nạn tham nhũng của Việt Nam Cộng hòa. Hàng tỷ USD viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ đã bị các quan chức Việt Nam Cộng hòa tham ô rồi bán ra chợ đen.


Ông đã chứng kiến những kho hàng lậu đầy ắp hàng hóa và vũ khí quân dụng, có tới cả 1.000 khẩu súng trường, bao gồm cả loại M16 hiện đại. William J. Lederer nhận xét: “Tôi đã thấy trước Hoa Kỳ sẽ bị đánh bại như thế nào – không phải chỉ bằng sức mạnh của đối phương, mà bởi chính những sai lầm của mình, sự bất lực của chính mình”.


Năm 1975, sau khi Ban Mê Thuột bị thất thủ, trước sự tấn công mãnh liệt của Quân Giải phóng, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng tan rã. Nhiều tướng lãnh cao cấp Việt Nam Cộng hòa đã tự ý rời bỏ hàng ngũ.


Tổng thống Dương Văn Minh, người được đề cử chức vụ này vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, đã ra lệnh đầu hàng vô điều kiện trước Quân Giải phóng và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.


- Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra tuyên bố kế thừa:


“Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất của nhân dân miền Nam Việt Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền Nam Việt Nam”.


Thông qua tuyên bố này và việc tiếp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã khẳng định Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chính thức thực hiện chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Trên thực tế, sau năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã kế thừa lãnh thổ, các cơ quan đại diện ở nước ngoài, tư cách thành viên tại các tổ chức quốc tế (WHO, ILO, UNESCO, ICAO, IAEA, IMF, Ngân hàng Thế giới…). Tất cả những kế thừa này của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đều được thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế và Công ước về kế thừa quốc gia đối với Điều ước quốc tế năm 1978.


----------------------------------------

"*" QUỐC GIA VIỆT NAM được thành lập theo một thỏa thuận năm 1949 giữa Bảo Đại (cựu hoàng nhà Nguyễn) và Tổng thống Pháp, theo đó Pháp muốn thành lập một chính phủ bản xứ để giảm bớt gánh nặng cho họ trong việc tái chiếm thuộc địa Việt Nam. 


Bản thỏa thuận này bị coi là bất hợp pháp, do Bảo Đại đã thoái vị từ ngày 25-8-1945 và chỉ còn là một công dân Việt Nam bình thường, nên ông ta không có tư cách pháp lý để thay mặt đất nước thỏa hiệp với quân xâm lược Pháp (Đại diện hợp pháp của nước Việt Nam khi đó là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và đang tiến hành kháng chiến chống Pháp). 


Việc thành lập Quốc gia Việt Nam được coi là một chiêu bài của thực dân Pháp, nhằm thành lập chính phủ bù nhìn để hợp thức hóa việc xâm lược Việt Nam. Vì việc thỏa hiệp với Pháp, Bảo Đại đã bị toà án Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kết án phản bội Tổ quốc từ năm 1948.

Hình ảnh: Binh sĩ Việt Nam Cộng hoà đang giẫm đạp lên nhau, chạy trốn bằng cách cố bám vào càng một chiếc trực thăng UH-1 để di tản sau một trận giao tranh bị thiệt hại lớn bởi QGP./.

Yêu nước ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 01 THÁNG 8 NĂM 1960!

     "Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”. 

     Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Người nói trong bài phát biểu tại Hội nghị các đại biểu phụ nữ tham gia công tác chính quyền toàn miền Bắc, ngày 1/8/1960, Báo Nhân dân đăng trên số 2327, ngày 2/8/1960.

     Đây là giai đoạn miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đuổi đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng CNXH càng được chú trọng, số lượng phụ nữ công tác trong các cơ quan chính quyền từ trung ương đến cơ sở tăng cao; đặc biệt, trong Quốc hội khóa II có tới 53 đại biểu Quốc hội là nữ. Khẳng định Đảng, Chính phủ và Nhân dân ta đã đánh giá cao vị trí, vai trò của phụ nữ và đó cũng là một thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

     Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy: “Phụ nữ cần phải học tập tiến bộ nhiều hơn nữa”, kế thừa và phát huy truyền thống con cháu Bà Trưng, Bà Triệu, các thế hệ phụ nữ Việt Nam đã tích cực học tập, rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; từ các phong trào thi đua rộng lớn của phụ nữ Việt Nam qua các thời kỳ, tiêu biểu với các phong trào thi đua “Ba đảm đang”, phong trào “Đồng khởi”… đã xuất hiện nhiều nữ anh hùng dũng cảm trong chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được lịch sử vinh danh, trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, xứng đáng với 8 chữ Vàng Bác Hồ trao tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

     Trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, phát triển hiện nay, lời Bác Hồ dạy năm xưa vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn để các thế hệ phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, ra sức học tập, rèn luyện theo 4 phẩm chất: “Tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang”, ngày càng có nhiều phụ nữ phấn đấu trở thành chính trị gia, nhà khoa học giỏi, nhà quản lý năng động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.          Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phương hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát huy truyền thống vẻ vang của phụ nữ Việt Nam và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phụ nữ Quân đội tiếp tục nêu cao tinh thần, trách nhiệm, tích cực, chủ động, sáng tạo, vượt mọi khó khăn, học tập, lao động sáng tạo, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc để cùng với phụ nữ cả nước thực hiện trọn vẹn lời Bác Hồ dạy năm xưa./.

Môi trường ST.

GIÁ TRỊ NIỀM TIN VÀO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TA!

         Là quân nhân trong QĐND Việt Nam được học, được nghiên cứu Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 
Đây là một bài viết rất hoàn chỉnh, toàn diện, vô cùng súc tích, sâu sắc về quan điểm của Đảng ta, của TBT đối với các vấn đề quan trọng trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết đã nhận được sự quan tâm của đông đảo cán bộ, đảng viên, các tầng lớp Nhân dân trong nước và bạn bè, các chính đảng, chính khách, các nhà khoa học, nghiên cứu lý luận và dư luận quốc tế. Các ý kiến, bình luận đều bày tỏ sự đồng thuận với nội dung và đón nhận bài viết với niềm tin tưởng, sự hưởng ứng tích cực.
Bài viết của Tổng Bí thư tập trung vào trả lời 04 câu hỏi, cắt nghĩa, lý giải rất sâu sắc, đầy sức thuyết phục 4 vấn đề: Chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì trong bước đường tiếp theo? Đây là 4 vấn đề rất quan trọng, có ý nghĩa như nền tảng, cơ sở lý luận để Đảng ta dựa vào đó mà hoạch định đường lối, đề ra các nhiệm vụ chính trị cần giải quyết trong mỗi giai đoạn của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, dựa vào đó mà vận động, thuyết phục nhân dân, tập hợp lực lượng, huy động các nguồn lực, khơi dậy ý thức dân tộc, lòng yêu nước, khát vọng xây dựng đất nước cường thịnh của mỗi người dân, của cả cộng đồng dân tộc nhằm xây dựng thành công CNXH, mang lại sự phát triển toàn diện cho mỗi con người, mang lại tự do, hòa bình, giàu mạnh cho đất nước ta./.


Môi trường ST 

Zalo bắt đầu thu phí từ hôm nay

Từ ngày 1.8, ứng dụng nhắn tin qua internet (OTT) phổ biến nhất tại Việt Nam bắt đầu tính gói thuê bao đối với người dùng, đồng thời cắt giảm một số tính năng của bản miễn phí.


Như đã thông báo từ trước, Zalo chính thức triển khai 3 gói thuê bao tháng cho người dùng tại Việt Nam, song song với đó vẫn phát hành một phiên bản miễn phí nhưng bị giới hạn về mặt tính năng. Cụ thể, gói trả phí dành cho doanh nghiệp (dạng tài khoản OA Doanh Nghiệp) sẽ gồm Dùng thử (10.000 đồng), Nâng cao (59.000 đồng) và Cao cấp (399.000 đồng). Tất cả tính trên chu kỳ một tháng sử dụng. Tài khoản OA khi mua thuê bao tháng sẽ được "nới" một số tính năng, loại bỏ giới hạn về lượt hiển thị trong kết quả tìm kiếm, hỗ trợ danh bạ, phản hồi chat...