Một
trong những âm mưu của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt
Nam là đưa ra những quan điểm sai trái nhằm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội (CNXH) ở Việt Nam.
Vì thế, việc nhận diện kịp thời
và phê phán có cơ sở khoa học, chỉ rõ mục đích chính trị phản động của các quan
điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là việc làm cấp thiết
trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.
Không ngộ nhận, thờ ơ
trước những quan điểm sai trái, phản động
Sau khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN)
ở các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động cấu kết với các phần
tử cơ hội, bất mãn chính trị đưa ra đủ thứ quan điểm, luận điệu xuyên tạc, phủ
nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Luận điệu chúng thường rêu rao
là “Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là một sai lầm lịch sử”, là ‘ảo
tưởng”, là “thiên đường bánh vẽ”. Chúng cho rằng, nếu lấy mốc thời gian tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” ra đời thì đến nay, đã gần 200 năm mà CNXH không
trở thành hiện thực, bị sụp đổ ngay ở nước Nga-quê hương của V.I.Lênin và Cách
mạng Tháng Mười. Một khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu không còn tồn tại thì ở Việt
Nam cũng sẽ bị sụp đổ.
Một câu hỏi chúng tự
đặt ra: “Việt Nam quá độ đi đâu?”, rồi lại tự lèo lái dư luận rằng, Việt Nam là
một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN), lại trải
qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; đi lên CNXH phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, chặng đường, có sự đấu tranh giữa
“cái cũ và cái mới”, thế nên Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam không
bao giờ vượt qua được các chặng đường quá độ gian khổ đó và không thể đi đến
cái đích của CNXH .
Sau khi Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu phấn
đấu đến năm 2045 đưa nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng XHCN,
các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho rằng, đó chỉ là một thứ
“mị dân”. Theo lập luận của chúng, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ có vai trò lãnh
đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, không đủ khả năng lãnh đạo trong công
cuộc phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), vì “những thành tựu đạt được trong công
cuộc đổi mới là do các nước tư bản đầu tư vào, chứ không phải do năng lực lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Dưới chiêu trò “bình mới rượu
cũ”, các luận điệu nêu trên chủ yếu dựa vào một số lý thuyết chống cộng, chủ
nghĩa duy vật máy móc, lý thuyết “hội tụ”, lý thuyết “xã hội hậu công nghiệp”,
lý thuyết các nền văn minh... nhằm biện minh cho sự tồn tại của chế
độ TBCN, phủ nhận tính khách quan của thời kỳ quá độ đi lên CNXH trong
thời đại ngày nay. Không dừng lại ở đó, một số luận điệu còn tinh vi đánh tráo
khái niệm, lấy hiện tượng để đánh đồng với bản chất, triệt để lợi dụng sự sụp
đổ mô hình CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây) để lớn tiếng tuyên
truyền “CNXH chỉ là ảo tưởng”; trong khi lại cố tình khuếch trương, thổi phồng
những thành quả của chủ nghĩa tư bản (CNTB) hiện đại, mà không thấy rõ bản chất
bóc lột tinh vi của giai cấp tư sản và những bất công chưa thể giải quyết tận
gốc trong lòng xã hội tư bản hiện nay.
Mục đích chính trị phản động
của các quan điểm sai trái phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nhằm gây
hoang mang, mất niềm tin, ru ngủ tinh thần cảnh giác cách mạng của nhân dân;
sâu xa hơn, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận
khả năng thắng lợi của con đường quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên
CNXH ở Việt Nam, từng bước chuyển hóa Việt Nam theo quỹ đạo của CNTB.
Việt Nam đi theo con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với quy luật phát triển
của lịch sử
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn
90 năm qua đã khẳng định một chân lý: Đi theo con đường cách mạng XHCN và đi
lên CNXH là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, phù
hợp với khát vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã luận
giải khoa học về sự thay thế của những hình thái KT-XH từ thấp đến
cao là quá trình lịch sử-tự nhiên, là do vận động của những quy
luật KT-XH khách quan. Với quan điểm duy vật biện chứng khoa học, các
nhà kinh điển Mác-xít đã chỉ ra hình thái KT-XH cộng sản chủ nghĩa
tất yếu ra đời và thay thế hình thái KT-XH TBCN. Nó phải trải qua
“một thời kỳ và hai giai đoạn”, đó là thời kỳ quá độ, giai đoạn đầu là CNXH,
giai đoạn cao là cộng sản chủ nghĩa. Hình thái KT-XH cộng sản chủ
nghĩa sẽ phát triển cao hơn và khác về chất so với hình thái KT-XH TBCN
nên phải trải qua quá trình cải biến cách mạng lâu dài; không bao giờ tự phát
hình thành mà thông qua vận động của các quy luật về KT-XH, con đường đấu
tranh cách mạng để xóa bỏ áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản và xây dựng xã
hội mới. Hệ thống lý luận cơ bản đó của Chủ nghĩa Mác-Lênin là cách mạng, khoa
học, được vận dụng thành công ở nước Nga từ năm 1917. CNXH từ lý luận trở thành
hiện thực, từ một nước phát triển thành hệ thống chính trị thế giới đối lập với
hệ thống TBCN trong hơn 7 thập niên.
Về thực tiễn, CNXH hiện thực ra
đời đã thể hiện tính ưu việt hơn CNTB. Công cuộc xây dựng CNXH ở nước Nga, sau
đó là Liên Xô có thời gian chưa dài, nhưng đã giành được nhiều thành tựu to lớn
trên mọi lĩnh vực. Sản lượng công nghiệp chiếm 20% tổng sản lượng công nghiệp
thế giới; sản lượng điện đạt 440 tỷ kWh (gấp hơn 300 lần so với năm 1913; bằng
4 nước lớn là Anh, Pháp, Đức, Italy cộng lại); dầu mỏ đạt 353 triệu tấn, than
624 triệu tấn, thép 121 triệu tấn (vượt sản lượng của Mỹ). Có thể thấy, trong
một thời gian ngắn, CNXH ra đời ở Liên Xô và nhiều nước XHCN tuy chưa hoàn
thiện nhưng đã phát triển lớn mạnh về nhiều mặt, khác hẳn về chất so với CNTB.
Điều đó cho thấy, CNXH là một
hiện thực, hoàn toàn không phải là “giấc mơ”, cũng chẳng phải là “ảo tưởng về
một thiên đường” như các thế lực thù địch rêu rao! Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô
và Đông Âu (trước đây) chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình cụ thể do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan, chứ không phải do Chủ nghĩa Mác-Lênin hay lý tưởng
về CNXH đã lỗi thời, lạc hậu.
Mặc dù CNTB đạt được những
thành tựu to lớn nhưng chủ yếu đem lại lợi ích cho giai cấp tư sản mà không vì
lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Những mâu thuẫn nội tại và
đối kháng trong xã hội TBCN chỉ giải quyết bằng con đường tất yếu là
cách mạng XHCN. Trong bối cảnh hiện nay, CNTB đã có những thích nghi,
phát triển nhất định nhờ tận dụng được những thành tựu khoa học và công nghệ
hiện đại, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức. Các nước XHCN đang ở giai đoạn khó
khăn tạm thời, song theo quy luật phát triển khách quan của lịch
sử, CNTB sẽ bị xóa bỏ, chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là CNXH ưu
việt hơn sẽ ra đời, tồn tại và phát triển.
Đối với cách mạng Việt Nam,
những năm nửa đầu thế kỷ 20, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã có 30 năm bôn ba ở nước
ngoài, đến các nước tư bản phát triển, đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xâm
lược và đô hộ của chủ nghĩa thực dân và phong kiến. Người khẳng định, muốn
giành lại được độc lập cho dân tộc thì phải tiến hành con đường cách mạng vô
sản và xây dựng chế độ XHCN. Từ năm 1930, “Chánh cương vắn tắt” của Ðảng do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Ðảng thảo luận,
thông qua đã xác định rõ đường lối của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Năm 1991, Đảng
đã ban hành “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, trong
đó chỉ ra 6 đặc trưng cơ bản của chế độ XHCN ở Việt Nam. Đến Cương lĩnh (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã phát triển sáng tạo thành 8 đặc trưng của CNXH ở
Việt Nam, trong đó đặc trưng bao trùm là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
Hơn 90 năm được rèn giũa, tôi
luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng sôi động, phong phú, Đảng Cộng sản
Việt Nam có bản lĩnh chính trị, có trí tuệ, có khả năng lãnh đạo thành công
công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi
hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc lớn trong thế kỷ 20, thực hiện mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu
(trước đây) bị khủng hoảng, sụp đổ thì Đảng ta vẫn kiên định con đường đi lên
CNXH, kiên trì đường lối đổi mới, giữ vững nguyên tắc “đổi mới nhưng không đổi
màu”. Trải qua gần 40 năm tiến hành đổi mới, Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta đã
đạt được thành tựu rất to lớn, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và có ý
nghĩa lịch sử. Đại hội XIII của Đảng đánh giá khái quát: “Đất nước ta chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay... Tiếp tục
khẳng định con đường đi lên CNXH của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật
khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Trong những chặng đường tới,
Đảng ta đã có dự báo khoa học về 4 nguy cơ, những thách thức không nhỏ từ bên
ngoài và ở trong nước đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Với phương châm vượt qua thách thức, tận dụng những cơ hội, phát huy sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH ở Việt
Nam phát triển nhanh và bền vững hơn, Đảng ta đặt ra mốc: “Phấn đấu đến giữa
thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN” là
hoàn toàn có cơ sở khoa học đúng đắn và có tính khả thi.
Với trí tuệ, khả năng và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng, được sự ủng hộ của nhân dân thì việc kiên định lựa chọn con đường đi lên CNXH cũng không ngoài mục đích nhân văn cao đẹp là tiếp nối truyền thống, xứng đáng với các thế hệ cha anh đã chiến đấu anh dũng, hy sinh vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; đồng thời đáp ứng lòng mong đợi và phù hợp với khát vọng, mong muốn của gần 100 triệu người dân Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét