Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

 KHẮC SÂU VÀ LÀM THEO NHỮNG LỜI DẠY CỦA BÁC VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG

Là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng “đạo đức, văn minh” lãnh đạo dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ vừa có tính cấp bách, vừa có tính thường xuyên, lâu dài của một Đảng cầm quyền.

Người luôn căn dặn: Vai trò lãnh đạo của Đảng không tự nhiên mà có, không phải cứ tự nhận mà được. Đó là kết quả của một quá trình vận động của lịch sử, được thực tế chứng minh là hoàn toàn hợp quy luật. Đảng sẽ không thể làm tròn nhiệm vụ, không thể đóng vai trò lãnh đạo được nữa, nếu Đảng bị suy yếu. Người khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[1]. Vì vậy, việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn không chỉ là công việc thường xuyên của bản thân Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giành, giữ chính quyền, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mà trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế càng đặt ra một cách quyết liệt, triệt để hơn. 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu về sự vận động của bản thân Đảng trong quá trình biển đổi, phát triển của tình hình cách mạng và chỉ rõ tất yếu khách quan của công tác phải xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong tác phẩm phẩm Sửa đổi lối làm việc năm 1947, Người đã chỉ ra một số cán bộ đảng viên trở nên thoái hoá biến chất, vì thế nguy cơ xa dần, mất dần quần chúng đã đến rất gần, xuất hiện căn bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chuyên quyền… đồng thời, Người cũng chỉ rõ nguyên nhân và biện pháp để khắc phục những căn bệnh nói trên.

Năm 1950, tại Việt Bắc, trong Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong, Người nói: “... Tự phê bình và phê bình phải thật thà vạch khuyết điểm. Có lỗi mà không vạch ra không khác gì người có bệnh mà không chịu khai với thầy thuốc... Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước...”[2]. Cũng tại đây, thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thức trắng đêm trăn trở, suy nghĩ và đành hạ bút bác đơn xin ân xá khỏi án tử hình của tử tù Trần Dụ Châu - người mà hơn một năm trước, Bác đã ký quyết định phong quân hàm sĩ quan cao cấp quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng chỉ hơn một năm sau, con người này đã suy thoái đạo đức, làm ảnh hưởng đến thanh danh và uy tín của Đảng, của quân đội. Quyết định của Người để làm gương và củng cố lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tập hợp sức mạnh của cả nước vào cuộc kháng chiến, không để “một con sâu” như Trần Dụ Châu làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và cán bộ, đảng viên.

Năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bước vào giai đoạn gay go, quyết liệt, nhân nói chuyện tại buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ dân, chính, đảng các cơ quan trung ương Người nói: “Nếu Đảng đã thập toàn thập mỹ thì tại sao lại phải chỉnh? Là vì có số đông đảng viên gương mẫu, tận tâm tận lực phục vụ cách mạng, nhân dân, giai cấp, nhưng còn một số, không phải là ít, không làm đúng chính sách của đảng, của chính phủ, không đi đúng đường lối của nhân dân, còn yếu... Những đảng viên ấy chưa thực sự đứng đắn cho nên phải chỉnh”.

Những lời dạy của Bác về xây dựng Đảng và tấm gương đạo đức sáng ngời của Người có sức lan toả sâu rộng, cảm hoá lòng người mạnh mẽ, là động lực tinh thần giúp cán bộ đảng viên khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết một lòng, tập hợp mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, đưa cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa và sức mình là chính đến thắng lợi hoàn toàn bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tại các kỳ Đại hội, hội nghị, các buổi nói chuyện, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, trước lúc đi xa, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho dân tộc Việt Nam, Người căn dặn “còn non, còn nước còn người. Chiến thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”, trong đó, Người đặc biệt bày tỏ mong muốn, sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, thì “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”[3]. Khắc sâu lời dạy của Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta chung sức đồng lòng, quyết tâm “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối vào năm 1975.

Đại hội VI của Đảng - mốc son đánh dấu khởi xướng đường lối đổi mới: Đổi mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước là việc cấp bách, đồng thời là việc thường xuyên, lâu dài, trong đó đặc biệt coi trọng “đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác”[4]. Bốn vấn đề này, các đại hội sau đã bổ sung khía cạnh này hay khía cạnh khác, nhưng nhìn chung đều nói lên bản thân Đảng ta - với tư cách là đảng cầm quyền - phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn!

Sự nghiệp đổi mới của dân tộc ta bước đầu đạt được những kết quả nhất định - cơ sở “sức đề kháng” để Đảng và dân tộc Việt Nam chống lại mọi ảnh hưởng bất lợi, cản trở con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta vững vàng trên con đường đi lên CNXH, tiếp tục thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 không chỉ đưa ra những nội dung quan trọng về: mô hình xã hội XHCN ở Việt Nam; chính thức đưa vào Văn kiện “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”… mà còn chỉ rõ: “Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo”[5]. Đảng tự đổi mới, tự chỉnh đốn không phải chỉ tiến hành một lần, trong một thời gian ngắn là đủ. Vì vậy, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn... đây là một quy luật phát triển của Đảng”[6]. Đại hội VII của Đảng đòi hỏi phải “khai trừ khỏi Đảng những đảng viên thoái hoá, biến chất về chính trị và đạo đức, gây chia rẽ, bè phái, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng. Đưa ra khỏi Đảng bằng những hình thức thích hợp những đảng viên không tha thiết với Đảng, giảm sút ý chí chiến đấu”.

Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng cũng đã chỉ ra bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam:“Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; âm mưu và hành động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch”[7]. Bốn nguy cơ này đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự, đang trở thành những thách thức hiển hiện trong thực tế và ngày càng trở nên bức thiết đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và Đảng lãnh đạo nói riêng!

Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác xây dựng đảng chỉ rõ: “Vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Vậy chạy ai? Ai chạy? Đó là câu hỏi và là một vấn đề nhức nhối trong Đảng! Công tác chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các tiêu cực khác trong toàn xã hội và trong nội bộ Đảng chưa đạt được hiệu quả cần thiết! Trước tình trạng đó, những lời dạy của Bác năm xưa về công tác xây dựng Đảng vẫn còn nguyên giá trị, luôn được Đảng ta đặt lên hàng đầu và được tiến hành đổi mới trên cả 3 mặt: Tư tưởng, chính trị và tổ chức! Đại hội IX của Đảng khẳng định: phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tại Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân. Cùng với thực hiện nghị quyết Đại hội X, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07 tháng 11 năm 2006 về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Kết quả sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi; sức mạnh về mọi mặt được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao… là thước đo năng lực, uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội XI của Đảng khẳng định: thực tiễn phong phú và những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn phù hợp quy luật khách quan và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Song, bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục… Đại hội XI của Đảng chỉ ra “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”[8]. Từ “một bộ phận” đã lan ra “một bộ phận không nhỏ” như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” chỉ rõ: tình trạng ấy không chỉ ở “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên mà “trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”[9]. Không chỉ nói thẳng, nói đúng, nói trúng sự thật, chỉ ra hạn chế, yếu kém, Nghị quyết TW 4 còn đưa ra mục tiêu, phương châm, đặc biệt là một số giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém còn tồn tại trong quá trình lãnh đạo của Đảng “nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. 

Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) thể hiện quyết tâm của Đảng xây dựng một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiếp bước truyền thống vẻ vang lãnh đạo hơn 83 năm qua vào thực tiễn công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hôm nay. Đảng đã lãnh đạo dân tộc đánh thắng giặc ngoại xâm, đẩy lùi giặc dốt và đói nghèo, nhất định sẽ đẩy lùi được những tiêu cực mà Bác Hồ gọi là giặc “nội xâm”, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, cùng dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” như sinh thời Bác Hồ hằng mong.


[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập,  t.12, Nxb CTQG, H.2002, tr.557-558. [2] t.6, tr.110. [3] Sđd, t.12, tr.503.[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.124.[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb CTQG, H.1991, tr.21.[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, H.1998, tr.47.[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, t.53, tr.198. [8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, H.2011, tr.173.[9] Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư BCHTW ĐCSVN (khoá XI),Nxb CTQG, H.2012, tr.27-28.

 

1 nhận xét: