Thứ Tư, 28 tháng 12, 2022
Tiếp cận chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Giô Bai-đơn
TCCS - Kể từ khi nắm quyền, Tổng thống Mỹ Giô Bai-đơn thể hiện sự tiếp nối những cam kết chính sách của các chính quyền tiền nhiệm đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Khu vực kết nối hai bờ đại dương, trong đó Đông Nam Á ở trung tâm, tiếp tục là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách của Mỹ. Tuy nhiên, cách tiếp cận đối với khu vực đã có sự điều chỉnh, các trọng tâm hợp tác trong giai đoạn mới cũng đang được định hình rõ nét.
Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Indonesia Jokowi tại Hội nghị Thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) ở Indonesia_Ảnh: backpanel.kemlu.go.id
Điều chỉnh và thích ứng về chiến lược
Mặc dù chiến lược tổng thể đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn công bố tương đối muộn - một năm sau khi lên nắm quyền, song những nội dung của chiến lược đã phản ánh sự quan tâm và gắn kết sâu sắc hơn của Mỹ đối với khu vực. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được công bố ngày 12-2-2022, khẳng định năm mục tiêu mà Mỹ theo đuổi(1):
Một là, thúc đẩy một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, nhấn mạnh sự ủng hộ quyền tự quyết và tự chủ phù hợp với luật pháp quốc tế của các chính phủ trong khu vực, cũng như sự quản lý hợp pháp vùng biển, vùng trời và các không gian chung được quản lý hợp pháp.
Hai là, xây dựng kết nối trong và ngoài khu vực. Điều này đồng nghĩa với việc Mỹ thúc đẩy năng lực tập thể bằng cách xây dựng mạng lưới các liên minh mạnh mẽ và hỗ trợ lẫn nhau tại khu vực. Trong đó, nhấn mạnh vào 5 đồng minh hiệp ước của Mỹ là Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phi-líp-pin và Thái Lan; đồng thời, bao gồm các đối tác hàng đầu của Mỹ tại khu vực.
Ba là, thúc đẩy sự thịnh vượng của khu vực. Chiến lược nhấn mạnh việc Mỹ đưa ra một khuôn khổ kinh tế cho khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, hỗ trợ các nền kinh tế khu vực nhanh chóng khai thác, chuyển đổi công nghệ, bao gồm cả nền kinh tế kỹ thuật số, thích ứng với quá trình chuyển đổi năng lượng và khí hậu.
Bốn là, tăng cường an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Mỹ cam kết duy trì sự hiện diện quốc phòng để hỗ trợ hòa bình, an ninh, ổn định và thịnh vượng tại khu vực.
Năm là, xây dựng khả năng phục hồi của khu vực đối với các mối đe dọa xuyên quốc gia. Nhấn mạnh cam kết của Mỹ hỗ trợ các quốc gia trong khu vực ứng phó với khủng hoảng khí hậu, chấm dứt đại dịch COVID-19 và các mối đe dọa chung.
Những mục tiêu mà Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn hướng đến tại khu vực cho thấy sự tiếp nối quan điểm của chính quyền Tổng thống Mỹ Đô-nan Trăm đã được nêu cụ thể trong các chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương do Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Mỹ ban hành năm 2019(2). Theo đó, Mỹ nêu cao sự ủng hộ quyền tự do, không bị ép buộc của các quốc gia trong khu vực và quyền tiếp cận mở đối với các vùng biển, vùng trời và các không gian chung khác như không gian mạng; thúc đẩy sự thịnh vượng kinh tế của khu vực thông qua các lĩnh vực hạ tầng cơ sở, năng lượng, kết nối số; tăng cường các quan hệ đồng minh, đối tác, củng cố các thể chế và kết nối khu vực; ứng phó với các nguy cơ an ninh truyền thống cũng như an ninh phi truyền thống.
Mặc dù có sự tương đồng về mục tiêu, nhưng cách tiếp cận của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn đối với khu vực vẫn có sự khác biệt. Điều này cho thấy sự điều chỉnh và thích ứng về chiến lược của Mỹ trước những thách thức đặt ra sau một giai đoạn thực thi tầm nhìn Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Trước tiên, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn khẳng định tầm quan trọng của sự tương tác và phối hợp với các quốc gia trong khu vực để đạt được các mục tiêu chung. Mỹ sẽ không nhìn về châu Á đơn thuần như một đấu trường cạnh tranh địa - chính trị, mà là cách tiếp cận của những nước đồng minh của Mỹ trong khu vực (cụ thể là của Ô-xtrây-li-a, Nhật Bản, Hàn Quốc,...). Mỹ cũng nhấn mạnh vào mục đích không chỉ nhằm tăng cường vai trò của mình, mà còn củng cố và hướng đến lợi ích chung của khu vực. Những mục tiêu đặt ra cần có sự hợp tác giữa các nước có chung tầm nhìn trong khu vực. Vai trò của các đồng minh, đối tác được đề cao, quyết định sự thành công của các mục tiêu. Điều này đã được minh chứng qua một loạt động thái của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn kể từ khi nắm quyền nhằm củng cố và tăng cường với các nước đồng minh và đối tác tại khu vực, cũng như sự tái tham gia của Mỹ vào các diễn đàn và các tiến trình đa phương tại đây.
Ngoài ra, chính sách của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cho thấy sẽ phát triển một mối quan hệ “toàn diện” với các đối tác trong khu vực, chứ không chỉ tập trung vào khía cạnh an ninh. Sáng kiến Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF)(3) được đưa ra nhằm bù đắp cho việc thiếu vắng một khuôn khổ hợp tác kinh tế toàn diện của Mỹ tại khu vực sau khi chính quyền tiền nhiệm rút khỏi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) do chính Mỹ khởi xướng. Các quan tâm của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cũng hướng vào việc hỗ trợ khu vực phục hồi sau đại dịch COVID-19, viện trợ vắc-xin, tăng cường hợp tác y tế, chống biến đổi khí hậu và đẩy mạnh hợp tác giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống khác. Cách tiếp cận của Mỹ đang tiệm cận hơn với lợi ích và sự quan tâm của các quốc gia trong khu vực, vốn luôn theo đuổi một mối quan hệ cân bằng và toàn diện hơn với Mỹ.
Trong quan hệ với khu vực Đông Nam Á, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn tiếp tục xác định “Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là trung tâm của kiến trúc Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” và cam kết sẽ “ủng hộ ASEAN với tư cách là một tổ chức mạnh mẽ, độc lập, dẫn đầu ở khu vực”(4).
Trên thực tế, quan điểm đặt ASEAN vào vị trí trung tâm của Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã được đưa ra dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ Đ. Trăm, khi đó Mỹ xác định “ASEAN đóng vai trò là xương sống của chính trị khu vực” và bày tỏ sự ủng hộ đối với sự ổn định và thịnh vượng của Đông Nam Á. Chính quyền Tổng thống Mỹ Đ. Trăm từng khẳng định tầm quan trọng của các mối quan hệ đồng minh với Thái Lan và Phi-líp-pin, cũng như các đối tác ưu tiên của Mỹ tại khu vực là In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po... Bên cạnh việc bảo đảm hỗ trợ cho các nước ASEAN một cách toàn diện, từ năng lượng, an ninh mạng, thương mại kỹ thuật số đến thúc đẩy hoạt động kinh doanh, chính quyền Tổng thống Mỹ Đ. Trăm cũng đã cam kết tham gia tích cực các thể chế của ASEAN như Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+). Dưới thời kỳ Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn, vai trò của ASEAN đối với an ninh và thịnh vượng của khu vực tiếp tục được đề cao, là động lực dẫn dắt các diễn đàn quan trọng như EAS, ADMM+, ARF và Diễn đàn Hàng hải ASEAN mở rộng (EAMF)(5). Đặc biệt, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn mong muốn đẩy mạnh và nâng cấp các quan hệ đối tác trong khu vực. Tháng 5-2022, Mỹ đã tiếp đón 10 nước ASEAN tại Thủ đô Oa-sinh-tơn trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 45 năm quan hệ giữa hai bên. Tại đây, quan hệ Mỹ - ASEAN đã được thống nhất nâng cấp lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 11-2022(6).
Bên cạnh đó, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn đã gửi thông điệp rằng Mỹ sẽ tôn trọng chính sách và lựa chọn của các nước ASEAN, ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong các vấn đề khu vực. Cách tiếp cận này cho thấy Mỹ nhận thức rõ quyết tâm của các quốc gia Đông Nam Á mong muốn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tự quyết, cân bằng và không muốn bị lôi kéo vào cuộc cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực. Theo đó, Mỹ tôn trọng và ủng hộ những mong muốn của các nước trong khu vực trở thành một Cộng đồng ASEAN mạnh mẽ, độc lập và dẫn đầu, hay một khu vực Đông Nam Á hòa bình, không có vũ khí hạt nhân... Việc Mỹ đang đứng từ góc độ các nước ASEAN để xây dựng chính sách khu vực của mình được cho là sự bảo đảm của mối quan hệ song phương gắn kết và bền vững hơn trong tương lai.
Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng lãnh đạo các nước ASEAN tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ - ASEAN tại Nhà Trắng, ngày 12-5-2022 _Ảnh: AFP/TTXVN
Thúc đẩy những trụ cột hợp tác trong giai đoạn tới
Về hợp tác kinh tế
Trụ cột kinh tế vẫn được đánh giá là một điểm hạn chế trong chính sách Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Mỹ. Dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ Đ. Trăm, Mỹ đã rút khỏi TPP mà không đưa ra phương án thay thế. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Đ. Trăm cũng theo đuổi một chương trình nghị sự thương mại song phương, đi ngược lại với cách tiếp cận của các quốc gia trong khu vực vốn theo đuổi chủ nghĩa đa phương và liên kết để cân bằng với các nước lớn trong hoạt động thương mại. Điều này, theo nhận định của nhiều chuyên gia, đã làm hạn chế kết quả của hợp tác thương mại giữa Mỹ và các nước trong khu vực.
Cách tiếp cận kinh tế đa phương đã quay trở lại dưới thời kỳ chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn. Tháng 10-2021, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn đã đưa ra sáng kiến IPEF. Đến tháng 5-2022, nội dung của sáng kiến được xác định, theo đó, khuôn khổ kinh tế đa phương bao trùm toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tập trung vào bốn trụ cột chính(7): 1- Nền kinh tế kết nối: Nhấn mạnh vào việc Mỹ tham gia toàn diện với các đối tác về nhiều vấn đề trong lĩnh vực thương mại và theo đuổi các quy tắc tiêu chuẩn cao về nền kinh tế kỹ thuật số. Mỹ cũng hướng đến các chuẩn mực mạnh mẽ về lao động và môi trường, các điều khoản truy cứu trách nhiệm của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy cuộc cạnh tranh về thương mại; 2- Nền kinh tế phục hồi: Mỹ hướng đến các cam kết về chuỗi cung ứng thông qua việc thiết lập một hệ thống cảnh báo sớm, cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc trong các lĩnh vực chủ chốt và phối hợp để đa dạng hóa chuỗi cung ứng; 3- Nền kinh tế sạch: Mỹ ưu tiên các cam kết về năng lượng sạch, trung hòa các-bon và kết cấu hạ tầng; 4- Nền kinh tế công bằng: Mỹ tìm kiếm những cam kết để ban hành và thực thi những cơ chế về thuế, chống rửa tiền và chống hối lộ hiệu quả, phù hợp với các nghĩa vụ đa phương hiện có của Mỹ nhằm thúc đẩy một nền kinh tế công bằng.
Như vậy, mặc dù IPEF không phải là một thỏa thuận thương mại tự do truyền thống với khả năng tiếp cận thị trường như các nước ASEAN mong muốn, nhưng vẫn có thể tìm thấy những điểm hợp tác nhiều triển vọng. Trong đó, những trụ cột liên quan đến chuỗi cung ứng, kết cấu hạ tầng, năng lượng sạch và trung hòa các-bon đều là những lĩnh vực hợp tác đáng quan tâm. Trên thực tế, hợp tác duy trì chuỗi cung ứng sản xuất đã được phía Mỹ đề cập nhiều lần trong khuôn khổ hợp tác thương mại với khu vực. Chuỗi cung ứng ổn định đã trở thành một ưu tiên của Mỹ trong bối cảnh sự gián đoạn toàn cầu của chuỗi cung ứng do đại dịch COVID-19 gây ra. Trong khi đó, các quốc gia Đông Nam Á đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại toàn cầu và có khả năng trở thành nguồn cung tiềm năng. Ngoài ra, các nền kinh tế ASEAN cũng đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng năng lượng tiềm ẩn và có nhu cầu chuyển đổi sản xuất nhiệt điện than, hướng đến những nguồn năng lượng ít phát sinh các-bon như điện gió, năng lượng mặt trời, đồng thời tăng cường sử dụng khí đốt tự nhiên ngoài khơi và khí đốt tự nhiên hóa lỏng nhập khẩu. Thực tế này giúp đẩy mạnh hợp tác song phương trong tương lai vì các nước ASEAN cần sự hỗ trợ từ phía Mỹ.
Về hợp tác an ninh hàng hải
Mỹ và ASEAN cam kết đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực hàng hải thông qua các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Cả hai bên đều đạt được tiếng nói chung trong công nhận lợi ích của việc xây dựng Biển Đông là vùng biển hòa bình, ổn định và thịnh vượng; nhấn mạnh sự cần thiết theo đuổi giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế; tầm quan trọng của việc triển khai đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); sự cần thiết duy trì và thúc đẩy môi trường thuận lợi cho việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Hợp tác song phương trong an ninh biển tập trung vào nhiều lĩnh vực như tìm kiếm và cứu nạn, an ninh biển và ngăn chặn đánh bắt cá bất hợp pháp, thông tin liên lạc trên biển, bảo vệ, phục hồi và quản lý bền vững môi trường biển. Mỹ cam kết tiếp tục hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực thực thi luật pháp hàng hải đa phương, thúc đẩy hợp tác kỹ thuật, chia sẻ nhận thức, nâng cao năng lực, trao đổi kinh nghiệm và chia sẻ kiến thức, chuyên môn.
Hợp tác chống biến đổi khí hậu
Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn đã đặt vấn đề giải quyết những thách thức do biến đổi khí hậu lên hàng đầu và xem đây là một trong những ưu tiên trong hợp tác Mỹ - ASEAN. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Mỹ tới khu vực, những thảo luận liên quan đến chống biến đổi khí hậu được đề cập thường xuyên. Đặc biệt, tại Hội nghị cấp cao Mỹ - ASEAN vào tháng 10-2021, Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn đã công bố khoản tài trợ trị giá 102 triệu USD để tăng cường quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - ASEAN, trong đó 20,5 triệu USD được dành cho các sáng kiến Tương lai Khí hậu Mỹ - ASEAN(8). Trong Tuyên bố chung sau Hội nghị cấp cao đặc biệt Mỹ - ASEAN vào tháng 5-2022, hợp tác ứng phó với biến đổi khí hậu tiếp tục nhấn mạnh vào chuyển đổi năng lượng sạch, bảo tồn đa dạng sinh học và tài nguyên thiên nhiên. Các quốc gia Đông Nam Á, vốn đang phải đối mặt với những tác động nặng nề từ mực nước biển dâng cao và các hiện tượng thời tiết cực đoan, đã hoan nghênh các sáng kiến của Mỹ và dành nhiều quan tâm cho lĩnh vực hợp tác này.
Hỗ trợ khu vực phục hồi sau đại dịch COVID-19
Mỹ nhấn mạnh vào mục tiêu hỗ trợ khu vực Đông Nam Á phục hồi sau đại dịch COVID-19 thông qua những cam kết tăng cường các hệ thống và năng lực y tế của các quốc gia và khu vực; hỗ trợ tài chính cho phòng, chống, chuẩn bị sẵn sàng và ứng phó với đại dịch; tạo điều kiện tiếp cận công bằng đối với các dịch vụ y tế và thuốc điều trị an toàn, chất lượng, giá cả phù hợp; chuyển giao chuyên môn; đầu tư và tăng cường các hệ thống y tế, tăng cường, đào tạo lực lượng nhân viên y tế của khu vực.
Với mục tiêu này, thông qua Sáng kiến Tương lai Y tế Mỹ - ASEAN, Mỹ cam kết dẫn dắt cuộc chiến toàn cầu chống đại dịch COVID-19 với khoản tài trợ có thể lên tới 40 triệu USD cho những nỗ lực mới nhằm thúc đẩy nghiên cứu chung, tăng cường năng lực hệ thống y tế và phát triển nguồn vốn con người trong lĩnh vực y tế (9). Mỹ cũng đẩy mạnh chiến dịch cung cấp vắc-xin phòng, chống dịch bệnh COVID-19 cho Đông Nam Á. Đến cuối năm 2021, Mỹ cung cấp hơn 42 triệu liều vắc-xin và hỗ trợ hơn 200 triệu USD cho các nước ASEAN nhằm ứng phó với dịch bệnh COVID-19(10). Tháng 8-2021, Văn phòng Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC) của khu vực Đông Nam Á được đặt tại Hà Nội - đây là một trong bốn văn phòng đại diện của CDC Mỹ trên toàn cầu.
Về các hợp tác an ninh phi truyền thống khác
Các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục là một trọng tâm trong hợp tác Mỹ - ASEAN. Bên cạnh chống biến đổi khí hậu và dịch bệnh, hợp tác an ninh phi truyền thống giữa hai bên nhấn mạnh vào tăng cường hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia trong các lĩnh vực, như mua bán trái phép chất ma túy, buôn bán người, rửa tiền, buôn lậu vũ khí, cướp biển, chống khủng bố và chủ nghĩa bạo lực cực đoan, tội phạm mạng, tội phạm kinh tế quốc tế...
Đặc biệt, tại khu vực Tiểu vùng sông Mê Công, sự hợp tác và hỗ trợ của Mỹ tiếp tục được khẳng định nhằm giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống đặt ra liên quan đến quản lý bền vững nguồn nước và tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, nông nghiệp và an ninh lương thực, an ninh năng lượng, kết nối kinh tế, phát triển nguồn nhân lực. Sáng kiến Hạ nguồn Mê Công (LMI) do Mỹ khởi xướng năm 2009 đã được nâng cấp thành Quan hệ đối tác Mê Công - Mỹ (MUSP) năm 2020, theo đó các đối thoại chính sách định kỳ được triển khai. Điều này cho thấy sự quan tâm lớn hơn của Mỹ đối với Tiểu vùng và kèm theo là những cam kết mạnh mẽ hơn giúp tăng cường năng lực và khả năng phục hồi của khu vực Mê Công, gắn phát triển Tiểu vùng với phát triển toàn diện của ASEAN.
Như vậy có thể thấy, Mỹ đã có sự thích ứng linh hoạt về mặt chiến lược và những cam kết theo đuổi một chương trình nghị sự sâu rộng đối với khu vực. Tuy nhiên, theo nhận định của các nhà phân tích, chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn cũng cần đánh giá nhằm khắc phục những hạn chế trong chính sách đối với khu vực Đông Nam Á. Trước hết, sự chậm trễ về mặt chiến lược đối với khu vực. Trong năm đầu tiên của chính quyền Tổng thống G. Bai-đơn, Mỹ chưa đưa ra được một chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương mặc dù liên tục khẳng định khu vực này là ưu tiên của Mỹ. Trong Hướng dẫn Chiến lược An ninh quốc gia tạm thời được công bố vào tháng 3-2021, khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á, cũng chỉ được đề cập đến một cách thiếu cụ thể. Điều này gây quan ngại đối với các quốc gia trong khu vực, nhất là các nước Đông Nam Á, vốn đã bị “bỏ quên” trong nửa năm đầu tiên cầm quyền của chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn(11). Theo đó, Đông Nam Á đã không phải là ưu tiên hàng đầu của chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn và khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được xếp sau những vấn đề đối nội cấp bách mà nước Mỹ đang đối mặt.
Hai là, tầm nhìn chiến lược của Mỹ đối với khu vực đang được định hình bởi cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc, do vậy các chính sách của chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn dù đã có sự điều chỉnh và thích ứng, nhưng vẫn không tránh khỏi khả năng đặt khu vực vào tình thế chia rẽ, thậm chí mất an toàn. Đơn cử như việc Mỹ củng cố và thiết lập mới các liên kết an ninh trong khuôn khổ hẹp tại Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương như nhóm Bộ Tứ (QUAD), Ngũ Nhãn (Five Eyes) hay Thỏa thuận quốc phòng ba bên giữa Ô-xtrây-li-a, Anh và Mỹ (AUKUS). Điều này gây ra những phản ứng trái chiều từ các nước ASEAN, trong đó phần lớn nghi ngại về kịch bản leo thang căng thẳng, quân sự hóa và chạy đua vũ trang trong khu vực. Trong khi các nước Đông Nam Á muốn ASEAN giữ vai trò trung tâm trong giải quyết các vấn đề tại khu vực, những liên kết mới này có thể ảnh hưởng đến vai trò dẫn dắt của khối.
Ba là, một chính sách kinh tế tổng thể đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương đã được chính quyền Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn công bố sau nhiều trông đợi. Mười ba quốc gia trong khu vực, trong đó có 7 nước ASEAN, đã cam kết tham gia sáng kiến IPEF của Mỹ. IPEF được kỳ vọng giải quyết các thách thức của thế kỷ XXI chứ không chỉ là một hiệp định thương mại truyền thống với các điều khoản tiếp cận thị trường. Do vậy, việc hiện thực hóa IPEF đòi hỏi nỗ lực của tất cả các bên. Trong bối cảnh mà IPEF mang ý nghĩa biểu tượng là “phương tiện cho sự tái can dự của Mỹ về kinh tế ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương”(12), sự thực chất của sáng kiến kinh tế này là điều mà các nước trong khu vực mong đợi từ Mỹ. Tuy nhiên, các thảo luận về việc triển khai cụ thể khuôn khổ hợp tác này mới này vẫn đang ở giai đoạn khởi động.
***
Như vậy, trong hơn nửa nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Mỹ G. Bai-đơn, những cách tiếp cận mới trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á đã được triển khai. Trên cơ sở đó, Mỹ nhấn mạnh việc đề cao sự phối hợp giữa Mỹ với các quốc gia Đông Nam Á cả về nhận thức và hành động để đạt được các mục tiêu chung. Sự tôn trọng vai trò trung tâm và dẫn dắt của ASEAN cũng như quyền tự chủ và tự quyết của tổ chức này đối với các vấn đề của khu vực được thừa nhận trong chính sách đối ngoại của Mỹ.
Với cách tiếp cận mới này, các lĩnh vực hợp tác then chốt giữa hai bên đã được xác định ở một khuôn khổ sâu rộng và thiết thực hơn. Bên cạnh hợp tác về an ninh, bao gồm an ninh hàng hải và an ninh phi truyền thống, hợp tác về kinh tế cũng đã được chú trọng hơn và nhìn nhận như một động lực trong quan hệ Mỹ - ASEAN. Hợp tác nhằm hỗ trợ khu vực phục hồi sau đại dịch COVID-19, khắc phục những hệ quả của biến đổi khí hậu, hỗ trợ Tiểu vùng sông Mê Công cho thấy hình ảnh một đối tác Mỹ thực sự quan tâm đến các vấn đề của khu vực. Mặc dù còn có những hạn chế, song chính sách của Mỹ đối với khu vực đang mở ra nhiều triển vọng và tiềm năng cho quan hệ Mỹ - ASEAN trong thời gian tới./.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
bài viết rất hay
Trả lờiXóa