Hòa bình – Độc lập – Tự do – Hạnh phúc là khát vọng tuyệt đối của Nhân dân Việt Nam. Con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng nguyện vọng. Sự lựa chọn con đường đi của mỗi dân tộc trên thế giới đều do lịch sử và nhân dân nước ấy tự quyết, trong đó có Việt Nam. Vậy mà các thế lực thù địch vẫn nuôi dưỡng, rắp tâm phủ nhận công trình đồ sộ, nguyện vọng chính đáng của nhân dân ta bằng mọi âm mưu, thủ đoạn hòng xóa bỏ thành trì CNXH ở Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “… lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”, và thực tiễn đã minh chứng điều vĩ đại đó”; “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Ngay từ khi
ra đời (tháng 02/1930), Đảng ta đã xác định rõ ràng và dứt khoát con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam là con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Vận dụng
sáng tạo những tư tưởng của Người trong tiến trình Cách mạng Việt Nam và nhất
là công cuộc đổi mới hiện nay, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội (CNXH)
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Trước hết,
sáng tỏ về mô hình, mục tiêu của CNXH Việt Nam - Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định 8 đặc
trưng, trong đó đặc trưng hàng đầu là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Các đặc trưng về vai trò làm chủ của nhân dân; về nền
kinh tế phát triển cao; về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về xã
hội và con người; về đoàn kết các dân tộc; về nhà nước pháp quyền và về hợp
tác, hữu nghị trong quan hệ quốc tế đã làm rõ bản chất tốt đẹp và tính hiện
thực của CNXH ở Việt Nam.
Những nội dung phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH, đó là:
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,
nhiều loại hình sở hữu theo định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa, xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; bảo đảm
vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ
động tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn dân
tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh.
Thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH cũng làm rõ hơn khả năng bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên CNXH. “Con đường đi lên CNXH của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại” [1]. Công cuộc đổi mới, xây dựng CNXH đòi hỏi
phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,
tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nâng cao năng lực dự báo, xử
lý có hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, giải quyết tốt các
mối quan hệ lớn phản ánh quy luật đổi mới và phát triển. Trong tổng kết 35 năm
đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011),
nhiều vấn đề được tổng kết để nhận thức rõ hơn và giải quyết những yêu cầu bức
thiết do thực tiễn đặt ra. Kế thừa thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó, Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”.
Trở lại với những thập niên 1991 của thế kỷ 20, khi còn Liên Xô
và hệ thống các nước XHCN thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam đã được
khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp
đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt
ra và trở thành tâm điểm thu hút bàn thảo, tranh luận gay gắt. Các thế lực
chống cộng, cơ hội chính trị ngốc đầu dậy nhân cơ hội này thừa cơ để xuyên tạc,
chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ
tính đúng đắn, khoa học của CNXH; cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải
đi con đường khác với nhiều luận điệu thù địch, công kích, bài bác CNXH, ca
ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa
bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển
khoa học - công nghệ. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được
những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó trước những biến động, khủng hoảng lớn
thời gian qua.
Những thành tựu đạt được của Việt Nam trong xây dựng đất nước
trước những thuận lợi đan xen nguy cơ, thách thức đã khẳng định vị thế, uy tín
và sức mạnh tổng hợp của đất nước, được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận,
đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta. Thành công hay thất
bại phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn
đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Hiện
nay, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại
nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững với các
khâu đột phá, trong đó phải nói đến việc hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát
triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng kết
cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội[2].
Về mặt xã hội, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác giảm nghèo bền vững, nâng
cao chất lượng y tế, giáo dục và các dịch vụ công ích khác, nâng cao hơn nữa
đời sống văn hóa cho nhân dân. Điều đó tiếp tục khẳng định chân lý của Đảng ta
trong giữ vững và thực hiện hài hòa mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật
thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và
xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa nhà nước và thị trường;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [3].
Đảng ta nhận thấy rằng, trong thời kỳ quá
độ, các nhân tố XHCN được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh
với các nhân tố phi XHCN, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh
vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ
chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Với tư cách là đảng cầm quyền lãnh
đạo toàn xã hội trong điều kiện khó khăn của đất nước và tình hình quốc tế có
nhiều biến động nhanh chóng và phức tạp, từ kinh nghiệm lịch sử cách mạng,
trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới; luôn khẳng định “vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước”[4];
sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới; đó
vừa là quy luật vừa là nhu cầu phát triển của đất nước. Nhìn tổng thể giữa
lý luận và thực tiễn, xây dựng CNXH là một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử
thách, khó khăn, lâu dài, không thể nóng vội. Mặt khác, Đảng lãnh đạo và cầm
quyền trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể
chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên
cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại.
Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi
quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế
giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Do đó, chúng ta phải chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ
quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi. Tiến hành đổi mới
một cách có nguyên tắc, tức là phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ
thực tiễn, bám sát thực tiễn, từ những bài học tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
đồng thời kiên định giữ vững ý chí, không ngả nghiêng trong bất kỳ hoàn cảnh
nào, không bảo thủ, cứng nhắc, giáo điều phiến diện, cực đoan, chủ quan, duy ý
chí; kiên định phải gắn liền và song hành với vận dụng, phát triển sáng tạo;
vận dụng và phát triển sáng tạo phải gắn chặt và đứng vững trên nền móng kiên
định những vấn đề có tính nguyên tắc phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế
phát triển của thế giới.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong mọi giai đoạn đều có vị
trí, vai trò và ý nghĩa lịch sử chính trị đặc biệt quan trọng, nhất là trong
tình hình hiện nay. Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Việt Nam - Nguyễn Phú Trọng, do Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia sự thật phát hành tháng 1/2022 với 29 vấn đề lớn được đề
cập và làm rõ trong cuốn sách đã thể hiện toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng
trong thực hiện “Đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH”. Cùng với hệ thống văn kiện của Đảng, cuốn sách này
tiếp tục đánh dấu “Bước chân” Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
sang trang mới sau tổng kết 35 năm đổi mới đất nước. Thời gian qua, nhiều địa
phương, tổ chức đã tổ chức hội nghị quán triệt, nghiên cứu, định hướng lý luận,
tọa đàm khoa học về giá trị tác phẩm trên cho ta thấy trách nhiệm lớn lao trong
nghiên cứu, học tập và thực hiện.
Hơn bao giờ hết, mỗi tập thể cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương
đến cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên, tầng lớp tri thức là lực lượng tiên
phong của đất nước ra sức bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; ra sức tự rèn
luyện, tu dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng; thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần – kiệm – liêm – chính – chí công vô tư; phải giữ gìn
Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ bảo vệ hệ tư tưởng
của Đảng mà còn bảo vệ thành quả cách mạng hiện chúng ta đang xây dựng, trong
đó “Ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”
là sợi chỉ đỏ xuyên xuốt của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta với nguyên tắc tối
cao là bảo vệ triệt để lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Đồng thời đập
tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch và phần tử phản động chống
phá Đảng, Nhà nước ta trên mọi lĩnh vực, trong đó công tác xây dựng Đảng phải
được bảo vệ vững chắc trên nền tảng thành trì hệ tư tưởng của Đảng. Mỗi công
dân nước Việt Nam ta luôn tự hào rằng “Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta,
là tất yếu khách quan sự lựa chọn đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
[1] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.84.
[2] Văn kiện Đại hội XIII, tập 2, trang 337 – 338
[3] ĐCSVN: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,
tr.17-18.
[4] GS. TS. Nguyễn Phú Trọng: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Sđd, tr. 36.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét