Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Cảnh giác với hành vi cổ súy cho ‘cách mạng màu’

Trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội xuất hiện nhiều hình ảnh về cuộc xung đột vũ trang ở Myanmar và cuộc biểu tình, bạo loạn tại Bangladesh, Venezuela. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phần tử phản động lưu vong đã tung tin xuyên tạc, kích động những người thiếu hiểu biết nhằm thực hiện âm mưu “cách mạng màu” tại Việt Nam.

các cuộc cách mạng màu đều khiến các quốc gia chìm trong bất ổn
Các cuộc "cách mạng màu" đều khiến các quốc gia chìm trong bất ổn. Ảnh minh họa

Âm mưu kích động “cách mạng màu”

“Cách mạng màu” là thuật ngữ chỉ các cuộc bạo lực chính trị có tổ chức, chính biến phi vũ trang ở quốc gia có chủ quyền nhằm lật đổ nhà nước đương nhiệm, gây ra khủng hoảng chính trị bằng phương thức bất bạo động, có sự kết hợp giữa những kẻ chủ mưu trong nước và thế lực bên ngoài, thông qua cái gọi là “giương cao ngọn cờ dân chủ”, lôi kéo người dân tuần hành, biểu tình, bạo loạn lật đổ.

Nếu như trước đây, đối tượng nhắm đến là các quốc gia theo chế độ XHCN, thì hiện nay “cách mạng màu” còn diễn ra ở các nước có xu hướng không thân thiện với Mỹ và phương Tây. Vì vậy, trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến hàng loạt cuộc “cách mạng màu” nổ ra ở các nước có thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng thuộc Trung Đông và Bắc Phi hay khu vực Đông Âu là Gruzia, Ukraine… dẫn đến các quốc gia đó rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và hệ quả của nó vẫn kéo dài đến tận bây giờ.

Thời gian qua, thông tin, hình ảnh về biểu tình, bạo loạn tại Venezuela, Bangladesh và đặc biệt là Myanmar. Cùng đó, từ biểu tình chống chính phủ sang xung đột vũ trang và sắc tộc. Các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội, thông qua các nền tảng như Facebook, Telegram, YouTube… để thực hiện âm mưu lôi kéo người dân các nước tham gia vào “đám đông cách mạng màu”.

Các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong, các đối tượng chống đối đã triệt để lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc thông tin và hướng lái dư luận theo mục đích khác.

Thông qua các hình thức bình luận chuyên đề, hội luận, chúng lồng ghép ý đồ xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bôi nhọ lãnh tụ dân tộc và vai trò lãnh đạo của Đảng, âm mưu kích động bạo loạn, biểu tình tại Việt Nam. Các trang như Việt Tân hay Chân trời mới Media thì tung hứng kiểu “Liệu Việt Nam có giống như Venezuela”; “chúc mừng người dân Bangladesh thay đổi chế độ độc tài, bao giờ tới Việt Nam”…

venzuela.jpg
Các cuộc biểu tình gây bất ổn ở Venezuela.

Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng không gian mạng nhằm tuyên truyền, kích động người dân cổ súy cho việc thay đổi nền tảng xã hội. Từ chiêu bài dân quyền, dân chủ, chúng kêu gọi người đọc thực hiện “cách mạng màu”, trước mắt là “cách mạng màu online”. Chúng lợi dụng những vấn đề nóng trong đời sống xã hội như ô nhiễm môi trường, khiếu kiện đất đai, chủ quyền biển đảo nhằm đả kích, bêu xấu chế độ XHCN mà Việt Nam đang xây dựng. Từ đó, chúng kêu gọi thay đổi để đi theo mô hình dân chủ của Mỹ và phương Tây…

Cần cảnh giác cao, nhất là lớp trẻ

Điều dễ nhận thấy là ở các cuộc “cách mạng màu” đã xảy ra, vai trò của lớp trẻ, sinh viên, học sinh khá lớn. Các đối tượng cầm đầu đã kích động tâm lý muốn thể hiện bản thân, muốn thành người truyền cảm hứng của lứa tuổi này để lôi kéo, lợi dụng.

Tất nhiên, ở những nước xảy ra “cách mạng màu”, lợi ích đâu chưa thấy, chỉ thấy hàng chục năm trời, các quốc gia đó vẫn chìm trong xung đột, bất ổn kéo dài. Bởi lẽ, mục đích của các đối tượng thực hiện “cách mạng màu” là biến đất nước đó trở nên bất ổn để phục vụ cho lợi ích của chúng, không quan tâm đến lịch sử, dân tộc, không vì tự do, hạnh phúc của người dân.

Hầu hết các cuộc bạo loạn lật đổ đều mang tính manh động, thiếu kiểm soát. Từ đó, các nước lớn tìm cách can dự với những mưu đồ chính trị riêng, phục vụ cho lợi ích riêng. Cùng với đó, việc lợi dụng triệt để truyền thông và mạng xã hội để chống phá càng khiến tình hình ngày càng trở nên mất kiểm soát...

bình thuận
Sự kiện người dân tụ tập theo kêu gọi của các đối tượng, tổ chức phản động xảy ra đáng tiếc ở Bình Thuận năm 2018.

Tại Việt Nam, thời gian qua, một số tổ chức phản động thường đội lốt “dân chủ”, “nhân quyền”, “xã hội dân sự” để kêu gọi, cấu kết lực lượng thực hiện ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước. Hành vi của chúng đã gây tác động tiêu cực đến đời sống chính trị, xã hội nước ta, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Các tổ chức này tìm cách móc nối, tuyển chọn một số thanh niên trong nước đưa ra nước ngoài đào tạo nhưng thực chất là để tập hợp lực lượng, kích động bạo loạn, biểu tình trong nước, gây dựng các tổ chức chính trị đối lập.

Chúng cài cắm người vào các hội, nhóm sinh viên, thanh niên để đăng tải các bài viết, hình ảnh xuyên tạc về tình hình Việt Nam. Từ đó, nhen nhóm, nuôi dưỡng tư tưởng “làm cách mạng”, “làm leader” (lãnh đạo). Đặc biệt, thông qua các nhóm kín trên Telegram, Facebook, chúng nhồi nhét “giấc mơ Mỹ”, những hình ảnh hào nhoáng về xã hội thượng lưu, sung sướng ở nước ngoài. Đây là một trong những hình thức chống phá rất nguy hiểm mà mỗi phụ huynh và sinh viên, học sinh cần cảnh giác cao độ.

Các cơ quan chức năng cần quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền với sinh viên, thanh niên, trí thức. Các tổ chức chính trị, xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam… cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, cảnh báo để thanh niên, sinh viên hiểu rõ âm mưu và bản chất của “cách mạng màu”, tránh xa các tổ chức đội lốt xã hội dân sự, các phong trào mạo danh “yêu nước”, nhưng thực chất là kêu gọi tụ tập, gây rối an ninh, trật tự. Trong đó, cảnh giác cao với các khoản học bổng núp dưới danh nghĩa tổ chức phi chính phủ (NGO) hoặc các tổ chức dân sự trá hình.

Nhiều đối tượng, tổ chức phản động xúi dục người dân tham gia các sự kiện biểu tình, chống đống, gây bất ổn xã hội.
Nhiều đối tượng, tổ chức phản động xúi dục người dân tham gia các sự kiện biểu tình, chống đối, gây bất ổn xã hội.

Đồng thời, thiết lập các diễn đàn hữu ích trên các mạng xã hội với nhiều hình thức phong phú để thu hút cộng đồng trẻ tham gia. Tại các diễn đàn đó, cần cung cấp thường xuyên các âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” để lớp trẻ nhận diện và cảnh giác.

Cùng với đó, đẩy mạnh tuyên truyền về các giá trị lịch sử, niềm tự hào dân tộc, để mỗi người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ Việt Nam ngày hôm nay hiểu được giá trị vĩ đại của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp đổi mới. Đó cũng là cơ sở để giới trẻ không bị mơ hồ, ảo tưởng bởi những luận thuyết kêu gọi cách mạng đường phố, phản kháng phi bạo lực, xúi giục đấu tranh đòi lật đổ chế độ mà kẻ địch rêu rao “vì tương lai tốt đẹp”. Qua đó, “tạo đề kháng” cho thế hệ trẻ và người dân với thông tin xuyên tạc, sai sự thật, kích động từ các tổ chức và đối tượng chống đối.

Cảnh giác chiêu trò lợi dụng giới trẻ để thực hiện “Cách mạng màu” ở Việt Nam

  

Trong những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, thế giới chứng kiến hàng loạt cuộc “Cách mạng màu” nổ ra ở các nước có thể chế chính trị đa nguyên, đa đảng thuộc Trung Đông và Bắc Phi hay khu vực Đông Âu là Gruzia, Ukraine và gần đây là các nước Venezuela, Bangladesh,… dẫn đến các quốc gia đó rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và hệ quả của nó vẫn kéo dài đến tận bây giờ. Điểm chung của thủ đoạn “Cách mạng màu” là nhen nhóm lên những bất mãn, mưa dầm thấm lâu, tạo những “đốm lửa” phá hoại để tổ chức kích động, bạo loạn, thế lực thù địch bên ngoài đóng vai trò “đạo diễn”, lực lượng bên trong giữ vai trò “thực thi”.Thời gian gần đây,ở Việt Nam,các đối tượng lợi dụng những vấn đề nóng trong đời sống chính trị, xã hội trong nước để tấn công như công tác bố trí cán bộ cấp cao của Đảng, các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, sự tha hóa, xuống cấp về đạo đức của một số chức sắc các tôn giáo, sự việc gần 1.000 công dân Việt Nam di cư bất hợp pháp bị mắc kẹt tại sân bay Brazil và đặc biệt là phát ngôn nông cạn, thiếu chuẩn mực của nam học sinh lớp 12 Chu Ngọc Quang Vinh từng tham gia chương trình “Đường lên đỉnh Olympia được chia sẻ rầm rộ,tràn lan trên không gian mạng thông qua các nền tảng như Facebook, Telegram, Youtube… Ngay lập tức,các trang mạng như: RFA,Việt Tân, Chân trời mới Media, Dân làm báo… tung ra các bài viết “Liệu Việt Nam có giống như Venezuela”, “Chúc mừng người dân Bangladesh thay đổi chế độ độc tài, bao giờ tới Việt Nam”,“Phát biểu của Chu Ngọc Quang Vinh ngày 02/9 có khác gì bản tuyên ngôn của thế hệ trẻ”, “Chu Ngọc Quang Vinh không chỉ là một nhân tài, mà còn là một người dũng cảm. Dân tộc ta đang cần những người trẻ như thế”, “Anh hùng tuổi trẻ”.vv. Thực chất, phương thức, thủ đoạn trên mạng xã hội không có gì mới. Tuy nhiên, gần đây các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đội lốt phản biện xã hội dưới nhiều hình thức khác nhau như đóng góp ý kiến, bày tỏ quan điểm nhằm thực hiện chiến lược “ngụy sử, lật sử, tẩy trắng lịch sử dân tộc”, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nướcĐặc biệt là chúng triệt để tận dụng phương thức truyền thông hiện đại, ứng dụng công nghệ AI, đưa giọng nói “thổi” vào các hình ảnh, video cắt ghép, tung tin, xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo các sự kiện chính trị, bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng, khoét sâu vào những vụ việc tham nhũng, tiêu cực, công tác bố trí cán bộ cấp cao của Đảng, các vấn đề bức xúc, nổi cộm để tấn công, làm suy giảm lòng tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, thực hiện âm mưu kích động bạo loạn, biểu tình tại Việt Nam.Đối tượng mà các thế lực thù địch nhắm đến là số đối tượng chống đối trong nước, những người có định kiến với Đảng, Nhà nước, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đặc biệt tìm mọi cách tác động vào thế hệ trẻ, đây là lực lượng chiếm tỷ lệ đông đảo trong các cuộc biểu tình của “Cách mạng màu” đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới như ở Bangladesh và Venezuela.

Anh-tin-bai
          Ảnh minh họa                   

Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu, thủ đoạn chống phá ngày càng tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch, các địa phương, đơn vị cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là,cần thực hiện nhiều giải pháp cơ bản, đồng bộ, ngăn chặn không để lan truyền các thông tin xấu, độc trên không gian mạng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, các tin đồn thất thiệt trên mạng internet và các nền tảng xã hội.

Hai là, các cấp ủy Đảng,các tổ chức chính trị, xã hội như Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam... cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, cảnh báo để đoàn viên, thanh niên, sinh viên hiểu rõ âm mưu và bản chất của “Cách mạng màu”, tránh xa các tổ chức đội lốt xã hội dân sự, các phong trào mạo danh “yêu nước” nhưng thực chất là kêu gọi tụ tập, gây rối an ninh, trật tự; cảnh giác với các khoản học bổng núp dưới danh nghĩa tổ chức phi chính phủ (NGO) hoặc các tổ chức dân sự trá hình.Tăng cường công tác giáo dục nâng cao nhận thức, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên, thiếu niên và học sinh bằng nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn, thông qua những việc làm thiết thực kết hợp với việc giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội và phù hợp với từng đối tượng, giúp thế hệ trẻ nhận thức đúng đắn, tự hào và trân trọng lịch sử, trân quý những hy sinh, đóng góp của thế hệ đi trước,tự hào về đất nước, dân tộc, sống có lý tưởng, hoài bão, có ý thức chấp hành pháp luật.

Ba là, tổ chức đấu tranh thường xuyên, kịp thời với các thông tin xấu độc, các tin đồn lan truyền trên mạng xã hội. Khơi dậy ý thức cảnh giác cao độ của mỗi công dân sử dụng mạng xã hội, nhất là cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Các cấp ủy Đảng, các đoàn thể chính trị - xã hội và hệ thống các trường từ trung học phổ thông đến các trường đại học cần thường xuyên tổ chức các hội nghị, cuộc họp chuyên đề về đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng để mỗi công dân mạng nâng cao ý thức đấu tranh, tự tạo cho mình sức đề kháng, nhận thức rõ bản chất đúng - sai của thông tin xấu độc, gương mẫu, chuẩn mực khi tham gia môi trường mạng,không “vào hùa” theo đám đông chia sẻ, nhận xét, phê bình trước một thông tin, sự kiện khi chưa hiểu rõ về vụ việc, không bị mắc bẫy khi chia sẻ, lan truyền các tin đồn,vi phạm Luật an ninh mạng. Đặc biệt, quan tâm đến công tác tuyên truyền đối với sinh viên, thanh niên, trí thức; đây là lực lượng chiếm tỷ lệ đông đảo trong các cuộc biểu tình của “Cách mạng màu” đã xảy ra ở nhiều nước trên thế giới. Đồng thời, cần nghiêm khắc đấu tranh, phê phán những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác trong một bộ phận Nhân dân, học sinh, sinh viên.

Bốn là, các cơ quan chức năng cần xây dựng và phát huy vai trò của thông tin chính thống trên các nền tảng truyền thông và không gian mạng; qua đó, cung cấp thông tin chính thống nhanh và chính xác cho các địa phương, cơ quan, đơn vị, trường học để chia sẻ, lan tỏa kịp thời, tránh tạo khoảng trống thông tin để các đối tượng phản động lợi dụng phát tán các thông tin xuyên tạc. Từ đó, tạo ra không gian an toàn cho mọi đối tượng được tiếp cận với thông tin chính thống để “miễn nhiễm” thông tin xuyên tạc, sai sự thật, kích động từ các tổ chức và đối tượng chống đối, phòng ngừa “từ sớm, từ xa” trước những thách thức và nguy cơ về “Cách mạng màu”. Đồng thời, yêu cầu các mạng xã hội như facebook, google, tiktok... phải tuân thủ pháp luật, bóc gỡ các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng đạo đức xã hội và vi phạm luật pháp của Việt Nam, đấu tranh và xử lý kịp thời, nghiêm minh với các hành vi, vi phạm trên mạng xã hội./.

Thực tiễn bác bỏ sự xuyên tạc về đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”

Nhằm hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, các thế lực thù địch, phản động ra sức xuyên tạc đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Nhưng thực tiễn thành tựu trong công tác đối ngoại của nước ta đã bác bỏ mọi sự xuyên tạc.

Trong những năm gần đây, ngoại giao “cây tre Việt Nam” là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến khi đề cập đến hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đây là sự khái quát, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện, trên cơ sở quán triệt phương châm đối ngoại mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Thuật ngữ ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sử dụng lần đầu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (ngày 22/8/2016). Đến Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (ngày 14/12/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục khẳng định: “Có thể khái quát, hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái,…”1. Sự khẳng định đó đã làm rõ nguồn gốc và đặc trưng của đường lối đối ngoại thời đại Hồ Chí Minh mang đậm bản sắc trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”.

Đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao đó được nhân dân ta tin tưởng, cộng đồng quốc tế đánh giá cao; bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng. Thế nhưng, để phủ nhận các thành quả của cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo, cùng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình xuyên tạc đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” bằng nhiều luận điệu mang tính kích động, phủ định, bôi nhọ. Họ xuyên tạc trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là “ba phải”, “hai mặt”, “gió chiều nào che chiều ấy”, “không có lập trường nhất quán, ổn định”, là “bắt cá hai tay”… nên không thể tin cậy được(!). Họ cho rằng, trong thời đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các quốc gia, dân tộc có mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ; trong khi đó, đường lối ngoại giao “cây tre” của Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “trì trệ”, “tự tách mình ra khỏi dòng chảy của lịch sử”, không phù hợp(!). Họ phê phán chủ trương “bốn không”2 của Việt Nam trong hoạt động đối ngoại quốc phòng là “dại dột”, “tự trói tay mình”, “tự cô lập mình”. Từ đó, họ “khuyên” Việt Nam nên chọn theo (hay dựa vào) nước này để chống nước kia và ngược lại(!).

Có thể khẳng định ngay rằng, những luận điệu nói trên của các thế lực thù địch, phản động là hoàn toàn sai trái, cần kiên quyết bác bỏ. Trên phương diện lý luận, việc sử dụng cụm từ ngoại giao “cây tre Việt Nam” là sự khái quát rất cao về lý luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trên cơ sở đúc kết thực tiễn lịch sử và bản sắc độc đáo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam - một nền ngoại giao được xây dựng, phát triển trên cơ sở kế thừa, vận dụng sáng tạo tư tưởng, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh, bản sắc văn hóa và ngoại giao của dân tộc đã trường tồn qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hình tượng “cây tre Việt Nam” phản ánh sinh động, nhưng dễ hiểu về những nội dung cốt lõi và bản sắc độc đáo của nền ngoại giao nước ta. Theo đó, “Vững ở gốc” là sự kiên định về mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm nguyên tắc hàng đầu, “bất biến”; là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. “Chắc ở thân” là những phương pháp tạo nên sức mạnh, thực hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố căn bản, sống còn, quyết định, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng; là giương cao ngọn cờ chính nghĩa, nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. “Uyển chuyển ở cành” là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết tiến, biết thoái”, “biết dừng, biết biến”, “biết nhu, biết cương” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Trên phương diện thực tiễn, cách mạng nước ta hơn 90 năm qua, từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đã chứng minh rất rõ: các hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần giành lại và củng cố vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; phục vụ đắc lực, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân; tăng cường thế và lực, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, góp phần vào xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển. Từ một nước bị bao vây, cấm vận nhiều mặt, nhưng với chính sách ngoại giao đúng đắn, giàu nhân văn, Việt Nam đã tạo được lòng tin đối với các tổ chức, các nước trên thế giới. Đến nay, trên bình diện song phương, chúng ta đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có 03 nước quan hệ đặc biệt, 07 nước đối tác chiến lược toàn diện3, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Quốc hội nước ta cũng có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân, phi chính phủ nước ngoài. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, các hoạt động đối ngoại của Việt Nam diễn ra sôi động, liên tục, đồng bộ, hiệu quả, củng cố vững chắc hơn cục diện đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần huy động nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế đất nước. Lãnh đạo chủ chốt của đất nước đã thực hiện 45 chuyến thăm tới các nước, đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống. Nước ta cũng đón gần 50 đoàn lãnh đạo các nước, tổ chức quốc tế tới thăm; trong đó, rất đáng chú ý là chuyến thăm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và chuyến thăm của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden trong năm 2023, đã tạo nên bước phát triển mới về chất trong cục diện đối ngoại và hội nhập quốc tế của đất nước. Cùng với đó, quan hệ với nhiều đối tác được nâng lên tầm cao mới, tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác ngày càng mở rộng, thực chất và hiệu quả hơn. Trên bình diện đa phương, nước ta là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như: Liên hợp quốc (UN), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (AIPA), Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới (IPU), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), v.v.

Thông qua ngoại giao “cây tre Việt Nam”, quan hệ đối ngoại quốc phòng và an ninh của nước ta cũng không ngừng được mở rộng. Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng chính thức với trên 100 quốc gia; trong đó có quan hệ với tất cả 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn; thiết lập tùy viên quốc phòng tại 33 nước, kiêm nhiệm tại 41 nước và Liên hợp quốc; có 52 quốc gia đặt tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự tại Việt Nam. Ở cấp độ đa phương, nước ta cũng là thành viên tích cực tham gia các cơ chế hợp tác, như: Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN, Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM) và ADMM+, v.v. Từ năm 1991, nước ta đã là thành viên của Tổ chức Cảnh sát Hình sự quốc tế (Interpol) và năm 2014, bắt đầu tham gia vào sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tính đến nay, Việt Nam đã cử hơn 800 lượt sĩ quan, nhân viên của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các Phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi, khu vực Abyei và Cục Hoạt động hòa bình tại trụ sở Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm với hòa bình thế giới.

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” cũng đã góp phần quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Nếu năm 1991, nước ta mới có quan hệ  kinh tế - thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay đã có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 nước và vùng lãnh thổ, thu hút hơn 400 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chỉ tính riêng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của nước ta đã đạt trên 680 tỉ USD, gấp 120 lần so với những năm đầu đổi mới, trong đó xuất khẩu đạt trên 354 tỉ USD; thu hút FDI đạt 36,6 tỉ USD, tăng 32,8%; nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã cam kết đầu tư dài hạn ở Việt Nam. Nước ta cũng đã tham gia ký kết và là thành viên của 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có 03 FTA thế hệ mới với tiêu chuẩn rất cao, như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), v.v.

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” không chỉ nhận được sự đồng thuận từ dư luận trong nước, mà còn được bạn bè quốc tế ghi nhận, ủng hộ. Ông Hàn Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc khẳng định: “Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”. Ông Amiad Horowitz, Ủy viên Ban Quốc tế, Ủy viên Ban Hòa bình và Đoàn kết Đảng Cộng sản Mỹ cho rằng: “Ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” là cách tiếp cận ngoại giao độc đáo, nhận được rất nhiều lời khen ngợi,… Bất kỳ ai quan tâm đến sự chung sống hòa bình đều cần phải nghiên cứu trường phái đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” để học được những bài học quan trọng”. Ngài Murayama Tomoichi, Cựu Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh: “Trong bối cảnh tình hình thế giới ngày càng phức tạp và xu thế toàn cầu hóa, đường lối ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” vừa linh hoạt, vừa kiên trì do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khởi xướng đã lãnh đạo Việt Nam với những đặc tính vốn có của cây tre là “mềm mỏng” nhưng lại “mạnh mẽ”, “kiên quyết không lùi bước”. Tư tưởng đó vừa vì hòa bình của Việt Nam, cũng vừa là đóng góp cho chung sống hòa bình với các nước châu Á và với các nước trên thế giới”.

Những thực tiễn nói trên đã khẳng định giá trị của đường lối đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” là không thể phủ nhận. Đường lối đó góp phần nâng cao sức mạnh, tiềm lực, vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế; đồng thời, góp phần quan trọng vào xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển. Đó là những minh chứng rất sinh động bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động về đường lối, chính sách đối ngoại theo trường phái “cây tre Việt Nam”.

Phê phán quan điểm cho rằng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy vậy, một số thế lực thiếu thiện chí vẫn có cái nhìn phiến diện, cho rằng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được chuyển biến căn bản cho sự nghiệp phát triển đất nước. Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, đòi hỏi chúng ta phải đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đạt được trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng đắn, khả thi, đáp ứng với đòi hỏi của thực tiễn, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã “tung ra” không ít những luận điệu sai trái, thù địch cho rằng: đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam là “thiếu khoa học, không khả thi”, không tạo ra được sự chuyển biến căn bản cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chúng còn xuyên tạc rằng, sự phát triển của Việt Nam là chậm so với các nước trong khu vực và thế giới. Hơn thế nữa, chúng rêu rao “võ đoán” rằng, những thành tựu mà đất nước ta đạt được gần 40 năm qua chỉ là “ăn may”, chứ không phải là do đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, khoa học, khả thi, v.v. Phải khẳng định ngay rằng, những quan điểm trên là hoàn toàn sai trái, phản khoa học, mang động cơ chính trị xấu, nhằm mục đích phủ nhận đường lối đổi mới, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; làm giảm sút lòng tin, cũng như tính tích cực chính trị - xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu cuối cùng của chúng là lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Tính khách quan, khoa học và khả thi của đường lối đổi mới của Đảng

Thực tế cho thấy, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, được mở đầu từ Đại hội VI của Đảng năm 1986, đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ quá trình vận động, biến đổi và phát triển của đất nước, do những quy luật khách quan chi phối, cùng với những đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, nhằm đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta đã tạo ra được những tiền đề nhất định để xây dựng chủ nghĩa xã hội; trong đó, tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, cải biến các mặt của đời sống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đất nước còn đứng trước nhiều thử thách, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng làm cho kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, v.v. Để đưa đất nước vượt qua khó khăn, có bước phát triển mạnh mẽ mang tính đột phá, nhất thiết phải thực hiện một sự thay đổi mang tính cách mạng, nhằm chuyển đổi mô hình quản lý và phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp với tình hình mới. Đó là cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986.

Ảnh minh họa. Nguồn: dangcongsan.vn

Có thể khẳng định, đường lối đổi mới của Đảng là khoa học, cách mạng và khả thi. Bởi đường lối ấy được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - học thuyết khoa học và cách mạng vì sự nghiệp giải phóng nhân loại, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, cũng như xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở nền tảng tư tưởng ấy, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới khoa học và cách mạng, mang tính sáng tạo, đột phá, được thể hiện tập trung ở ba trụ cột chủ yếu là: lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Theo đó, lý luận “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một sáng tạo đột phá của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lý luận về đường lối đổi mới. Lý luận này được đề xuất trên cơ sở tổng kết thực tiễn chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới thế kỷ XX, cũng như xuất phát từ thực tế khủng hoảng kinh tế - xã hội trong nước theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp đã tồn tại lâu dài trong chủ nghĩa xã hội. Lý luận này tạo ra bước ngoặt căn bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo tiền đề cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội IX của Đảng xác định mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”1. Từ Đại hội IX đến Đại hội XIII, lý luận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng được nhận thức, bổ sung, phát triển đầy đủ, sâu sắc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”2.

Tiếp đó, sự hình thành khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” là một trong những đóng góp quan trọng bổ sung, phát triển cơ sở lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, làm thay đổi căn bản lý luận về quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng là bước đột phá trong đổi mới tư duy chính trị của Đảng ta, đánh một dấu mốc quan trọng trong đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước ở nước ta nói riêng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cùng với đó, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội cũng là sự phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng. Thực tế cho thấy, dân chủ là một nội dung của cuộc cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ khi mới thành lập - cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Sau 40 năm đổi mới đất nước, từ quan điểm “Dân là gốc”, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đến “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã tạo cơ sở, điều kiện cho toàn thể nhân dân lao động Việt Nam thực hiện được những quyền và thụ hưởng được những lợi ích căn bản của mình, góp phần giải phóng, phát triển con người và hoàn thiện xã hội.

Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được coi là trụ cột của đường lối đổi mới. Bởi lẽ, ba yếu tố này tạo nên nền tảng cho chế độ kinh tế, chế độ chính trị và chế độ xã hội của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ba yếu tố này làm điều kiện, tiền đề cho nhau, vừa tạo ra sự vững chắc, ổn định, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo ra nền tảng vật chất cho nhà nước xã hội chủ nghĩa, thông qua vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; đồng thời, tạo ra cơ chế tự do, tự chủ thúc đẩy sự tiến bộ của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở cho sự giải phóng và phát triển con người. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo tính định hướng, cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, dân chủ trong xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ khi nào có dân chủ thực sự thì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới có môi trường phát triển đầy đủ, lành mạnh và khi có dân chủ thực sự thì quyền lực của nhà nước xã hội chủ nghĩa mới được thực thi một cách thực chất. Do đó, không thể phán bừa rằng đường lối đổi mới của Đảng là không khoa học, không có cơ sở lý luận và thực tiễn,... như những luận điệu xuyên tạc thường rao giảng.

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử gần 40 năm qua là minh chứng rõ nhất khẳng định tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau gần 40 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: “Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”3. Có được kết quả đó là nhờ có đường lối phát triển đúng đắn, “phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”4. Chính vì vậy mà cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước đang ngày càng được tăng cường, củng cố. Điều đó được thực tế minh chứng, bác bỏ những quan điểm, nhận định sai trái, phiến diện của các thế lực thù địch.

Hiện nay, Việt Nam là một quốc gia độc lập, toàn vẹn, có chủ quyền, được tất cả các nước trên thế giới trong Liên hợp quốc công nhận. Việt Nam có tiềm lực ngày càng mạnh mẽ về kinh tế, quân sự, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; tham gia các tổ chức quốc tế lớn, như: Liên hợp quốc, Hội đồng nhân quyền và nhiều tổ chức quốc tế khác. Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống, con người Việt Nam đang được phát huy mạnh mẽ, góp phần định hình những giá trị chung cho nhân loại.

Trên lĩnh vực kinh tế, quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Năm 2024, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 469,67 tỷ USD5. Thu nhập bình quân đầu người đạt ngưỡng 4.000 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào trong nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới và duy trì xuất siêu năm thứ bảy liên tiếp6. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam  nằm trong top 5 nước có quy mô kinh tế tăng nhiều nhất thế giới. 

Về chính trị, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Đảng Cộng sản cầm quyền ngày càng khẳng định vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị và đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

Về xã hội, việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển đạt được nhiều tiến bộ vượt bậc. Con người trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển. Người dân được thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt. Tuổi thọ trung bình, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe,… đạt mức độ tương xứng với trình độ phát triển của nhiều nước trên thế giới. Năm 2023, tuổi thọ trung bình của cả nước là 73,7 (năm 2022 là 73,6 tuổi), trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,5 tuổi7. Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao; từ năm 1990 đến năm 2022, giá trị HDI của Việt Nam thay đổi từ 0,492 lên 0,726, tăng gần 50%. Việt Nam  liên tục đạt được tiến bộ trong 30 năm qua8.

Về văn hóa, những giá trị cốt lõi của văn hóa, con người Việt Nam như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn, tự hào dân tộc, nhân cách, đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ,… được phát huy mạnh mẽ. Tính tích cực xã hội, sức sáng tạo, những năng lực bản chất nhất của con người Việt Nam được khơi dậy mạnh mẽ. Đây là sức mạnh vĩ đại, nguồn lực to lớn, mạnh mẽ, sống động,… thúc đẩy sự phát triển của quốc gia - dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. 

Về quốc phòng, an ninh, gần 40 năm đổi mới, đất nước luôn giữ được ổn định về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; quốc phòng được củng cố và bảo vệ vững chắc “Năm 2023, Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia cải thiện thứ hạng về chỉ số hòa bình, tăng 4 hạng lên vị trí 41/163 quốc gia và vùng lãnh thổ”9. Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động tích cực hội nhập quốc tế, là bạn là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, Việt Nam trở thành địa điểm gặp gỡ, giao lưu văn hóa, kinh tế, đối thoại an ninh, chính trị an toàn của nhiều quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế lớn trên thế giới, như: Chủ tịch ASEAN-2020, AIPA-41, Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 77; tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn Kinh tế Thế giới về ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều lần 2; Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA, Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, 2023 - 2025, Ủy ban Di sản Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 - 2017, Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 - 2018, v.v.

Thế giới đánh giá cao lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Phái bộ Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Nam Sudan, Khu vực Abyei và đội tham gia tìm kiếm, cứu nạn ở Thổ Nhĩ Kỳ..., qua đó góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhân văn và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v. 

Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 40 năm đổi mới đất nước đã minh chứng cho tính ưu việt về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính đúng đắn, khả thi của đường lối đổi mới và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như những nỗ lực của toàn thể nhân dân Việt Nam trong hành trình gian nan đó. Điều này bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động đối với đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.

“Phi chính trị hóa” Quân đội - một thủ đoạn không mới, nhưng phải luôn cảnh giác

“Phi chính trị hóa” Quân đội là một thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch thực hiện, nhằm vô hiệu hóa công cụ bạo lực để bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Tuy không mới, nhưng hết sức nguy hiểm, cần cảnh giác và chủ động có giải pháp phòng, chống hiệu quả.

Từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (những năm 90, thế kỷ XX), cho thấy, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định đến sự kiện đó là các thế lực thù địch đã thành công trong việc xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội - tức “phi chính trị hóa” quân đội.

Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch xác định “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục. Thực tế cho thấy, từ những năm 90, thế kỷ XX, mưu đồ chống phá Quân đội của chúng đã hiện hữu; mục đích sâu xa là làm cho Quân đội xa rời sự lãnh đạo của Đảng, phân rã về tư tưởng, lỏng lẻo về tổ chức, mơ hồ về đối tượng, đối tác. Cán bộ, chiến sĩ xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, “chán Đảng, khô đoàn, xa rời chính trị”. Chúng đưa ra mô hình quân đội một số nước và viện dẫn “lý luận” để chứng minh quân đội không liên quan đến chính trị. Chúng lập luận rằng: Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vì thế, Quân đội chỉ cần trung thành, bảo vệ lợi ích của nhân dân, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các vấn đề liên quan đến quân sự, quốc phòng phải được nhân dân bàn bạc công khai và quyết định, thông qua diễn đàn Quốc hội. Lợi dụng chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại các doanh nghiệp quân đội, chúng ra sức xuyên tạc, chia rẽ, kích động, quy chụp,... cho đó là biểu hiện tham nhũng, lợi ích nhóm, đặc quyền, đặc lợi của một bộ phận cán bộ trong Quân đội. Đồng thời, lợi dụng những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội để kích động, gây mâu thuẫn giữa lãnh đạo, chỉ huy với cán bộ, chiến sĩ, phá hoại khối đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Quân đội. Nguy hiểm hơn, chúng còn sử dụng in-tơ-net để tán phát những bài viết, clip, thổi phồng, xuyên tạc sự thật, khoét sâu mâu thuẫn,... nhằm kích động tư tưởng công thần, địa vị, bè phái, cục bộ địa phương, đòi hưởng thụ đãi ngộ; kêu gọi Quân đội ta từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, liên minh với quân đội một số nước để tiến lên hiện đại, trở thành quân đội “nhà nghề” như quân đội các nước tư bản, v.v.

Về bản chất, âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của chúng là nhằm chuyển hướng chính trị của Quân đội ta từ quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sang kiểu quân đội tư bản, nhà nghề do giai cấp tư sản lãnh đạo, phục vụ cho mục đích của giai cấp tư sản. Từ đó, làm cho Quân đội ta mất phương hướng chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các bước tiếp theo giống như kiểu: “Mùa xuân A-rập”, “Cách mạng Hoa hồng”, “Cách mạng Đường phố”, “Cách mạng Cam”,... mà chúng đã thành công ở hàng loạt nước trên thế giới. Bởi vậy, đề cao cảnh giác, chủ động nhận diện và đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn, nhất là những thủ đoạn mới của chúng vẫn là nhiệm vụ mang tính thời sự cấp bách, cần có hệ thống giải pháp phòng, chống đồng bộ, hiệu quả.

Thứ nhất, bất luận trong hoàn cảnh nào, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nguyên tắc bất biến, được rút ra từ thực tiễn lịch sử nhân loại và quá trình tổ chức, xây dựng Quân đội từ khi thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đến nay. Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, một nhà nước nhất định. “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản”1. Chính trị của Quân đội ta là chính trị của Đảng; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng; hệ tư tưởng chính trị của Quân đội ta là hệ tư tưởng chính trị của Đảng, với nền tảng là chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân; trong đó, tính nhân dân, tính dân tộc được biểu hiện hết sức sâu sắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã cùng nhân dân đánh thắng những kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, lập nên những kỳ tích vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Điều đó chứng tỏ: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”2. Trong tình hình mới, sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta nói chung, Quân đội nói riêng ngày càng tinh vi, xảo quyệt, quyết liệt,... đòi hỏi toàn quân phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, giữ vững ổn định chính trị, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Trong đó, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội là nhân tố quyết định giữ vững định hướng chính trị, bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; quyết định phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; chủ động xử trí kịp thời, hiệu quả mọi tình huống, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thứ hai, tăng cường xây dựng vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Đây là nội dung xuyên suốt từ khi ra đời, xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta đến nay. Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội ta) tháng 12-1944, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự”3. Trước diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới hiện nay và sự chống phá của các thế lực thù địch, yêu cầu đặt ra đối với xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức là phải luôn nắm vững, vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng quân đội kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân”4. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động công tác đảng, công tác chính trị; thực hiện tốt Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”; tăng cường giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của dân tộc; truyền thống lịch sử của Quân đội, đơn vị; nâng cao ý chí quyết tâm bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân trong tình hình mới. Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, phong trào Thi đua Quyết thắng và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Thường xuyên nắm chắc diễn biến tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ, bảo đảm chất lượng công tác phát triển đảng viên, đoàn viên; xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức quần chúng vững mạnh, nhạy bén về chính trị, kịp thời ngăn chặn sự thẩm thấu, xâm nhập của các luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội.

Thứ ba, tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”. Cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã và đang triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”, phù hợp xu hướng phát triển quân sự trên thế giới và sự tác động của cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư hiện nay. Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về mọi mặt, không những giỏi đấu tranh vũ trang, mà còn giỏi trong đấu tranh phi vũ trang và tác chiến trên không gian mạng,... đáp ứng yêu cầu “giữ nước từ khi nước chưa nguy”; “ngăn ngừa, loại bỏ các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa”; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, quyết liệt quan điểm của Đảng và Quân ủy Trung ương về xây dựng Quân đội trong tình hình mới; bảo đảm quân số hợp lý, chất lượng cao, đồng bộ về tổ chức, biên chế, thành phần lực lượng. Kết hợp giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách; quản lý chặt chẽ tình hình nội bộ, nhất là các tiêu chí: phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực,... khi tuyển dụng cán bộ, nhân viên, chiến sĩ vào các cơ quan, đơn vị.

Thứ tư, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng môi trường văn hoá quân sự lành mạnh. Thực tiễn cho thấy, nếu điều kiện đời sống vật chất, tinh thần và môi trường văn hóa quân sự đáp ứng tốt nhu cầu chính đáng của cán bộ, chiến sĩ sẽ thường xuyên tác động đến mọi mặt hoạt động, giúp bộ đội yên tâm công tác, lạc quan, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Qua đó, tạo sự “miễn dịch”, tăng sức “đề kháng” phòng ngừa sự tác động, xâm nhập của mặt trái xã hội vào môi trường Quân đội, góp phần phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội. Để làm được điều đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan đơn vị cần thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt việc bảo đảm đúng, đủ, kịp thời mọi chế độ, tiêu chuẩn theo quy định về đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Tích cực xây dựng môi trường tập thể quân nhân lành mạnh, đảm bảo mỗi cơ quan, đơn vị thực sự là một điểm sáng văn hoá, nơi giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ thành con người mới, cùng chung lý tưởng cách mạng, mục tiêu phấn đấu và hiệu quả công tác. Mọi hoạt động liên quan đến quyền lợi của cán bộ, chiến sĩ phải được công khai và thực hiện nghiêm túc. Động viên bộ đội tích cực tăng gia sản xuất, cải thiện đời sống; tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, giao lưu, kết nghĩa, làm công tác dân vận, quan tâm đúng mức đến gia đình quân nhân và giải quyết tốt chính sách hậu phương Quân đội.

Thường xuyên nêu cao cảnh giác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội là vấn đề trọng yếu hiện nay, quyết định đến việc giữ vững và phát huy bản chất, truyền thống của Quân đội ta, bảo đảm cho Quân đội luôn trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Đó là trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ, trước hết thuộc về cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân.

Phản bác luận điệu xuyên tạc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “đấu đá nội bộ, phe cánh”

 Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm để tung ra các luận điệu sai trái, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhất là về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta. Chúng rêu rao rằng, “đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “đấu đá nội bộ, phe cánh”, “thanh trừng phe phái”…(?!). Đây là thủ đoạn hết sức thâm độc, nhằm làm giảm sút uy tín của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần tỉnh táo, nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn trên, đồng thời phải tích cực đấu tranh phản bác.

Cần “phương thuốc đặc trị” cho căn bệnh tham nhũng

“Bệnh tham nhũng” trong cán bộ, đảng viên được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn đạt trong một thuật ngữ chung nhất là tham ô. Người cho rằng: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi, đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư. Nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà; hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân; hại đến đạo đức cách mạng của người cán bộ và công nhân”(1). Đó là “giặc nội xâm”, là loại giặc “vô hình, vô cảm”, là “kẻ địch trong người, trong nội bộ”(2) vô cùng nguy hiểm. Nó “luôn luôn lẩn lút trong mình ta”, “khó thấy, khó biết”; đó là “một cuộc chiến đấu khổng lồ” để “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”(3).

Để phòng, chống tham nhũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Chính phủ; cần xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; phải làm cho quần chúng nhân dân khinh ghét, xa lánh tham ô, lãng phí; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân,…

Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII (năm 1994), Đảng ta xác định tham nhũng và tệ quan liêu là một trong bốn nguy cơ, thách thức lớn, cản trở công cuộc đổi mới đất nước. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII khẳng định: “Tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”(4); Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ đe dọa sự sống còn của chế độ ta”(5). Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đầy lùi... Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”(6).

Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp... làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(7); Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay” xác định, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Đại hội lần thứ XII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”(8). Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa của Đảng và chế độ ta”(9).

Như vậy, việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra; từ vị thế, uy tín của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng; từ đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng trong sạch, vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đến bến bờ vinh quang. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm cho nội bộ mất đoàn kết, không phải giữa các “phe cánh”, mà góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững, củng cố niềm tin vững chắc của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với các đồng chí Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực_Ảnh: Tư liệu

Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khẳng định sức mạnh của kỷ luật đảng, không có trường hợp ngoại lệ đối với bất kỳ ai nếu lòng dạ không trong sáng; nói và làm trái với quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; vi phạm những điều đảng viên không được làm; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe nghiêm khắc đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không tham lam, không hám danh lợi, chức tước, bổng lộc. Từ đó, khơi dậy ý chí, khát vọng vươn lên không ngừng trong toàn xã hội, ở mọi lĩnh vực, ngành nghề; động viên, khích lệ, cổ vũ nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”(10).

Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định số 162-QĐ/TW, ngày 1-2-2013, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do Tổng Bí thư làm Trưởng Ban chỉ đạo, nhận được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của toàn xã hội, tạo ra tâm lý phấn khởi, khí thế mới trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Ngay sau khi được thành lập, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong giai đoạn 2013 - 2020, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 131.000 đảng viên. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến tháng 12-2020, đã thi hành kỷ luật hơn 87.000 cán bộ, đảng viên, trong đó, có trên 3.200 đảng viên bị kỷ luật liên quan đến tham nhũng; đã thi hành kỷ luật hơn 110 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (11).

Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 11-2022, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 69 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có 7 Ủy viên Trung ương Đảng, 6 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng gồm 5 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng; 7 bí thư, nguyên bí thư tỉnh ủy; 2 chủ tịch, nguyên Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; 18 thứ trưởng, nguyên thứ trưởng và tương đương; 13 chủ tịch, nguyên chủ tịch tỉnh; 4 nguyên phó bí thư thường trực tỉnh ủy; 20 sĩ quan cấp tướng(12).

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát các tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp khi có dấu hiệu vi phạm để xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Đảng, Nhà nước. Nhiều vụ án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng đã để lại những hậu quả lớn, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên, nhân dân, được cơ quan, chức năng phát hiện, điều tra, khởi tố, truy tố, xét xử trước pháp luật, như: Vụ án xảy ra tại Công ty Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao); các vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Công ty AIC; vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát… Đặc biệt, sau khi ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh được thành lập, kiện toàn, nhiều địa phương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát, khởi tố, truy tố nhiều tập thể, cá nhân có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực. Thực tiễn cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cho thấy, sức mạnh và uy tín của Đảng ngày càng được củng cố, tăng cường, nội bộ đoàn kết, thống nhất, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế. Cùng với đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng, Nhà nước tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, củng cố quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại. Năm 2022, tăng trưởng GDP của cả nước ước đạt 8,02%, mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2011 - 2022. Các ngành, lĩnh vực chủ yếu của một nền kinh tế đều phục hồi, phát triển mạnh. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2021. Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm 25 nền kinh tế hàng đầu thế giới về thương mại. Công tác phát triển văn hóa, xã hội được đặc biệt quan tâm. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Những kết quả thực tiễn nêu trên là minh chứng thuyết phục, đập tan luận điệu xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch khi cho rằng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “đấu đá nội bộ, phe cánh”. Đồng thời khẳng định, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta là đúng đắn, kịp thời, hiệu quả. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm nhụt ý chí, chùn bước, ngược lại càng làm đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân thêm tin tưởng, phấn đấu cho sự nghiệp phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Hiện nay, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt còn gay gắt, phức tạp hơn, nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi, còn xảy ra ở nhiều nơi, ở hầu hết các lĩnh vực… Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời, đập tan luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Một là, đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng để tăng cường sức mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng: “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, vì sự nghiệp cách mạng chung và công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Theo đó, trong chính nội bộ Đảng phải trên dưới đồng chí, đồng lòng, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của tham nhũng, tiêu cực; tránh nói khác, làm khác với quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cần gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức vì nhiệm vụ chung.

Hai là, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo chủ chốt các cấp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Lãnh đạo chủ chốt các cấp phát huy vai trò nêu gương trong công việc, đời sống, sinh hoạt hằng ngày, phải thực sự liêm khiết, chính trực, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương; là hạt nhân đoàn kết, quy tụ sức mạnh trí tuệ của tập thể trong thực hiện các nhiệm vụ; xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; luôn đặt lợi ích của Đảng, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Khi phát hiện trong cơ quan, đơn vị, địa phương có dấu hiệu bè phái, cục bộ, nội bộ không đoàn kết, thống nhất, cần chấn chỉnh, xử lý dứt điểm, không để kéo dài; đặc biệt, cán bộ chủ chốt các cấp phải có “đức, tầm, tâm, trí” trong điều hành, giải quyết những việc khó, việc mới, các vấn đề phức tạp nảy sinh nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho cơ quan, đơn vị, địa phương phát triển. Lãnh đạo chủ chốt các cấp ngoài năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý, cần phải thực sự trong sạch, coi trọng danh dự, uy tín. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất(13).

Ba là, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, “kiểm tra, giám sát là thanh bảo kiếm để chữa lành các vết thương(14). Theo đó, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là tập trung vào những nội dung trọng tâm, trọng điểm dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như đấu thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình, dự án, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ…; nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp. Các thành viên của ủy ban kiểm tra các cấp nắm rõ chức trách, nhiệm vụ; tiến hành kiểm tra, giám sát khách quan, công tâm, minh bạch, không được có động cơ cá nhân, áp đặt, bao che; có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước, điều tra, truy tố, xét xử.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tham khảo có chọn lọc mô hình, kinh nghiệm, cách thức phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các nước trên thế giới… Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cấp ủy các cấp cụ thể hóa vào điều kiện cụ thể ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương; rà soát, điều chỉnh, bổ sung những quy định của đơn vị đúng với tinh thần chỉ đạo của Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ phận tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong phát hiện và lấp những “lỗ hổng” pháp lý để cán bộ, đảng viên không dám, không thể và không muốn tham nhũng, tiêu cực./.