Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2024

🇻🇳 TRÊN 1,3 TRIỆU ĐẠI BIỂU THAM DỰ HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC QUÁN TRIỆT, TỔNG KẾT NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG


Sáng nay (1/12), Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; tình hình kinh tế - xã hội năm 2024, giải pháp tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế.

Tham dự Hội nghị có: Tổng Bí thư Tô Lâm; Chủ tịch nước Lương Cường; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn; Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú; các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư; lãnh đạo các ban, bộ, ngành…

Hội nghị được kết nối tới 14.535 điểm cầu trực tuyến trên toàn quốc với trên 1,3 triệu đại biểu tham dự Hội nghị.

Theo TTCP

TINH GỌN BỘ MÁY: KHÓ VẠN LẦN DÂN LIỆU CŨNG XONG

Thực tiễn mô hình tổng thể tổ chức bộ máy Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Theo từng giai đoạn cụ thể, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, tổ chức bộ máy và nền hành chính Việt Nam luôn có sự điều chỉnh phù hợp.

Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tăng cường cải cách nền hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Nhất là, trong gần 40 năm đổi mới của đất nước, từ 1986 đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả nền hành chính nhà nước, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hóa chức danh.

Do vậy, tinh gọn bộ máy các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị cần tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách bộ máy nhà nước trên tinh thần Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”. Đồng thời, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân, sự đồng thuận của xã hội đối với hệ thống chính trị, phát huy hiệu quả của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trong đó chú trọng giải quyết tốt mối quan hệ Nhà nước – thị trường – xã hội nhằm điều hòa lợi ích của cá nhân, công dân, của các tổ chức và Nhà nước. Có như vậy, mới phát huy được sự đồng thuận của xã hội trong tinh gọn bộ máy nhà nước, thiết lập được xã hội mở rộng, bảo đảm được lợi ích của cộng đồng, thực hiện thống nhất quan điểm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Vì vậy, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp như sau:

Một là, giảm quy mô của hành chính nhà nước.

Cần tiến hành nghiên cứu khoa học trong việc đánh giá vị thế, vai trò, chức năng của Chính phủ, hợp nhất các Bộ có nghiệp vụ gần giống nhau, sắp xếp phù hợp những cơ quan có chức năng trùng lắp, xã hội hóa dịch vụ công… là những biện pháp cơ bản mà nhiều nước trên thế giới tiến hành nhằm tinh giản bộ máy hành chính nhà nước, từ đó giảm chi tiêu, tăng hiệu quả của Chính phủ.

Hai là, đẩy mạnh phân quyền.

Hướng tới một bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu năng, hiệu quả. Ở nhiều nước trên thế giới, Chính phủ đã và đang chuyển giao bớt thẩm quyền từ Trung ương xuống địa phương. Một nguyên tắc quan trọng trong phân quyền là việc gì cấp dưới có khả năng làm tốt, tiện lợi hơn cho dân và doanh nghiệp thì kiên quyết phân quyền để cấp dưới làm và chịu trách nhiệm trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất và thể chế quản lý nhà nước. Xu hướng này một mặt tăng cường sự quản lý thống nhất và sự điều hành của Chính phủ đối với toàn quốc và địa phương; mặt khác tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động của địa phương.

Ba là, tháo gỡ “điểm nghẽn” thể chế.

Song song với bộ máy tinh gọn cần phải tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, đẩy mạnh quá trình xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, tương thích với những giá trị tiến bộ của pháp luật quốc tế, tạo hành lang pháp lý cho bộ máy hoạt động hiệu quả vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Xét cho cùng thành quả của cách mạng thuộc về nhân dân. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước cần tiến hành đồng bộ, khoa học, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và phát huy cao nhất sự đồng thuận của nhân dân – “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”./.

St

BÀN GIAO NHIỆM VỤ BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI


🔴 Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng chúc mừng Bộ trưởng Trần Hồng Minh được Đảng, Chính phủ và Nhà nước tin tưởng giao nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ GTVT. 

Đồng thời bày tỏ sự xúc động khi thời gian gắn bó không dài nhưng đã cùng với tập thể lãnh đạo, cán bộ, người lao động Bộ GTVT hoàn thành nhiều nhiệm vụ.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, hơn 2 năm về trước, nhiều công việc của Ngành GTVT còn khá ngổn ngang: Dự án đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 1 mới chỉ đạt 50% khối lượng. Nhiều dự án có nguy cơ vỡ tiến độ, vướng mắc mặt bằng.

“Thế nhưng, với sự đồng lòng cố gắng, thời gian qua, ngành Giao thông vận tải đã nỗ lực đưa hơn 800 km đường bộ cao tốc về đích. Hàng nghìn km cao tốc tiếp tục được khởi công. 

Cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 1 về đích, dự án giai đoạn 2 được khởi công trọn vẹn 12 dự án thành phần”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng chia sẻ.

Ông Thắng cho biết thêm: Việc rất khó như lựa chọn nhà thầu thi công cảng hàng không Long Thành cũng được thực hiện. 

Lĩnh vực đăng kiểm từng bước khắc phục tồn tại, vượt qua khó khăn. 

Luật Giao thông đường bộ tháo gỡ điểm nghẽn cho bộ và các địa phương, đẩy mạnh phân cấp phân quyền.

"Ấn tượng nhất là tinh thần hăng say, trách nhiệm cao của cán bộ, người lao động các cơ quan thuộc Bộ. Hình ảnh các phòng làm việc luôn sáng đèn đêm khuya, miệt mài làm việc cho kịp tiến độ khởi công dự án trở nên quen thuộc với tôi. 

Trên công trường là hình ảnh công nhân kỹ sư làm không ngừng, không nghỉ, vượt nắng thắng mưa. Sự nỗ lực ấy đã cho kết quả rất đáng tự hào", Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng chia sẻ.

Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, khối lượng công việc của ngành giao thông vận tải còn rất lớn. 

Trước mắt là mục tiêu hoàn thành 3.000 km đường bộ cao tốc vào năm 2025. Chuẩn bị đầu tư khởi công 3 tuyến đường sắt quốc gia. Dự án Đường sắt tốc độ cao vừa được Quốc hội bấm nút thông qua với tỷ lệ rất cao có quy mô siêu lớn cùng thách thức rất lớn.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng tin tưởng với kinh nghiệm, năng lực của mình, đặc biệt ưu thế xuất thân từ lực lượng vũ trang với sự quyết liệt, rõ ràng, tân Bộ trưởng Trần Hồng Minh sẽ cùng tập thể lãnh đạo, ban cán sự, cán bộ, người lao động toàn ngành vượt qua thách thức, hoàn thành các nhiệm vụ chính trị Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao.

🔴 Tân Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Trần Hồng Minh cảm ơn và gửi lời chúc mừng đến Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng đồng thời cho biết, rất vinh dự khi được Đảng, Chính phủ tin tưởng giao nhiệm vụ mới.

“Tiếp nối các kết quả đạt được, tới đây, Bộ Giao thông vận tải sẽ phát huy tinh thần "hiệu năng, hiệu lực, hiệu qủa nhất" theo đúng chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm”, Bộ trưởng Trần Hồng Minh khẳng định.

Tân Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải cũng chia sẻ với lãnh đạo các cơ quan của Ngành Giao thông vận tải.

“Những năm tháng công binh, tôi đã trực tiếp tham gia chỉ đạo thực hiện hàng nghìn công trình hạ tầng quan trọng như: Đường Trường Sơn, đường tuần tra biên giới, các công trình ở đảo lớn...”, Bộ trưởng Trần Hồng Minh nói, đồng thời khẳng định, ở cương vị mới, sẽ cùng tập thể lãnh đạo, ban cán sự Bộ Giao thông vận tải và toàn ngành tháo gỡ khó khăn, đưa Ngành giao thông đã mạnh rồi có thể mạnh hơn nữa./.

 NHẬN DIỆN, PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG VỀ VIỆC THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

Tòng quân - Nhập ngũ - Thực hiện nghĩa vụ quân sự là truyền thống, nét đẹp văn hóa của các thế hệ thanh niên Việt Nam. Đó không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc mà còn là sự thể hiện tình yêu quê hương đất nước; là mong muốn được rèn luyện, trưởng thành trong môi trường quân ngũ của thế hệ trẻ.

Tuy nhiên, trước ngày hội tòng quân hàng năm, trên không gian mạng thường xuất hiện các thông tin sai trái, xuyên tạc nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của Quân đội, tạo dư luận xấu, gây tâm lý hoang mang đối với giới trẻ, gieo rắc tâm lý tiêu cực, thoái thác trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc. Vì vậy, phòng, chống các luận điệu xuyên tạc về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là vấn đề thường xuyên và cấp bách hiện nay.

CÔNG DÂN PHẢI THỰC HIỆN NGHĨA VỤ QUÂN SỰ VÀ THAM GIA XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN

Tham gia nghĩa vụ quân sự là quyền và trách nhiệm của mỗi công dân. Điều này không chỉ đúng ở Việt Nam mà còn là quy định trong luật pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Chẳng hạn như, tại Thụy Sĩ, tất cả nam thanh niên từ 19 - 26 tuổi đều phải đăng ký nhập ngũ và phục vụ trong quân đội ít nhất 260 ngày, trong đó có 18 tuần huấn luyện và 7 lần gọi tái nhập ngũ, mỗi lần kéo dài 3 tuần trong suốt 10 năm tiếp theo. Tại Hàn Quốc, nam công dân tuổi đời từ 18 - 35 đều thực hiện nghĩa vụ quân sự trong khoảng thời gian 21 tháng và không được phép có ngoại lệ. Theo đó, những ai đủ tiêu chuẩn mà từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự sẽ bị phạt tù. Singapore cũng quy định mọi công dân nam đều bắt buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự quốc gia khi đủ 18 tuổi, những người vi phạm đều phải đối mặt án phạt tiền lên tới 10.000 đô la, án tù lên tới ba năm hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt nói trên...

Tại Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”; “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.

Thể chế hóa Hiến pháp, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định: “1. Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân; 2. Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định...”.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”.

Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

Một sự thật hiển nhiên là, tùy vào tình hình chính trị, quân sự của mỗi quốc gia trên thế giới, chế độ nghĩa vụ quân sự được thực hiện theo những cách khác nhau chứ không phải như những luận điệu xuyên tạc cho rằng, chỉ có Việt Nam mới đưa ra quy định nghĩa vụ quân sự để “o ép người dân”.

Lợi dụng không gian mạng, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn đã tìm mọi cách kích động người dân chống đối việc thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cùng với đó, một số kẻ xấu còn “vẽ đường bày mưu” hướng dẫn thủ đoạn “lách luật” khi khám tuyển cho những thanh niên thiếu ý thức, như: tạo “vấn đề” về sức khỏe, lấy lí do đi làm ăn xa, đút lót hối lộ... để trốn thực hiện nghĩa vụ, gây khó khăn cho công tác tuyển quân, tạo nên những nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Thậm chí chúng còn lôi kéo, xúi giục quân nhân đang thực hiện nghĩa vụ quân sự đào ngũ, gây áp lực cho tổ chức, hoặc đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu vô lý với chính quyền cơ sở.


Thông qua một số trang web, chúng cắt ghép, đăng tải các cảnh bạo lực trong quân đội nước ngoài, cảnh quân đội tham chiến ở một số khu vực trên thế giới rồi lồng ghép lời bình xuyên tạc là “chuyện ở trong quân ngũ Việt Nam”. Những hình ảnh, video, lời bình mà chúng tung lên mạng thường lập lờ, võ đoán, không rõ địa chỉ cơ quan, đơn vị cụ thể; lời lẽ miệt thị, kích động, vu khống... làm cho không ít thanh niên và gia đình “bán tín bán nghi” dẫn đến “tự diễn biến”, đắn đo, do dự khi nhận thông báo khám tuyển và lệnh gọi nhập ngũ.


Trong nhiều trường hợp, chúng cổ xúy cho suy nghĩ và lối sống cá nhân vị kỷ, kích động tâm lý so bì, toan tính thiệt hơn khi nhập ngũ … Nguy hiểm hơn, nhằm xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, cứ trước mỗi mùa tuyển quân, chúng lại sử dụng, cắt ghép hình ảnh rồi tung mạng một số vụ việc cũ, hy hữu để kích động, xuyên tạc. Cùng với đó, chúng thường xuyên đưa ra các luồng tin đồn thất thiệt với những hình ảnh, clip video có sự can thiệp của công nghệ, có nội dung thông tin chưa được kiểm chứng, trong đó chủ yếu là nội dung về cảnh bạo lực, quân phiệt hay “cái chết oan ức” trong quân đội... Sau đó, chúng đặt các câu nghi vấn, bình luận lập lờ để reo rắc hoài nghi và kích động “cư dân mạng” nhất là giới trẻ. Đây thực chất là chiêu bài tâm lý để lừa bịp, “đánh” vào những người nhẹ dạ, cả tin, gây hoang mang dư luận xã hội, nghi ngờ, mất niềm tin trong nhân dân, làm cản trở, gây khó khăn trong thực hiện công tác tuyển quân tại các địa phương.


Cần phải khẳng định lại, những nội dung thông tin mà các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu tung lên mạng xã hội hầu hết có nội dung hoàn toàn bịa bặt hoặc chỉ phản ánh một phần của vấn đề - một vài hiện tượng cá biệt, hy hữu chứ không phải là bản chất của Quân đội. Điều nguy hại là không ít “cư dân mạng” vô tâm, vô ý thức chỉ vì muốn “câu view” “câu like” nên đã “hồn nhiên” đăng tải lại, chia sẻ, phát tán những nội dung xuyên tạc, phản động, không đúng bản chất... Điều này đã vô tình tiếp tay cho những dụng ý đen tối và dã tâm của các thế lực, phần tử xấu. Vì vậy, đi cùng với nhận diện đúng để kiên quyết đấu tranh với những toan tính thâm độc, cũng cần phê phán, lên án mạnh mẽ với những hành vi “tiếp tay” - dù là không có chủ ý - của những cá nhân thiếu ý thức.


NHẬN THỨC ĐÚNG VẤN ĐỀ ĐỂ CÓ CÁI NHÌN CHÍNH XÁC


Thực tế ở Việt Nam cho thấy, tham gia vào môi trường quân ngũ, thanh niên được rèn luyện mọi mặt cả về thể chất, tri thức và tinh thần. Họ được học tập, tiếp thu những kiến thức về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ; được rèn luyện tính kỷ luật và tác phong chính quy.


Môi trường Quân đội giúp thanh niên rèn luyện sức khỏe dẻo dai, thể lực bền bỉ; có tác phong chững chạc; có tinh thần, trách nhiệm cao hơn với công việc; có ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh; giải quyết các mối quan hệ xã hội, giao tiếp, ứng xử đúng chuẩn mực, có văn hóa.


Dù mang tính đặc thù của hoạt động quân sự, song trong môi trường quân ngũ, thanh niên vẫn được khẳng định bản thân, ngày càng trưởng thành hơn, sẵn sàng đối mặt với thử thách và vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.


Môi trường quân ngũ còn tôi luyện cho thanh niên ý thức tự giác, ý chí vươn lên, tinh thần trách nhiệm với tập thể, biết lắng nghe quan tâm, chia sẻ với mọi người. Thời gian học tập, rèn luyện trong môi trường quân ngũ là cơ sở, tiền đề quan trọng, vững chắc để thanh niên trưởng thành hơn sau khi ra xã hội lập thân, lập nghiệp, cống hiến cho sự phát triển của địa phương, đất nước.


KHÔNG NGỪNG TUYÊN TRUYỀN, ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG ÂM MƯU CHỐNG PHÁ VÀ CÁC LUẬN XUYÊN TẠC


Tiếp tục xây dựng và giữ gìn, phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”


Trước sự vận động, phát triển không ngừng của yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn luôn được giữ gìn, phát huy. Đại đa số cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã tích cực tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững và phát huy những chuẩn mực văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”. Tuy nhiên, do sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, chiến sĩ chưa nhận thức đầy đủ, chưa nêu cao trách nhiệm trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; thiếu tự giác, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện. Một số sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, dao động trước diễn biến phức tạp của tình hình, phát ngôn thiếu tính xây dựng...


Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, truyền bá tư tưởng “phi chính trị hóa” quân đội; xuyên tạc truyền thống Quân đội; xuyên tạc hình ảnh, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”… với mưu đồ thâm độc là làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, niềm tin vào Đảng, chế độ trong mỗi cán bộ, chiến sĩ; xóa nhòa phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, tách rời Quân đội với Đảng và nhân dân…


Vì vậy, trong tình hình mới, việc giữ gìn, phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” vừa là yêu cầu khách quan, vừa là trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ. Theo đó, phải thường xuyên làm tốt công tác giáo dục góp phần thấm nhuần tư tưởng “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1). Cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm tăng cường công tác lãnh đạo tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ. Chú trọng đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phù hợp với từng nhóm đối tượng; đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm, cổ vũ gương “người tốt, việc tốt” trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới” gắn với đẩy mạnh việc học và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...


Thực hiện nghĩa vụ quân sự không chỉ là chấp hành pháp luật của Nhà nước, mà còn là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của công dân đối với dân tộc, với Tổ quốc. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong lên đường chiến đấu, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất. Ngày nay, trong thời bình, ổn định và hợp tác quốc tế, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” lại càng sống động hơn khi sát cánh cùng nhân dân vượt qua thiên tai, dịch bệnh; luôn sẵn sàng bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân; đồng hành cùng đồng bào biên giới, miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới...


Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến để nhân dân nhận thức đúng đắn và thực hiện nghiêm Luật nghĩa vụ quân sự.


Chú trọng thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tích cực tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015, làm cho mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đúng: Luật Nghĩa vụ quân sự là cơ sở để thanh niên thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc - nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân đã được ghi nhận tại Hiến pháp 2013. Công dân đến tuổi quy định phải có bổn phận, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ quân sự đối với Tổ quốc, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp; việc cố tình không chấp hành sẽ bị xử lý nghiêm theo pháp luật.


Vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp, cách thức tuyên truyền giáo dục khác nhau làm cho mọi người dân đều hiểu và thực hiện tốt nhiệm vụ này. Trong đó cần kết hợp tuyên truyền thường xuyên với tổ chức các đợt tuyên truyền cao điểm trong “mùa tuyển quân”; kết hợp giáo dục, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng với lồng ghép phổ biến luật trong hoạt động của các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội. Tuyên truyền tập trung làm rõ nội dung cơ bản về thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự, giúp công dân hiểu rõ nghĩa vụ thiêng liêng cũng như các chế độ, chính sách mà quân nhân, gia đình quân nhân được hưởng trong thời gian tại ngũ, khi xuất ngũ.


Cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là cấp huyện, cấp xã thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ công tác tuyển quân của địa phương mình; xét tuyển đảm bảo công bằng, công khai, đúng luật. Đối với các trường hợp thuộc diện tạm miễn, tạm hoãn phải được niêm yết ở trụ sở UBND cấp xã, nhà văn hóa thôn…, thông báo trên hệ thống truyền thanh của địa phương để nhân dân theo dõi, giám sát; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động; phổ biến đầy đủ những chế độ, tiêu chuẩn được hưởng của chiến sĩ nghĩa vụ. Đồng thời, xử lý nghiêm các hành vi trốn tránh, cản trở, chống đối trong công tác khám, tuyển quân; kịp thời biểu dương, động viên những gia đình, địa phương làm tốt công tác này; quan tâm, tổ chức thăm hỏi, tặng quà, động viên thanh niên và gia đình trước ngày lên đường nhập ngũ, tạo khí thế sôi nổi, trang nghiêm, ý nghĩa trong ngày giao nhận quân.


Gia đình cần động viên, giáo dục, khuyến khích con em nhận thức đúng trách nhiệm đối với đất nước, tích cực tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi đến tuổi quy định. Đoàn viên thanh niên nêu cao ý thức hành động theo khẩu hiệu: “Tuổi trẻ Việt Nam xây hoài bão lớn, rèn đức, luyện tài, đoàn kết, sáng tạo, xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.


Đa dạng các hình thức tuyên truyền về đời sống quân ngũ để nhân dân, nhất là giới trẻ có cái nhìn khách quan, đúng đắn.


Tăng cường các chương trình truyền hình thực tế về môi trường quân ngũ, đăng tải rộng rãi trên các phương tiện truyền thông; tổ chức thường xuyên hơn mô hình học kì quân đội cho học sinh, sinh viên, tổ chức huấn luyện quốc phòng an ninh cho đối tượng học sinh THPT tại các đơn vị bộ đội phù hợp... Đối với tân binh, Quân đội và đơn vị cần có nhiều hơn những biện pháp, cách thức liên lạc giữa gia đình với đơn vị, để gia đình có thể nắm được tình hình huấn luyện và sự trưởng thành của con em; tổ chức những buổi gặp gỡ giữa các chiến sĩ với tân binh và những đối tượng trong độ tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự để họ được tìm hiểu kĩ hơn về môi trường quân ngũ; lan toả mạnh mẽ và rộng rãi những hình ảnh đẹp trong môi trường quân đội trên các phương tiện truyền thông để mọi người dân cảm nhận được sự ưu việt của môi trường này, từ đó yên tâm động viên con em tham gia nghĩa vụ quân sự.


Kịp thời phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh không khoan nhượng với các hoạt động chống phá trên không gian mạng về khám tuyển nghĩa vụ quân sự.


Phát huy vai trò của các cơ quan chức năng trong kiểm soát các nguồn thông tin đăng tải, nhất là những luồng thông tin phi chính thống có liên quan đến các cá nhân và tổ chức phản động. Kịp thời ngăn chặn và xử lý các thông tin xấu độc, ngăn chặn, hạn chế việc chia sẻ các luồng tin sai trái, xuyên tạc. Khi đã xác minh được vấn đề cần có biện pháp xử lý nghiêm minh với những cá nhân, tổ chức có biểu hiện chống phá.


Để nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhận biết rõ về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và kẻ xấu về công tác tuyển quân, mỗi công dân khi tham gia mạng xã hội cần phải chấp hành nghiêm Luật An ninh mạng; tỉnh táo khi tiếp nhận, chia sẻ thông tin để hạn chế thấp nhất những vi phạm có thể mắc phải, không để mắc mưu các thế lực thù địch. Trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, hội viên đoàn thể chính trị - xã hội cần gương mẫu, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động người thân, hàng xóm không tham gia chia sẻ, bình luận theo kiểu “a dua” “vào hùa” trước những luận điệu xấu trên không gian mạng về công tác tuyển quân. Mặt khác, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động thanh niên sẵn sàng nhập ngũ, thực hiện nghĩa vụ, hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với quê hương, đất nước. Mỗi người dân, mỗi gia đình tuyệt đối không nghe theo, làm theo thông tin sai sự thật, sự kích động lan truyền trên mạng xã hội do các thế lực thù địch phát tán.


Mặt khác, cần xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm luật nghĩa vụ quân sự, lên án những hành vi, việc làm thiếu ý thức, trách nhiệm của một người công dân với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.../.


 Tạp chí Tuyên giáo

 BÁC BỎ SỰ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN LỊCH SỬ HÒNG PHÁ HOẠI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Thêu dệt để xuyên tạc những sự kiện lịch sử nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kích động xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những hình thức mà các thế lực thù địch thường sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh bác bỏ thủ đoạn này là yêu cầu cấp bách trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Lịch sử là những điều đã qua, nhưng luôn có quan hệ mật thiết với hiện tại và tương lai. Đối với mỗi chủ thể khác nhau, lịch sử bao gồm cả những thành công và hạn chế, thậm chí là thất bại. Có nhiều góc nhìn về lịch sử, song về nguyên tắc, xem xét, đánh giá lịch sử phải công bằng, khách quan, không được tô hồng, bôi đen, định kiến, chủ quan. Cho đến nay, nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là sự khái quát cao nhất, khoa học nhất để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng nói chung và lịch sử nói riêng. Mọi sự xa rời hoặc không tuân thủ nguyên tắc này khi xem xét, đánh giá lịch sử sẽ không tránh khỏi sai lầm. Điển hình như việc các thế lực thù địch xuyên tạc về cơ sở hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin; lấy sự kiện sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu để quy chụp cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác – Lênin; xuyên tạc lịch sử hình thành, nội dung, bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh hòng phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v. Đây là những luận điểm hết sức sai lầm về mặt khoa học và phản động về chính trị và những luận giải dưới đây sẽ làm rõ tính chất phản động của nó.

Trước hết, về cơ sở sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị viện cớ: thời gian hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin từ giữa, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là quá lâu và quá cũ rồi nên đã hết giá trị khoa học, ý nghĩa hiện thực. Rằng, chủ nghĩa Mác chỉ đúng, phù hợp với điều kiện lịch sử ở châu Âu, thế kỷ XIX, nay đã lạc hậu; chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp ở một chừng mực nào đó với trình độ lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thời đại ngày nay; chỉ đúng với phương Tây, không đúng với phương Đông,... (!). Đây chính là biểu hiện cố tình tách rời, thậm chí là đối lập giữa C.Mác và Ph.Ăngghen với V.I.Lênin, trong khi tư tưởng của các ông là thống nhất ở bản chất cách mạng, khoa học, cho dù có sự khác nhau ở một số nội dung, quan điểm cụ thể.

Về mặt khoa học, nếu chỉ lấy yếu tố thời gian hình thành, phát triển sớm hay muộn của một học thuyết, một tư tưởng để phán xét giá trị của nó là không khách quan, thậm chí hoàn toàn sai lầm. Bởi, trong thực tế có những học thuyết, tư tưởng vừa mới ra đời đã lạc hậu, không còn giá trị đối với xã hội. Ngược lại, có những lý luận, định đề, định lý của khoa học tự nhiên hay tư tưởng mang tính nhân đạo, nhân văn của nhân loại ra đời trước chủ nghĩa Mác - Lênin rất lâu, như: tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái xuất hiện vào thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV - XVI) ở phương Tây đến nay vẫn được nghiên cứu, thừa nhận như một tín hiệu mới, có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển của xã hội. Do đó, không thể chỉ căn cứ vào yếu tố thời gian để chủ quan phán xét về giá trị của một học thuyết, mà phải xem xét trên cơ sở khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lênin với tính chất của một học thuyết dẫn đường đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; là nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản tập trung nhất ở phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư,… đã, đang chứng minh sức sống và giá trị bền vững thì sự xuyên tạc về lịch sử hình thành, phát triển cũng như sự phù hợp của học thuyết này là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Không những thế, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở; là sự định hướng về thế giới quan, phương pháp luận khoa học chung cho cả nhân loại, chứ không riêng cho quốc gia nào,... cho nên không thể nói rằng nó chỉ đúng với phương Tây, không đúng với phương Đông như các luận điệu xuyên tạc. Điều đó càng cho thấy, việc lấy yếu tố thời gian cũng như sự phù hợp với nơi này, không phù hợp với nơi khác,... để phủ nhận giá trị khoa học, bản chất cách mạng một học thuyết chỉ là cái cớ hòng thực hiện mưu đồ chống phá nền tảng tư tưởng, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội.

Hai là, không thể lấy sự kiện sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu (thập niên cuối thế kỷ XX) để quy chụp cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta đều biết, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một sự thật lịch sử vô cùng đáng tiếc sau bao nhiêu năm dày công vun đắp. Tuy nhiên, đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể, với những nguyên nhân xác đáng chứ không phải là sụp đổ của một học thuyết cách mạng và khoa học như chủ nghĩa Mác - Lênin và càng không phải là sự chấm dứt lịch sử phát triển của nhân loại đi lên chủ nghĩa xã hội theo tiến trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Thế nhưng các thế lực thù địch lại vin vào sự kiện này để quy chụp rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin đã không có giá trị, sức sống; chủ nghĩa xã hội chỉ là “quái thai” của lịch sử hoặc chỉ tồn tại trong tư tưởng, không có tính hiện thực; C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra lý luận đấu tranh giai cấp để quăng lên vai những người lao động sứ mệnh tàn sát lẫn nhau; thậm chí, họ còn biện hộ cho chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại, v.v. Toàn bộ những luận điệu trên của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cả trong lịch sử và hiện nay, dù diễn đạt dưới bất cứ hình thức nào, chung quy lại vẫn là đổ lỗi cho các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, họ rêu rao rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; kiên định với mục tiêu chủ nghĩa xã hội là không thức thời, lầm đường, lạc lối, đi vào ngõ cụt và trước sau cũng sụp đổ (!).


Đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng ta khẳng định rằng: sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là sự phản ánh bước phát triển quanh co, phức tạp của lịch sử chứ không phải là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội với tính chất là xu hướng phát triển chung của nhân loại. Đó chỉ là sụp đổ của một mô hình bị rơi vào xơ cứng, giáo điều, không sinh động ở những thập niên cuối thế kỷ XX. Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật thì mô hình ấy đáng phải sụp đổ để tư tưởng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là khoa học, cách mạng. Bởi, xơ cứng, giáo điều là kẻ thù số một của phép biện chứng duy vật. Sự sụp đổ đó không phải do lỗi của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, vì họ đã chỉ ra lý luận của mình chỉ là định hướng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và khi vận dụng vào thực tiễn phải sáng tạo, cụ thể. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu từ sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga đến thập niên 70 của thế kỷ XX đã thu được những thành tựu kỳ diệu, mà nhân loại không thể phủ nhận. Đáng tiếc là sau đó, Đảng Cộng sản ở các nước đó không tuân thủ những nguyên tắc căn bản trong xây dựng đảng, bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, đặc biệt là bọn cơ hội xét lại trỗi dậy, lũng đoạn bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Vì vậy, việc đổ lỗi do sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là không tôn trọng lịch sử, thể hiện rõ mưu đồ của các thế lực thù địch là chống phá cách mạng, mà trực tiếp nhất là chống phá Đảng Cộng sản. Và, thật nực cười khi họ lại suy diễn một cách cơ học, siêu hình như vậy, trong khi lẽ ra phải khẳng định rằng, mặc dù Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu, Liên Xô xa rời, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đến sụp đổ, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là một biểu tượng sáng ngời về tính kiên định, sự trung thành mới phải.


Ba là, về sự xuyên tạc lịch sử hình thành, nội dung, bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều vấn đề, nhưng tựu trung lại là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã vượt lên trên tất cả các tư tưởng đương thời trong nước lúc bấy giờ, thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin ở bản chất khoa học, cách mạng; đồng thời, mang sắc thái riêng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khẳng định vị trí, định hướng tư tưởng cho lịch sử phát triển ở Việt Nam. Kết quả lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự ra đời, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với tầm vóc to lớn về tính cách mạng và giá trị khoa học như thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1991) đã bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ấy vậy mà, các thế lực thù địch lại xuyên tạc một cách trắng trợn rằng, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ có khác biệt, không có sự thống nhất. Họ thường sử dụng thủ đoạn: cường điệu hóa tính dân tộc trong tư tưởng của Người để tách biệt, đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin; tỏ vẻ ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh rất khách quan, nhưng thực chất là hạ thấp uy tín, tầm ảnh hưởng của Người ở trong nước và quốc tế; không nghiên cứu kỹ hoặc cố tình không hiểu bản chất, cốt lõi tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, v.v. Thâm hiểm hơn, họ còn vu khống rằng: Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vào Việt Nam để Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn; nồi da, nấu thịt”; họ cho rằng không nhất thiết phải tiến hành các cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng mà vẫn có thể có độc lập dân tộc. Đây là một sự phỉ báng lịch sử, nhằm phủ nhận những cống hiến, hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta. Họ cũng không hiểu hay cố tình không hiểu rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và độc lập theo kiểu tư sản trái ngược nhau về nội dung, bản chất, giá trị tiến bộ. Hiện thực minh chứng: mặc dù nhiều nước đã có độc lập tư sản mà không phải tiến hành chiến tranh, nhưng thực chất vẫn không có độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó. Sự độc lập đó vẫn làm cho các đảng phái chính trị trong nước thường xuyên tranh giành quyền lực, gây bất ổn chính trị, thậm chí là đảo chính, xung đột vũ trang, tổn thất rất nhiều xương máu của quần chúng nhân dân và ở chừng mực nào đó, vẫn bị lệ thuộc vào các nước đế quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. 


Từ những phân tích trên cho thấy, bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận lịch sử của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề mang tính thường xuyên, cấp bách hiện nay. Cùng với đó, cần không ngừng nắm vững và vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Xây dựng đời sống tinh thần xã hội với tính đồng thuận cao, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn./. 


Tạp chí QPTD

 “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI - THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC, XUYÊN SUỐT CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 "Từ góc độ thực tiễn cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào "trung lập về chính trị" hay "đứng ngoài chính trị"; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì".

Tại Hội thảo khoa học “80 năm xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị - Thành tựu và kinh nghiệm” tổ chức ngày 27/11 ở Hà Nội, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Ngọc Hồi, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Quốc phòng toàn dân đã có tham luận nhan đề:"Phi chính trị hóa" quân đội - Thủ đoạn thâm độc, xuyên suốt của các thế lực thù địch". VOV xin lược trích những nội dung chính của bài viết này:

Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng, phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược "Diễn biến hòa bình". Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là hô hào "phi chính trị hóa" quân đội, với mục đích tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này được họ áp dụng thành công ở Liên Xô, Đông Âu trước đây và hy vọng sẽ thành công ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.

Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, nên chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch ráo riết kêu gọi phải "phi chính trị hóa" quân đội. Họ tính toán rằng, một khi Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động và mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đố Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản "không đánh mà thắng".

Năm 2013, lợi dụng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức xin ý kiến nhân dân vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các thế lực chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xem đây là thời cơ để công khai đòi "phi chính trị hóa" quân đội. Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: "Quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị", "Quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào", mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là "không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam",...

Để thực hiện mưu đồ "phi chính trị hóa" quân đội, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn. Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc hoạt động của quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào.

Trong hành động thực tiễn, những người cổ xúy cho mưu đồ "phi chính trị hóa" quân đội yêu cầu: một khi có biến động chính trị, thì quân đội hãy án binh bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có một Đảng Cộng sản lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc "Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội"; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị (nhất là chế độ chính ủy, chính trị viên) trong quân đội - một trong những yếu tố riêng có của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho Đảng Cộng sản giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội.


Họ xuyên tạc các sự kiện chính trị trong lịch sử có quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài đơn vị quân đội và một bộ phận quân nhân trong quá trình làm nhiệm vụ; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng Quân đội... hòng qua đây, làm cho quân đội mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội trong xã hội, từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.


Để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của Việt Nam sang quý đạo tư bản chủ nghĩa trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và logic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.


Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; "bỏ quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam" đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ quân đội, làm cho Quân đội ta xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dẫn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Từ góc độ thực tiễn cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào "trung lập về chính trị" hay "đứng ngoài chính trị"; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì. Không khó để nhận thấy sự tham chính của quân đội nhiều nước, khi người ta vẫn chứng kiến các vụ đảo chính quân sự ở nước này, nước khác, nhất là ở châu Á, châu Phi trong những năm gần đây. Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, quân đội không chỉ được dùng vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, mà còn được dùng vào các hoạt động xâm lược, lật đổ, can thiệp quân sự vào các quốc gia có chủ quyền khác, nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở đây các chính phủ thân phương Tây; thực chất là để phục vụ đường lối đối nội và đối ngoại của các đảng chính trị cầm quyền, mà suy cho cùng là phục vụ lợi ích của các thế lực tư bản độc quyền đứng đằng sau các chính phủ đương nhiệm.


Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó. Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên dương của Bác: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"./. 


Báo VOV

 HỌC TẬP TẤM GƯƠNG MẪU MỰC, SÁNG NGỜI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí luôn là việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thể hiện năng lực tư duy khoa học, sáng tạo và phẩm chất đạo đức, phong cách, lối sống thanh cao của một danh nhân văn hóa kiệt xuất nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống, công việc hàng ngày, ai cũng có thể học tập, làm theo được. Theo Người, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí không chỉ là một yêu cầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều kiện bắt buộc trong thực thi đời sống mới mà còn là một phẩm chất đạo đức cần phải có của người cách mạng. Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh dùng để huấn luyện lớp cán bộ cách mạng đầu tiên, Hồ Chí Minh đã chỉ ra tư cách của người cách mệnh: tự mình phải cần kiệm, vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, ít lòng ham muốn vật chất... Trong nhiều bài viết và nói sau này, Người đều đề cập đến bốn đức quan trọng là cần, kiệm, liêm, chính. Theo Người, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu. “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Phải đánh bạt những tư tưởng công thần, địa vị, danh lợi của chủ nghĩa cá nhân, làm cho tư tưởng của chủ nghĩa tập thể thắng lợi, tức là phát huy tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ của công, chống tham ô, lãng phí”(1).

Tấm gương mẫu mực Hồ Chí Minh về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí biểu hiện xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Rất nhiều câu chuyện được kể lại từ những người được sống và làm việc cùng Bác đã minh chứng cho nhân cách của vị lãnh tụ “một đời thanh bạch, chẳng vàng son”, “nâng niu tất cả, chỉ quên mình”: Trong kháng chiến chống Pháp, Bác cũng sinh hoạt như anh em bảo vệ, ăn chung với mọi người… Trời rét (...), chỉ đắp chiếc chăn cũ nhuộm nâu, quần áo của Bác đều nhuộm nâu. Bác tự đánh máy (...). Văn phòng Trung ương cử một đồng chí sang giúp Bác đánh máy, Bác phê bình là lãng phí(2). Chỉ khi sắp sang Pháp, vào cuối tháng 5/1946, Bác mới may thêm một bộ dạ đen, cũng cùng một kiểu với bộ kaki vẫn mặc. Hành lý của một vị Chủ tịch nước sang đàm phán về việc sống còn của dân tộc với Chính phủ Pháp, xếp không đầy một vali khổ nhỡ. Ngoài mấy bộ quần áo nói trên, có một đôi giầy da. Không có bác sĩ đi theo để săn sóc Bác dọc đường. Đồ dùng riêng của Bác là cái đồng hồ cũ kỹ(3).

Đồng chí Việt Phương, nguyên Thư ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nhớ mãi về một chi tiết trong đời sống hàng ngày của Bác: Đó là bất kỳ cái gì có tí lãng phí cũng quyết không để lãng phí nhưng đã cần thì dùng cho đủ mức cần. Tháng 2/1969, Bác muốn đi thăm rừng quốc gia Cúc Phương. Một số đồng chí lãnh đạo giới thiệu ở đó có nhiều cái hay. Anh em xin Bác đi máy bay lên thẳng cho đỡ mệt nhưng Bác không chịu và nói rằng: “Các chú cho hễ là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước thì đi đâu muốn dùng phương tiện gì thì dùng à? Không phải thế đâu. Để Bác khỏe lên, Bác đi ô tô đến thăm rừng Cúc Phương (...). Máy bay lên thẳng, để khi nào có người của chúng ta bị tai nạn hoặc bị đau nặng ở vùng hẻo lánh khó chạy chữa thì dùng máy bay lên thẳng đón về nơi trung tâm có bệnh viện lớn. Hoặc lúc nào nước sông lên to, mùa bão cần đi hộ đê thì lấy máy bay lên thẳng mà dùng. Chứ không phải bất kỳ đi đâu, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước cứ dùng máy bay lên thẳng mà đi”. Bác nhất định như vậy và vì thế ý muốn của Bác là đi thăm rừng Cúc Phương cuối cùng Bác không thực hiện được. Nhưng thà thế chứ Bác không dùng máy bay lên thẳng(4).

Đồng chí Lê Hữu Lập, nguyên cán bộ văn phòng Bác kể lại: “Bác Hồ tiết kiệm, cũng cần hiểu tiết kiệm của Bác. Một buổi sáng làm việc với Bác bên d­ưới nhà sàn, tôi đã chuẩn bị tài liệu và một chiếc bút chì xanh đỏ để trên bàn, ra ngoài một lát trở vào không biết anh nào đã cầm cây bút đi mất. Tìm không thấy mà Bác đang ngồi chờ, tôi lục ống bút chì chỉ còn một mẩu xanh đỏ bằng ngón tay, đành phải cầm vậy. Sang đọc tài liệu đến chỗ cần đánh dấu, tôi cẩn thận cầm kín mẩu bút trong lòng bàn tay, sợ Bác nhìn thấy. Lần thứ hai, Bác phát hiện. Bác với tay lấy cây bút xanh đỏ trong ống bút của Bác đ­ưa cho tôi và vẫn nhẹ nhàng bảo: “Làm gì mà chú phải khổ sở thế!”. Bác giản dị nhưng đàng hoàng. Trời nóng ngồi làm việc một mình với chúng tôi có thể Bác mặc áo may ô, quần cộc, nhưng đi ra ngoài dù kaki, quần áo nâu cũng phải phẳng phiu. Không chỉ một lần Bác phê bình đồng chí cán bộ cao cấp ra chỗ tiếp khách không ăn mặc chỉnh tề, tuy đồng chí này không phải nhân vật chủ chốt”(5).

Cả một đời vì nước, vì dân, tất cả những gì Bác tiết kiệm trong cuộc sống cá nhân đều là để dành phục vụ tổ chức, đoàn thể, cách mạng. Đồng bào trong nước và các bạn nước ngoài tặng Bác nhiều vải lụa tốt, nhưng Bác không cho may mà dùng để làm tặng phẩm cho đồng bào và chiến sĩ có thành tích trong kháng chiến. Với sách cũng vậy, dù Bác nhận được rất nhiều sách của các tác giả, các nhà xuất bản gửi biếu, sách của những cá nhân và tổ chức nước ngoài gửi tặng qua Bộ Ngoại giao hoặc các đoàn của ta đi công tác mang về... nhưng Bác không có thư viện riêng. Sách báo đọc xong, Bác thường gửi tới các nơi cần sử dụng. Những sách báo cần làm tư liệu, Bác giữ lại, nhưng sử dụng xong Bác cũng gửi đi tới các nơi cần sử dụng. Bác có một cuốn sổ tiết kiệm (đứng tên đồng chí Lê Hữu Lập) gửi ở quầy tiết kiệm phố Hàng Gai, Hà Nội. Tiền tiết kiệm được dành dụm từ tiền lương hàng tháng còn lại sau khi trừ mọi chi tiêu sinh hoạt và tiền nhuận bút mà Bác viết bài cho báo Nhân dân. Bác thường dùng tiền tiết kiệm làm quà tặng trong những dịp cần thiết (như có dịp đi công tác về, Bác thấy bộ đội phòng không trực chiến dư­ới ánh nắng chói chang của mùa hè, Bác đã chỉ thị rút số tiền tiết kiệm trong sổ trao cho Bộ Quốc phòng làm quà tặng bộ đội phòng không để có thêm nước giải khát). Dịp Bác đi nước ngoài dự Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô, là đại biểu mời, Bác được Đảng bạn tặng một số tiền và Bác đã dặn thư ký Vũ Kỳ nhập số tiền đó vào quỹ Đảng. Bác coi số tiền đó là của chung chứ không để vào sổ tiết kiệm của Người.

Trong tình hình kinh tế và chính trị của dân ta hồi đó, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh hoạt bình thường như cán bộ và nhân dân chứng tỏ Bác hiểu rất rõ, rất sát tình hình đời sống vật chất của nhân dân và cán bộ, đồng thời thể hiện tấm lòng của Bác, một lãnh tụ muốn cùng chịu gian khổ với dân. Sự giản dị ấy, phong thái ung dung ấy kết hợp nhuần nhị những nét cao đẹp của tính cách dân tộc với đạo đức cộng sản, có sức thu hút mạnh mẽ trái tim mọi người và khiến cho Bác càng trở nên vĩ đại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, yêu nước thì phải thi đua thực hành tiết kiệm, tích cực chống lãng phí để xây dựng đất nước, xây dựng CNXH. Người luôn nhấn mạnh đến vấn đề này tại mỗi hội nghị, mỗi đại hội, mỗi kỳ họp Quốc hội và nhiều bài nói, bài viết khác. Trong bài Quốc hội ta vĩ đại thật (Báo Nhân dân, số 2304, ngày 10/7/1960) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến nhiệm vụ của mỗi vị đại biểu Quốc hội để xứng đáng là người đày tớ trung thành của nhân dân là phải: “- Thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; - Một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội; - Làm gương mẫu trong việc thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô”. Người còn viết nhiều tài liệu để tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân, yêu cầu trong mọi hành động, mọi lĩnh vực và mỗi người đều phải tiết kiệm, chống lãng phí. Bác lưu ý đặc biệt việc phải triệt để tiết kiệm của công vì đó là mồ hôi, công sức của dân, xương máu của bộ đội, chiến sĩ. Với viên chức tại các công sở, Bác yêu cầu: “phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được, cũng như các vật liệu và đồ dùng trong các sở. Rút bớt hết những sự gì không cần thiết, chớ phao phí giấy má và các thứ của công(6). Với bộ đội, Bác căn dặn rất cụ thể về việc giữ gìn, bảo vệ chiến lợi phẩm bởi đó cũng là của công, của nhân dân, của quốc gia, không phải của địch; chiến sĩ ta phải đổ máu mới lấy lại được cho nên “Không được phung phí, hoặc chiếm làm của riêng cá nhân, khi canh gác phải biết thu dọn cho ngăn nắp, và che mưa nắng cho chu đáo”(7). Bác còn chỉ dẫn các cấp chỉ huy trong quân đội: “Không tiêu hoang phí tiền riêng của các chú cũng chưa phải là Kiệm. Các chú còn phải biết tiết kiệm của công, dạy cho bộ đội biết tiết kiệm của công, thì mới thật là Kiệm. Các chú không lấy của công làm của tư, không lấy chiến lợi phẩm về cho gia đình bè bạn mới chỉ là Liêm một nửa. Các chú phải dạy cho bộ đội và khuyến khích nhân dân không lấy của công, không lấy chiến lợi phẩm làm của riêng mới thật là Liêm”(8). Với thanh niên là những chủ nhân tương lai của nước nhà, Bác đặt ra yêu cầu không chỉ giáo dục cho họ về vấn đề tiết kiệm, chống lãng phí mà còn phải rèn luyện tạo thành thói quen trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Từ tháng 2/1955, trong bài viết “Bảo vệ tài sản công”, Bác đã căn dặn: “Các ngành giáo dục cần phải bồi dưỡng cho thanh niên thói quen tiết kiệm, bảo vệ của chung; chống lãng phí xa hoa, xem khinh lao động” . Với chị em phụ nữ Việt Nam vốn có tính cách tốt đẹp là cần cù, chịu khó, biết lo toan, Bác khuyến khích chị em hăng hái thi đua thực hiện “cần kiệm xây dựng Tổ quốc, cần kiệm xây dựng gia đình”. Với cán bộ ngành ngoại giao, Bác căn dặn những điều cần chú ý: “Cán bộ ngoại giao ta ra ngoài phải có hình thức làm sao cho gọn ghẽ, sạch sẽ, nhưng không được lãng phí, xa hoa. Tr­ường hợp làm tiệc mặn, song nếu ta làm được tiệc trà thay vào là tốt nhất. Ta không thể đua với người được. Người giàu có, còn ta thì nghèo. Chính vì vậy, phải hết sức tiết kiệm. Ngoại giao càng phải tiết kiệm”(9). Trong Thư gửi đồng bào công giáo nhân dịp lễ Nôen 1953, Bác kêu gọi đồng bào công giáo tham gia kháng chiến cứu nước, thi đua tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng, tín ngưỡng tự do. Bác khẳng định đó cũng chính là “làm trọn chính sách của Chính phủ cũng là làm trọn tinh thần của Chúa Cơ đốc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết nhiều bài báo biểu dương trực tiếp các cá nhân, tập thể kiểu mẫu, gương mẫu, điển hình trong sản xuất và tiết kiệm, chống lãng phí như trong bài báo Một làng tiến đến kiểu mẫu (Báo Cứu quốc số 2141, ngày 12/8/1952) Người đã làm thơ ca ngợi gương của làng Thọ Xuân (Thanh Hóa):“Phân công hợp lý cả làng/ Sản xuất tiết kiệm rõ ràng thi đua/ Một mùa gặt bằng hai mùa/ Dân no, nước mạnh tha hồ đánh Tây”; bài báo Công nhân gương mẫu và gương mẫu của công nhân (Báo Nhân dân, số 247, ngày 27/10/1954) ca ngợi các cá nhân và tập thể công nhân các nhà máy Gia Lâm, nhà máy điện Bờ Hồ trong thực hiện cần kiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng; bài báo Gương tốt của thanh niên Lỗ Khê (Báo Nhân dân, số 3582, ngày 18/1/1964) với kế hoạch Tết tươi vui và tiết kiệm, tạo phong trào thi đua cho các chi đoàn Hà Nội và nhiều tỉnh khác… Bởi theo quan niệm của Người, một tấm gương sống, một điển hình thực tế và sinh động có giá trị thuyết phục hơn nhiều lần những bài diễn văn tuyên truyền. Nếu cán bộ, đảng viên, công chức kêu gọi nhân dân cần kiệm mà mình lười biếng, sống xa xỉ, lãng phí thì tuyên truyền một trăm năm cũng vô ích.

Cùng với tuyên truyền, kêu gọi thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, bản thân Người luôn gương mẫu cho cán bộ, đảng viên, nhân dân làm theo. Những ngày đầu vừa thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, trước nạn đói đang trầm trọng, trên tinh thần “sẻ cơm nhường áo”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với đồng bào cả nước và bản thân Người đã gương mẫu thực hiện trước: “Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”(10). Đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký của Bác kể lại: Nhân dân ta lúc đó dù còn nhiều khó khăn nhưng Cụ Hồ đã kêu gọi thì từ Nam chí Bắc đều hưởng ứng nhiệt liệt. Bởi, không phải Cụ Hồ chỉ kêu gọi mà chính Cụ Hồ đã làm, đã thực hiện và là người thực hiện đầu tiên... Nhớ hồi đó có nhiều thư từ khắp nơi gửi đến, có thư của các cụ già, của phụ nữ, của cả các cháu thiếu nhi... gửi đến Chính phủ, đến Cụ Hồ, đề nghị Bác đừng nhịn ăn. Cảm động hơn có nhiều người xin nhịn thêm để thay phần cho Bác. Nhưng câu trả lời là: “Tôi là người nêu ra, tôi phải làm gương mẫu”(11). Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo cứu đói. Phong trào tăng gia sản xuất được đẩy mạnh, diện tích trồng lúa và hoa màu tăng lên, nạn đói đã sớm được khắc phục.

Tấm gương đạo đức sống trong sạch, tiết kiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là mẫu mực cho mọi người Việt Nam học tập, làm theo mà còn được báo chí nước ngoài, bạn bè quốc tế nhiều lần nhắc đến, mến phục. Học giả Trung Quốc Cốc Nguyên Dương nhận xét: “Suốt đời, Người luôn luôn gìn giữ đạo đức cao đẹp “cần kiệm liêm chính” và “chí công vô tư”, dùng 8 chữ đó để giáo dục cán bộ và nhân dân”(12). Đồng chí Gian-nét Véc-mét Tô-rê, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp viết: “Người sống trong một căn nhà nhỏ đơn sơ, trong đó chỉ có một cái giường con, và một chiếc bàn làm việc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mặc chiếc áo khoác ngoài cũ, đi đôi dép cao su làm bằng lốp ô tô, không có gì hơn thế. Giữa bạn bè người ta không biết lấy gì biếu Chủ tịch mà hình như Chủ tịch cũng không cần điều gì khác hơn là sự ủng hộ chính nghĩa đối với Việt Nam”(13). Nhà báo Pháp Phơ-răng-xoa Phông-vi-ây An-ki-ê ca ngợi: “Vinh quang đến tột đỉnh, nhưng con người Cụ vẫn như trước kia, nghĩa là vẫn ghét xa hoa, hào nhoáng, vẫn giản dị về ăn mặc cũng như trong tác phong sinh hoạt. Khi Cụ để cho các em học sinh vuốt râu mình lúc đến thăm trường, hoặc khi Cụ đi đôi dép bằng lốp cao su, thì đều không có chút gì là mị dân hoặc giả tạo cả”(14). Như vậy, nếp sống giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đơn thuần là tiết kiệm mà mang ý nghĩa rất cao đẹp.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh tiết kiệm không chỉ xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, mà còn từ tấm lòng yêu nước thương dân tha thiết. Điều này không chỉ cần thiết trong thời kỳ đất nước còn trong chiến tranh, mà còn có giá trị thực tiễn đối với giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân lao động được cải thiện rõ rệt. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí luôn được Ðảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm chỉ đạo, là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, xuyên suốt từ chủ trương, đường lối, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện, nhằm quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế cho phát triển kinh tế - xã hội. Kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã góp phần đưa công cuộc đổi mới đạt những thành tựu vĩ đại; đạt và vượt hầu hết các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội qua các nhiệm kỳ; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội của đất nước.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả, lãng phí còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển. Trong văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã coi lãng phí là một căn bệnh - “bệnh lãng phí”, nếu không có những giải pháp đồng bộ phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả sẽ gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển. Mới đây, trong bài viết Chống lãng phí, Tổng bí thư Tô Lâm cũng chỉ ra thực trạng lãng phí đã và đang còn tồn tại ở nước ta, thậm chí là tồn tại dai dẳng, không chỉ khiến mất đi tài sản công, lãng phí nguồn lực quốc gia, thu hẹp những cơ hội phát triển mà đau xót hơn là gây mất lòng tin trong nhân dân đối với Đảng cầm quyền.

Việc tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống lãng phí vào thực tiễn để đưa ra giải pháp phù hợp đối với mỗi tổ chức, đơn vị trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ những giải pháp để chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người nhấn mạnh, muốn đánh thắng nó, phải có chuẩn bị thật chu đáo, có kế hoạch, có tổ chức, có lãnh đạo và điều quan trọng là phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ trung kiên làm nòng cốt để chống. Người phản đối việc bố trí những người đã “nhúng chàm” làm nhiệm vụ chống tham ô, lãng phí, quan liêu, vì làm như vậy, thực chất là “nối giáo cho giặc”. Theo quan điểm, tư tưởng của Người, các bước cần tiến hành để trừ khử tham ô, lãng phí, quan liêu là:

Một là, phải làm tốt công tác tư tưởng, làm cho mọi người hiểu tham ô, lãng phí, quan liêu có hại cho dân, cho nước như thế nào và vì sao phải chống những nạn ấy? Phải kiên quyết sửa chữa những nhận thức không đúng về chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Để có thể tiết kiệm, chống lãng phí, cán bộ, đảng viên cũng cần rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc từ đó tạo ra sự tin tưởng, đồng thuận trong dân, tạo ảnh hưởng tích cực đến công tác xây dựng và phát triển đất nước.

Hai là, phải nghiên cứu để có lý luận chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Nghiên cứu kỹ và vận dụng tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc chống tham ô, lãng phí, quan liêu; phải sửa đổi lối làm việc; nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình. Đặc biệt, đối với cán bộ cao cấp phải “thật thà tự kiểm thảo để làm gương mẫu”; phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm. Phải kiên quyết “nhổ cỏ” và khi đã nhổ thì phải nhổ tận gốc rễ.

Ba là, phải nâng cao ý thức trách nhiệm trong công việc, nâng cao trình độ quản lý kinh tế - tài chính; tăng cường kiểm tra, giám sát, không để tạo kẽ hở cho bọn tham ô, lãng phí, quan liêu đục khoét. Trong cuộc đấu tranh này, phải dựa vào nhân dân, thực hành dân chủ rộng rãi, huy động lực lượng quần chúng tham gia. “Quần chúng tham gia càng đông, thành công càng đầy đủ, mau chóng”.

Bốn là, phải có phương pháp giữ gìn tiền bạc, phải thực hành một chế độ tiết kiệm nghiêm ngặt, nhất là tiết kiệm trong chi tiêu ở các cơ quan hành chính, giảm thiểu việc họp hành nếu xét thấy nó không cần thiết.

Năm là, trong công cuộc đấu tranh chống lãng phí, các cơ quan thanh tra nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn thị: “các ban thanh tra phải chú ý kiểm tra chống lãng phí, tham ô. Phát hiện ra những việc lãng phí, tham ô, chẳng những cần báo cáo với Trung ương và Chính phủ biết và giải quyết mà còn giúp các cấp lãnh đạo địa phương tìm ra những biện pháp để tích cực chống lãng phí, tham ô”. Như vậy, thanh tra, kiểm tra không những để phát hiện vi phạm, phát hiện lãng phí để xử lý. Quan trọng hơn, qua kiểm tra, các cơ quan thanh tra nhà nước tìm hiểu nguyên nhân, tìm ra biện pháp chống lãng phí, từ đó, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, với bản thân các cơ quan là đối tượng thanh tra, kiểm tra để có các giải pháp hữu hiệu nhằm thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có hiệu quả.

Cuộc đấu tranh chống lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Trong cuộc chiến với thứ “giặc nội xâm” đầy cam go, phức tạp này, cần nâng cao ý thức, trách nhiệm trong cán bộ, đảng viên và người lao động, trước hết là sự nêu gương của người đứng đầu tại từng cơ quan, tổ chức, cá nhân khu vực công, khu vực tư để từ đó “tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, trở thành tự nguyện, tự giác của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, văn hóa ứng xử trong thời đại mới” như Tổng bí thư Tô Lâm đã kêu gọi./.


 Tạp chí Tuyên giáo

 🇻🇳 9 NƯỚC CÓ QUAN HỆ ĐỐI TÁC CHIẾN LƯỢC TOÀN DIỆN VỚI VIỆT NAM 🇻🇳🇻🇳


Tính đến tháng 11/2024, Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 9 quốc gia. Đó là: Trung Quốc (2008), Liên bang Nga (năm 2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản (11/2023), Australia (3/2024), Pháp (10/2024) và Malaysia (21/11/2024).


📸 TTXVN

tuấn d38

 BÁC BỎ SỰ XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN LỊCH SỬ HÒNG PHÁ HOẠI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Thêu dệt để xuyên tạc những sự kiện lịch sử nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kích động xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những hình thức mà các thế lực thù địch thường sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh bác bỏ thủ đoạn này là yêu cầu cấp bách trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Lịch sử là những điều đã qua, nhưng luôn có quan hệ mật thiết với hiện tại và tương lai. Đối với mỗi chủ thể khác nhau, lịch sử bao gồm cả những thành công và hạn chế, thậm chí là thất bại. Có nhiều góc nhìn về lịch sử, song về nguyên tắc, xem xét, đánh giá lịch sử phải công bằng, khách quan, không được tô hồng, bôi đen, định kiến, chủ quan. Cho đến nay, nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là sự khái quát cao nhất, khoa học nhất để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng nói chung và lịch sử nói riêng. Mọi sự xa rời hoặc không tuân thủ nguyên tắc này khi xem xét, đánh giá lịch sử sẽ không tránh khỏi sai lầm. Điển hình như việc các thế lực thù địch xuyên tạc về cơ sở hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin; lấy sự kiện sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu để quy chụp cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác – Lênin; xuyên tạc lịch sử hình thành, nội dung, bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh hòng phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v. Đây là những luận điểm hết sức sai lầm về mặt khoa học và phản động về chính trị và những luận giải dưới đây sẽ làm rõ tính chất phản động của nó.

Trước hết, về cơ sở sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị viện cớ: thời gian hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin từ giữa, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là quá lâu và quá cũ rồi nên đã hết giá trị khoa học, ý nghĩa hiện thực. Rằng, chủ nghĩa Mác chỉ đúng, phù hợp với điều kiện lịch sử ở châu Âu, thế kỷ XIX, nay đã lạc hậu; chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp ở một chừng mực nào đó với trình độ lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với thời đại ngày nay; chỉ đúng với phương Tây, không đúng với phương Đông,... (!). Đây chính là biểu hiện cố tình tách rời, thậm chí là đối lập giữa C.Mác và Ph.Ăngghen với V.I.Lênin, trong khi tư tưởng của các ông là thống nhất ở bản chất cách mạng, khoa học, cho dù có sự khác nhau ở một số nội dung, quan điểm cụ thể.

Về mặt khoa học, nếu chỉ lấy yếu tố thời gian hình thành, phát triển sớm hay muộn của một học thuyết, một tư tưởng để phán xét giá trị của nó là không khách quan, thậm chí hoàn toàn sai lầm. Bởi, trong thực tế có những học thuyết, tư tưởng vừa mới ra đời đã lạc hậu, không còn giá trị đối với xã hội. Ngược lại, có những lý luận, định đề, định lý của khoa học tự nhiên hay tư tưởng mang tính nhân đạo, nhân văn của nhân loại ra đời trước chủ nghĩa Mác - Lênin rất lâu, như: tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái xuất hiện vào thời kỳ Phục hưng (thế kỷ XV - XVI) ở phương Tây đến nay vẫn được nghiên cứu, thừa nhận như một tín hiệu mới, có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển của xã hội. Do đó, không thể chỉ căn cứ vào yếu tố thời gian để chủ quan phán xét về giá trị của một học thuyết, mà phải xem xét trên cơ sở khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong khi đó, chủ nghĩa Mác - Lênin với tính chất của một học thuyết dẫn đường đã mở ra thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới; là nền tảng tư tưởng của các đảng cộng sản tập trung nhất ở phép biện chứng duy vật, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư,… đã, đang chứng minh sức sống và giá trị bền vững thì sự xuyên tạc về lịch sử hình thành, phát triển cũng như sự phù hợp của học thuyết này là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Không những thế, học thuyết Mác - Lênin là học thuyết mở; là sự định hướng về thế giới quan, phương pháp luận khoa học chung cho cả nhân loại, chứ không riêng cho quốc gia nào,... cho nên không thể nói rằng nó chỉ đúng với phương Tây, không đúng với phương Đông như các luận điệu xuyên tạc. Điều đó càng cho thấy, việc lấy yếu tố thời gian cũng như sự phù hợp với nơi này, không phù hợp với nơi khác,... để phủ nhận giá trị khoa học, bản chất cách mạng một học thuyết chỉ là cái cớ hòng thực hiện mưu đồ chống phá nền tảng tư tưởng, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội.

Hai là, không thể lấy sự kiện sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu (thập niên cuối thế kỷ XX) để quy chụp cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta đều biết, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một sự thật lịch sử vô cùng đáng tiếc sau bao nhiêu năm dày công vun đắp. Tuy nhiên, đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa cụ thể, với những nguyên nhân xác đáng chứ không phải là sụp đổ của một học thuyết cách mạng và khoa học như chủ nghĩa Mác - Lênin và càng không phải là sự chấm dứt lịch sử phát triển của nhân loại đi lên chủ nghĩa xã hội theo tiến trình lịch sử - tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Thế nhưng các thế lực thù địch lại vin vào sự kiện này để quy chụp rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin đã không có giá trị, sức sống; chủ nghĩa xã hội chỉ là “quái thai” của lịch sử hoặc chỉ tồn tại trong tư tưởng, không có tính hiện thực; C.Mác và Ph.Ăngghen sáng tạo ra lý luận đấu tranh giai cấp để quăng lên vai những người lao động sứ mệnh tàn sát lẫn nhau; thậm chí, họ còn biện hộ cho chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao nhất của lịch sử nhân loại, v.v. Toàn bộ những luận điệu trên của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cả trong lịch sử và hiện nay, dù diễn đạt dưới bất cứ hình thức nào, chung quy lại vẫn là đổ lỗi cho các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, họ rêu rao rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng; kiên định với mục tiêu chủ nghĩa xã hội là không thức thời, lầm đường, lạc lối, đi vào ngõ cụt và trước sau cũng sụp đổ (!).

Đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, chúng ta khẳng định rằng: sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là sự phản ánh bước phát triển quanh co, phức tạp của lịch sử chứ không phải là sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội với tính chất là xu hướng phát triển chung của nhân loại. Đó chỉ là sụp đổ của một mô hình bị rơi vào xơ cứng, giáo điều, không sinh động ở những thập niên cuối thế kỷ XX. Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật thì mô hình ấy đáng phải sụp đổ để tư tưởng các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là khoa học, cách mạng. Bởi, xơ cứng, giáo điều là kẻ thù số một của phép biện chứng duy vật. Sự sụp đổ đó không phải do lỗi của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, vì họ đã chỉ ra lý luận của mình chỉ là định hướng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và khi vận dụng vào thực tiễn phải sáng tạo, cụ thể. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu từ sau thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga đến thập niên 70 của thế kỷ XX đã thu được những thành tựu kỳ diệu, mà nhân loại không thể phủ nhận. Đáng tiếc là sau đó, Đảng Cộng sản ở các nước đó không tuân thủ những nguyên tắc căn bản trong xây dựng đảng, bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, đặc biệt là bọn cơ hội xét lại trỗi dậy, lũng đoạn bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Vì vậy, việc đổ lỗi do sai lầm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là không tôn trọng lịch sử, thể hiện rõ mưu đồ của các thế lực thù địch là chống phá cách mạng, mà trực tiếp nhất là chống phá Đảng Cộng sản. Và, thật nực cười khi họ lại suy diễn một cách cơ học, siêu hình như vậy, trong khi lẽ ra phải khẳng định rằng, mặc dù Đảng Cộng sản ở các nước Đông Âu, Liên Xô xa rời, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đến sụp đổ, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng là một biểu tượng sáng ngời về tính kiên định, sự trung thành mới phải.

Ba là, về sự xuyên tạc lịch sử hình thành, nội dung, bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Có thể khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh ở nhiều vấn đề, nhưng tựu trung lại là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đó đã vượt lên trên tất cả các tư tưởng đương thời trong nước lúc bấy giờ, thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin ở bản chất khoa học, cách mạng; đồng thời, mang sắc thái riêng của lãnh tụ Hồ Chí Minh, khẳng định vị trí, định hướng tư tưởng cho lịch sử phát triển ở Việt Nam. Kết quả lịch sử hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với sự ra đời, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đưa cách mạng nước ta giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với tầm vóc to lớn về tính cách mạng và giá trị khoa học như thế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (1991) đã bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin. Ấy vậy mà, các thế lực thù địch lại xuyên tạc một cách trắng trợn rằng, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ có khác biệt, không có sự thống nhất. Họ thường sử dụng thủ đoạn: cường điệu hóa tính dân tộc trong tư tưởng của Người để tách biệt, đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin; tỏ vẻ ca ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh rất khách quan, nhưng thực chất là hạ thấp uy tín, tầm ảnh hưởng của Người ở trong nước và quốc tế; không nghiên cứu kỹ hoặc cố tình không hiểu bản chất, cốt lõi tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, v.v. Thâm hiểm hơn, họ còn vu khống rằng: Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vào Việt Nam để Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn; nồi da, nấu thịt”; họ cho rằng không nhất thiết phải tiến hành các cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh giải phóng mà vẫn có thể có độc lập dân tộc. Đây là một sự phỉ báng lịch sử, nhằm phủ nhận những cống hiến, hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta. Họ cũng không hiểu hay cố tình không hiểu rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và độc lập theo kiểu tư sản trái ngược nhau về nội dung, bản chất, giá trị tiến bộ. Hiện thực minh chứng: mặc dù nhiều nước đã có độc lập tư sản mà không phải tiến hành chiến tranh, nhưng thực chất vẫn không có độc lập dân tộc theo đúng nghĩa của nó. Sự độc lập đó vẫn làm cho các đảng phái chính trị trong nước thường xuyên tranh giành quyền lực, gây bất ổn chính trị, thậm chí là đảo chính, xung đột vũ trang, tổn thất rất nhiều xương máu của quần chúng nhân dân và ở chừng mực nào đó, vẫn bị lệ thuộc vào các nước đế quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. 

Từ những phân tích trên cho thấy, bác bỏ sự xuyên tạc, phủ nhận lịch sử của các thế lực thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là vấn đề mang tính thường xuyên, cấp bách hiện nay. Cùng với đó, cần không ngừng nắm vững và vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Xây dựng đời sống tinh thần xã hội với tính đồng thuận cao, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi hoàn toàn./. 


Tạp chí QPTD

 BẾ MẠC KỲ HỌP THỨ TÁM, QUỐC HỘI KHÓA XV SAU 29,5 NGÀY LÀM VIỆC VỚI TINH THẦN ĐỔI MỚI TRÁCH NHIỆM CAO

Chiều 30-11, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội khóa XV tiến hành phiên bế mạc Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV sau 29,5 ngày làm việc nghiêm túc, khoa học, dân chủ, trách nhiệm cao, với tinh thần đổi mới.

Tham dự phiên bế mạc có các đồng chí: Tổng Bí thư Tô Lâm; Chủ tịch nước Lương Cường; Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính; Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam...

Công tác nhân sự thực hiện chặt chẽ, đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao

Phát biểu bế mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho biết, sau 29,5 ngày làm việc nghiêm túc, khoa học, dân chủ, trách nhiệm cao, với tinh thần đổi mới, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khắc phục các điểm nghẽn, khơi thông nguồn lực, tập trung cao độ phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân, Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV đã hoàn thành toàn bộ nội dung chương trình đề ra.

Kỳ họp thứ tám, Quốc hội đã xem xét, quyết định khối lượng công việc rất lớn, trong đó, có nhiều vấn đề khó, phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực và thực tiễn đang đòi hỏi cấp thiết.

Nổi bật, đây là kỳ họp có khối lượng nội dung về công tác lập pháp rất nhiều. Quốc hội đã biểu quyết thông qua 18 luật với tỷ lệ tán thành cao, trong đó có các luật, nghị quyết được doanh nghiệp và cử tri, nhân dân rất quan tâm.

Quốc hội cũng đã xem xét, thông qua 21 nghị quyết, trong đó, có 4 nghị quyết quy phạm pháp luật gồm: Nghị quyết về thí điểm xử lý vật chứng, tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử một số vụ việc, vụ án hình sự; Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại TP Hải Phòng; Nghị quyết về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án, đất đai trong kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại TP Hồ Chí Minh, TP Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa; Nghị quyết thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất.

Đồng thời, Quốc hội cũng đã cho ý kiến lần đầu đối với 10 dự án luật khác. Quốc hội cũng đã thảo luận các báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2024 và xem xét, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương năm 2025 và nhiều tờ trình, đề án về các vấn đề cấp bách, phục vụ quốc kế dân sinh, phát huy tối đa các nguồn lực, cơ hội phát triển như: Nghị quyết thành lập TP Huế trực thuộc Trung ương; quyết định chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035; Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống m.a t.úy đến năm 2030; dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; chủ trương khởi động lại việc đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận...

Tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội đã xem xét báo cáo và thông qua Nghị quyết giám sát chuyên đề “việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến năm 2023”; thảo luận báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân; kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri và một số báo cáo quan trọng khác. Quốc hội đã tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn 3 lĩnh vực: Ngân hàng, y tế, thông tin và truyền thông. Quốc hội đã cho ý kiến để ban hành Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn.

Về công tác nhân sự, Chủ tịch Quốc hội cho biết, đã được thực hiện chặt chẽ theo đúng quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước; Quốc hội đã tiến hành bầu Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bầu Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội; phê chuẩn bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải; Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; đồng thời tiến hành công tác nhân sự khác theo thẩm quyền và đã đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao của các vị đại biểu Quốc hội.


Đánh giá cao những đổi mới hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ


Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao quyết tâm, nỗ lực không ngừng nghỉ và những đổi mới hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; sự vào cuộc quyết liệt của các địa phương, vì vậy trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức, có những việc bất ngờ khó có thể lường trước, như thiên tai, bão lũ, nhưng các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã cơ bản hoàn thành. 


Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã phân tích, thẳng thắn chỉ rõ những khó khăn, thách thức, những bất cập của nền kinh tế và đề xuất nhiều giải pháp cụ thể.


Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội thực hiện kịp thời, có hiệu quả những cam kết trước Quốc hội, trước cử tri và nhân dân cả nước. Tiếp tục bám sát tình hình thực tiễn, nâng cao năng lực phân tích, dự báo, phản ứng chính sách kịp thời, có các giải pháp hiệu quả, phấn đấu hoàn thành cao nhất Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2025 và các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đề ra.


Để tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, gắn kết chặt chẽ công tác xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật, coi đây là yếu tố quan trọng để phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Quốc hội đề nghị Chính phủ, các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan hữu quan tập trung chỉ đạo, quán triệt, khẩn trương ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết, triển khai thực hiện có hiệu quả các luật, nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua; đồng thời, thường xuyên rà soát, đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau khi ban hành để kịp thời điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi; chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý những vấn đề mới, xu hướng mới, tạo đột phá phát triển đất nước.


Khẩn trương sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy “tinh, gọn, mạnh”


Nhấn mạnh năm 2025 là năm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2021-2026, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn khẳng định: Trên tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 10, khóa XIII, trong đó có yêu cầu cấp bách của công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước trong giai đoạn mới; nội dung phát biểu quan trọng của Tổng Bí thư Tô Lâm tại phiên khai mạc Kỳ họp cũng như những chỉ đạo của Tổng Bí thư gần đây về công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Văn phòng Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, khẩn trương sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy “tinh, gọn, mạnh”, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ.


Quốc hội và các cơ quan tiếp tục đồng hành cùng với Chính phủ, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, nỗ lực phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2025, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, chuẩn bị tốt nhất cho Đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, tạo tiền đề tốt nhất cho công cuộc đổi mới và phát triển mạnh mẽ của dân tộc trong kỷ nguyên mới./. 


Báo QĐND

 “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI - THỦ ĐOẠN THÂM ĐỘC, XUYÊN SUỐT CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 "Từ góc độ thực tiễn cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào "trung lập về chính trị" hay "đứng ngoài chính trị"; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì".

Tại Hội thảo khoa học “80 năm xây dựng QĐND Việt Nam vững mạnh về chính trị - Thành tựu và kinh nghiệm” tổ chức ngày 27/11 ở Hà Nội, Trung tướng, PGS, TS Nguyễn Ngọc Hồi, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Quốc phòng toàn dân đã có tham luận nhan đề:"Phi chính trị hóa" quân đội - Thủ đoạn thâm độc, xuyên suốt của các thế lực thù địch". VOV xin lược trích những nội dung chính của bài viết này:

Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng, phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược "Diễn biến hòa bình". Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là hô hào "phi chính trị hóa" quân đội, với mục đích tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này được họ áp dụng thành công ở Liên Xô, Đông Âu trước đây và hy vọng sẽ thành công ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.


Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, nên chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch ráo riết kêu gọi phải "phi chính trị hóa" quân đội. Họ tính toán rằng, một khi Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động và mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đố Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản "không đánh mà thắng".


Năm 2013, lợi dụng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức xin ý kiến nhân dân vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các thế lực chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xem đây là thời cơ để công khai đòi "phi chính trị hóa" quân đội. Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: "Quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị", "Quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào", mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là "không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam",...


Để thực hiện mưu đồ "phi chính trị hóa" quân đội, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn. Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc hoạt động của quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào.


Trong hành động thực tiễn, những người cổ xúy cho mưu đồ "phi chính trị hóa" quân đội yêu cầu: một khi có biến động chính trị, thì quân đội hãy án binh bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có một Đảng Cộng sản lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc "Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội"; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị (nhất là chế độ chính ủy, chính trị viên) trong quân đội - một trong những yếu tố riêng có của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho Đảng Cộng sản giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội.


Họ xuyên tạc các sự kiện chính trị trong lịch sử có quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài đơn vị quân đội và một bộ phận quân nhân trong quá trình làm nhiệm vụ; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng Quân đội... hòng qua đây, làm cho quân đội mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội trong xã hội, từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.


Để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của Việt Nam sang quý đạo tư bản chủ nghĩa trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và logic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam.


Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; "bỏ quy định lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam" đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ quân đội, làm cho Quân đội ta xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dẫn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Từ góc độ thực tiễn cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào "trung lập về chính trị" hay "đứng ngoài chính trị"; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì. Không khó để nhận thấy sự tham chính của quân đội nhiều nước, khi người ta vẫn chứng kiến các vụ đảo chính quân sự ở nước này, nước khác, nhất là ở châu Á, châu Phi trong những năm gần đây. Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp, quân đội không chỉ được dùng vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, mà còn được dùng vào các hoạt động xâm lược, lật đổ, can thiệp quân sự vào các quốc gia có chủ quyền khác, nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở đây các chính phủ thân phương Tây; thực chất là để phục vụ đường lối đối nội và đối ngoại của các đảng chính trị cầm quyền, mà suy cho cùng là phục vụ lợi ích của các thế lực tư bản độc quyền đứng đằng sau các chính phủ đương nhiệm.


Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó. Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên dương của Bác: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"./. 


Báo VOV

BẢN CHẤT BỘ ĐỘI CỤ HỒ THỂ HIỆN RÕ TRONG LUẬT SĨ QUAN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM!

     Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân bên hành lang Quốc hội, đại biểu Hồ Thị Minh (Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị) cho rằng, bản chất Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện rất rõ trong luật này!

PV: Thưa đại biểu Hồ Thị Minh, sau quá trình nghiên cứu, thảo luận với tinh thần trách nhiệm và xây dựng rất cao, Quốc hội vừa bấm nút thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Bà đánh giá như thế nào về luật này, sau khi được Quốc hội thông qua?

Đại biểu Quốc hội Hồ Thị Minh: Tôi đánh giá rất cao Ban soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong quá trình Quốc hội thảo luận về dự án luật, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng-Đại tướng Phan Văn Giang đã rất thẳng thắn khi phát biểu giải trình, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội.

Với tình cảm và sự quan tâm đặc biệt dành cho bộ đội, có một số đại biểu đề nghị tăng tuổi tại ngũ của sĩ quan lên cao hơn mức đề xuất. Tuy nhiên, đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giải trình rằng chỉ nên tăng đến mức như Ban soạn thảo đề nghị, vì còn liên quan tới sức khỏe của sĩ quan trong việc bảo đảm chất lượng, hiệu quả công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và các nhiệm vụ khác trong Quân đội.

Một số đại biểu cũng đề nghị nâng mức quân hàm của Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh lên cấp tướng. Đại tướng Phan Văn Giang cũng giải thích rõ: Để phong được quân hàm cấp tướng thì cần có bề dày cống hiến. Nếu các đồng chí Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự cấp tỉnh phấn đấu, cống hiến tốt thì sẽ phát triển được đến vị trí quy định trong luật để được thăng quân hàm cấp tướng.

Những giải trình của Đại tướng Phan Văn Giang đã cho thấy bản chất Bộ đội Cụ Hồ đã được thể hiện rất rõ trong Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam cũng như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam mà Quốc hội vừa thông qua.

PV: Qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam; Luật Phòng không nhân dân mà Quốc hội vừa thông qua tại kỳ họp này cũng như một số luật khác, bà đánh giá như thế nào về chất lượng các dự án luật do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo?

Đại biểu Hồ Thị Minh: Nhìn chung, các dự án luật do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo đều rất công phu, tuân thủ đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có chất lượng, cùng với tinh thần tiếp thu rất đầy đủ, cầu thị ý kiến của đại biểu Quốc hội, cũng như với bản chất Bộ đội Cụ Hồ được thể hiện rất rõ, nên các đại biểu rất yên tâm khi bấm nút thông qua.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam nhận được sự tán thành của 458/459 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết; Luật Phòng không nhân dân nhận được sự tán thành của 449/449 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết đã cho thấy rõ điều đó.

Không chỉ các luật được Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này, mà tất cả các luật do Bộ Quốc phòng chủ trì soạn thảo đều rất trách nhiệm, có chất lượng, quá trình tiếp thu ý kiến đại biểu lại rất cầu thị. Do vậy, các luật sau khi được ban hành, có hiệu lực thì đều được thực thi rất hiệu quả.

PV: Bà kỳ vọng như thế nào vào tác động của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, khi luật này có hiệu lực thi hành?

Đại biểu Hồ Thị Minh: Với những nội dung của luật đã được Quốc hội thông qua, tôi cho rằng đây là nguồn động viên rất lớn cho đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Luật đã có sự điều chỉnh về nhiều chế độ, chính sách theo hướng bảo đảm tốt hơn cho sĩ quan, như nâng thời gian phục vụ tại ngũ một cách hợp lý để sĩ quan có điều kiện được hưởng mức lương hưu tối đa 75% theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và Bộ luật Lao động.

Vừa rồi, chúng ta cũng đã có điều chỉnh chính sách trong lực lượng Công an nhân dân, nên việc điều chỉnh chính sách trong lực lượng Quân đội nhân dân trong thời điểm này là hợp lý. Tất nhiên, mỗi ngành có đặc thù riêng, nên tôi không so sánh. Nhưng với sự quan tâm của Quốc hội với cả 2 lực lượng như vậy, tôi tin rằng các đồng chí đang phục vụ trong Quân đội nhân dân đều rất vui mừng đón nhận những chính sách mới mà Quốc hội vừa thông qua.

Những chính sách mới đã thể hiện rất rõ sự ghi nhận của Quốc hội với những cống hiến của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là lực lượng mà trong thời chiến hay thời bình đều có những sự cống hiến, hy sinh rất lớn vì sự bình yên, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Do vậy, sự đồng thuận rất cao của Quốc hội cũng chính là sự thể hiện rất rõ nét tình quân-dân rất đặc biệt. Quyết định của các đại biểu Quốc hội cũng thể hiện rất rõ tình cảm và sự tin tưởng của nhân dân ta với lực lượng Quân đội nhân dân-Bộ đội Cụ Hồ.

PV: Xin trân trọng cảm ơn bà!./.

Theo: QĐND
Yêu nước ST.

CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỤ RƠI MÁY BAY HUẤN LUYỆN QUÂN SỰ TẠI TRUNG ĐOÀN KHÔNG QUÂN 940!

         Gần đây, Trung đoàn Không quân 940, Trường Sĩ quan Không quân (Quân chủng Phòng không - Không quân) tổ chức bay huấn luyện tại sân bay Phù Cát (Bình Định), với máy bay Yak-130 (số hiệu 2101); thực hiện bay bài 208, bay đường dài - không vực - xuyên mây trong điều kiện khí tượng phức tạp, do Đại tá Nguyễn Văn Sơn, Trung đoàn trưởng, bay buồng trước và Thượng tá Nguyễn Hồng Quân, Chủ nhiệm bay, bay buồng sau. Máy bay cất cánh lúc 9 giờ 55 phút, đến 10 giờ 38 phút, khi kết thúc bài bay về hạ cánh, phi công báo cáo tình trạng máy bay thả càng không ra, đồng thời thực hiện các biện pháp xử lý tình huống thả càng khẩn cấp nhưng vẫn không được. 
 
Lợi dụng vụ việc này, trên trang Vietnamthoibao có đăng bài viết của “Cảnh Chân” với tiêu đề “Vụ rơi máy bay chiến đấu Yak - 130: mối lo cho năng lực quốc phòng của Việt Nam”. Điều đáng nực cười ở đây chính là Cảnh Chân không hiểu biết gì về năng lực quốc phòng của đất nước Việt Nam, nhưng lại phán xét, đánh giá, nhận định một cách phiến diện, siêu hình, vô căn cứ. Y cho rằng “thời bình máy bay chiến đấu vẫn bị rơi dù không có giặc; nếu bị tấn công không quân Việt Nam sẽ làm gì để bảo vệ Tổ quốc”. 

Có thể thấy rằng, trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu nói riêng và các hoạt động khác nói chung, các vụ tai nạn hi hữu xảy ra là điều không thể tránh khỏi; không chỉ ở nước ta mà ngay các nước trên thế giới, máy bay chiến đấu bị tai nạn trong huấn luyện cũng sảy ra rất nhiều. Ngày 1/5/2024 trang Ap đưa tin, một máy bay chiến đấu phản lực đa nhiệm F-16 Fighting Falcon của Mỹ đã gặp sự cố và rơi xuống gần Công viên quốc gia White Sands, phía Tây Căn cứ Không quân Holloman ở bang New Mexico (Mỹ). Chiếc F-16 bị rơi thuộc biên chế Phi đội tiêm kích số 49 của Căn cứ Không quân Holloman. Đây là vụ tai nạn thứ ba của loại máy bay chiến đấu F-16 của Mỹ trong 6 tháng qua. Trước đó, hai chiếc F-16 đã bị rơi ngoài khơi biển Hàn Quốc vào tháng 1 năm nay và tháng 12 năm ngoái trong lúc đang thực hiện nhiệm vụ huấn luyện tại Căn cứ Không quân Kunsan của Hàn Quốc . Ngày 4/8/2024, một máy bay chiến đấu Mirage của Không quân Pháp đã bị rơi trong khi tham gia huấn luyện tại miền Nam nước này, nâng số máy bay Mirage bị tai nạn trong huấn luyện của Pháp lên 6 vụ trong 2 năm vừa qua. 

Như vậy, không chỉ Việt Nam, mà ở Mỹ, Anh, Pháp hay Đức các vụ việc máy bay chiến đấu trong huấn luyện vẫn bị tai nạn, bị rơi. Điều đó cho thấy, việc máy bay Yak - 130 bị rơi trong quá trình huấn luyện ở Việt Nam cũng là việc hi hữu, giống như các nước khác trên thế giới chứ đâu phải như phán xét thiếu căn cứ của Cảnh Chân. Việc máy bay huấn luyện bị rơi, không phản ảnh năng lực quốc phòng của một quốc gia, vùng lãnh thổ. Mới đây Global Firepower, Tổ chức phân tích quốc phòng nổi tiếng hàng đầu thế giới đã nghiên cứu và công bố sức mạnh quân sự của các quốc gia năm 2023. Việt Nam có sự tăng hạng ấn tượng, từ vị trí 24 năm 2021, lên vị trí thứ 19 năm 2023.

Thực hiện chủ trương Đại hội XIII của Đảng đề ra, xác định Quân chủng Phòng không, Không quân tiến thẳng lên hiện đại và được trang bị các loại máy bay chiến đấu hiện đại như: Su-30 MK2, Su-27, Su-22, máy bay vận tải tầm trung C-295, máy bay chiến đấu tiêm kích hạng nhẹ MiG-21, v.v. và từ thực tiễn trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đã chứng minh rằng lực lượng Phòng không - Không quân đủ sức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới; hoàn thành sứ mệnh vẻ vang là lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong quản lý và bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Với truyền thống yêu nước, thương nòi, đoàn kết một lòng của dân tộc Việt Nam và với một tiềm lực quốc phòng ngày càng được củng cố, tăng cường thì việc bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là điều hiển nhiên, đâu cần đến những kẻ phản quốc, như Cảnh Chân phải lo thay./.
Yêu nước ST.