Việc
thúc đẩy “ngoại giao cây tre” thể hiện sự tự tin trong hoạt động đối ngoại của
Việt Nam, đồng thời đây cũng là triết lý ngoại giao của Việt Nam, luôn là kim
chỉ nam hành động của người làm đối ngoại và ngoại giao bởi lợi ích quốc gia - dân
tộc là bất biến, phương pháp để đạt và bảo vệ lợi ích đó là vạn biến. Đây là
nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải - nghiên cứu viên Trung tâm Tương lai
chính sách, Đại học Queensland (Australia) trong cuộc trao đổi với phóng viên
TTXVN tại Sydney về nội hàm và ý nghĩa của "ngoại giao cây tre Việt
Nam".
Theo
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải, để dẫn dắt và đặt tên cho “trường phái ngoại giao”
Việt Nam hiện đại, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đi sâu phân tích
những đặc trưng và đặc tính của “cây tre Việt Nam”. Cụ thể, đặc trưng đầu
tiên là truyền thống, văn hóa và “trường phái ngoại giao” của người Việt Nam
từ khi “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế cư; Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”. “Trường
phái ngoại giao” đó chính là “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn; Lấy trí nhân để
thay cường bạo”, luôn lấy tinh thần khoan dung, hòa hiếu, nhân nghĩa trong ứng
xử; mềm dẻo, uyển chuyển, linh hoạt, cương nhu, biết người, biết mình, biết
thời, biết thế trong sách lược, “trong xưng đế, ngoài xưng vương” để trên hết
là “Đất nước an toàn là thượng sách, cốt sao cho dân được an ninh”.
Thứ
hai là truyền thống quật cường của dân tộc trong việc giữ vững nền độc lập và
chống ngoại xâm. Mặc dù khoan dung và luôn muốn hòa hiếu, nhưng Việt Nam vẫn
kiên định và kiên quyết về nguyên tắc đấu tranh chống giặc ngoại xâm với
tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô nệ”.
Thứ
ba là tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh trong tổng thể hệ tư tưởng
của Người. Tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh chính là sự kết tinh
giữa truyền thống và văn hóa của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, và thực tiễn
hoạt động phong phú của Người. Điều quan trọng và cốt lõi nhất trong Tư tưởng
Hồ Chí Minh và được Người thể hiện bằng việc làm của mình trong suốt toàn bộ
cuộc đời “vì nước, vì dân” của mình chính là “việc gì có lợi cho dân, ta phải
hết sức làm” và “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
“Dân”, “Tổ quốc”, và “Dân tộc” là một. Trong hoạt động đối ngoại, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đặt và yêu cầu “lợi ích dân tộc” là trên hết, “muốn làm gì cũng
vì lợi ích của dân tộc mà làm”. Và để “làm” được như Chủ tịch Hồ Chí Minh
dạy, cần “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Mặc dù đề cao “lợi ích dân tộc” là trên
hết, nhưng Người không cực đoan theo đuổi chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, mà Người
cho rằng cách mạng Việt Nam gắn liền với cách mạng thế giới, “tinh thần yêu
nước và tinh thần quốc tế liên hệ khăng khít với nhau. Vì lẽ đó, ta vừa ra sức
kháng chiến, vừa tham gia phong trào ủng hộ hòa bình thế giới”.
Thứ
tư là thành quả phát triển và vị thế quốc tế thực tế của Việt Nam từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới cho đến nay, trong đó có đóng góp
rất lớn của công tác đối ngoại. Công cuộc đổi mới của Việt Nam đã đưa công tác
đối ngoại của đất nước như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hình tượng hóa là một
bên cánh của con chim, không thể thiếu cho sự phát triển của Việt Nam. Chính
sách hội nhập và hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam gắn sự nghiệp phát
triển của đất nước với sự phát triển và biến động của khu vực và trên thế giới.
Con thuyền phát triển của Việt Nam phụ thuộc vào “sóng yên biển lặng” của thế
giới, vào bản lĩnh vững vàng, sự kiên định về mục tiêu và hướng đi của người
cầm lái con thuyền.
Thứ
năm là truyền thống đoàn kết của người Việt Nam, tạo nên sức mạnh của dân tộc
trong chống ngoại xâm, xây dựng và phát triển đất nước. Truyền thống này bắt
nguồn từ đặc điểm và vị trí của đất nước, tạo thành cốt cách của con người Việt
Nam. Truyền thống đoàn kết này của người Việt Nam được phát huy ở trong nước và
được mở rộng trong quan hệ quốc tế. Đoàn kết để tạo thành sức mạnh tập thể,
muôn người như một, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, đồng thời góp phần vào sự nghiệp
chung của Nhân dân thế giới là kiến tạo và bảo vệ hòa bình vì sự phát triển và
tiến bộ của nhân loại.
Tiến
sĩ Nguyễn Hồng Hải nêu rõ: Có thể thấy, ngoại giao Việt Nam từ trong lịch
sử đến hiện đại và trong thực tiễn hiện nay đều thoát lên những đặc trưng này.
Nói cách khác, “trường phái ngoại giao” Việt Nam hiện đại hiện thân cho những
đặc trưng và đặc tính của “cây tre Việt Nam”. Ông còn cho biết: Thành tựu gần
đây nhất của ngoại giao Việt Nam “theo trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam”
được phản ánh rõ nét qua kết quả đạt được từ “ngoại giao vaccine” trong
cuộc chống đại dịch COVID-19 vừa qua, hay trong những ứng xử giữa những bất ổn
và cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc trong khu vực và trên thế giới. Thành
tựu của “trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam” cho đến nay chính là góp phần
giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường hòa bình và
thuận lợi để phục vụ phát triển đất nước; đồng thời có đóng góp tích cực và
trách nhiệm vào đảm bảo an ninh, hòa bình, và phát triển trong khu vực và trên
thế giới, góp phần tạo cho đất nước ta “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay”.
Để
“ngoại giao cây tre” trở thành trường phái đối ngoại riêng của Việt Nam trong
thời gian tới và phát huy tối đa hiệu quả, Tiến sĩ Nguyễn Hồng Hải cho rằng: Triết
lý “trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam” phải được quán triệt trong nhận
thức và hành động của từng cán bộ làm công tác đối ngoại và ngoại giao Việt
Nam. Trước hết là nắm rõ đường lối, chủ trương và chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước, từ đó linh hoạt và uyển chuyển trong thực hiện. “Ngoại giao cây
tre Việt Nam” là lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm gốc, phương châm “Dĩ bất
biến, ứng vạn biến” trong hành động; độc lập và tự chủ trong tư duy và hành
động, kiên định trong mục tiêu. Ông nhấn mạnh: “Điều quan trọng hơn hết mà
ngành ngoại giao luôn nhớ là đằng sau mình là cả một đất nước và dân tộc luôn
hỗ trợ và tạo điều kiện để ngành hoàn thành sứ mệnh của mình. Ngành ngoại giao
chính là ngành của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét