Trải qua lịch sử 95 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua bao khó khăn, thử thách, từng bước giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Qua đó, đã khẳng định vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng. Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, công cuộc đổi mới đất nước được tiến hành trong điều kiện có cả thời cơ, thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Đặc biệt là những tiêu cực, biểu hiện suy thoái nảy sinh trong nội bộ Đảng cầm quyền, hệ thống chính trị chưa được ngăn chặn, đẩy lùi… Điều này càng đòi hỏi cấp bách phải tập trung nghiên cứu tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta hiện nay.
Đảng cầm quyền và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng là
quan điểm lớn đã được Đảng ta đề cập đến từ khi bước vào sự nghiệp đổi mới toàn
diện đất nước, văn kiện Đại hội ĐBTQ lần
thứ XIII của Đảng đã bổ sung nhiều điểm mới và quan trọng, trong đó có thuật ngữ
“năng lực cầm quyền” vào mục tiêu tổng quát “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(1). Đồng thời, trong định hướng
phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng,
chỉnh đốn Đảng toàn diện, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi
mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng;…”(2).
Năng lực lãnh đạo bao gồm năng lực ra quyết định; năng lực tổ
chức thực hiện quyết định; năng lực tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện
quyết định; năng lực tổng kết việc thực hiện quyết định và rút ra các bài học kinh
nghiệm để điều chỉnh quyết định, tức là điều chỉnh mục tiêu, tầm nhìn, định
hướng phát triển, mục tiêu chiến lược.
Đảng lãnh đạo trong điều kiện nắm giữ chính quyền được gọi tắt
là đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là đảng chính trị giành được quyền lực nhà
nước và sử dụng quyền lực nhà nước thông qua và bằng pháp luật cùng các công
cụ, phương tiện khác để thực hiện tầm nhìn, định hướng phát triển, mục tiêu
chiến lược của đảng. Năng lực cầm quyền của đảng là năng lực giữ chính quyền
nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước hợp lý để đề ra được chủ trương, đường
lối, mục tiêu phát triển đúng đắn, lãnh đạo nhà nước và nhân dân thực hiện được
mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển của đảng.Đối với Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự cầm quyền của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mục tiêu chiến lược của Đảng là xây
dựng thành công CNXH ở Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Năng lực cầm quyền của Đảng có thể khái quát thành 6 nội dung chính gồm: Khả năng xây dựng các định hướng, tầm nhìn và chiến lược
như Cương lĩnh chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược
quan trọng trong các ngành, lĩnh vực, khu vực quan trọng một cách dài hạn, bài
bản, khoa học và có tính khả thi cao; Khả năng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường
lối của Đảng thành chính sách, pháp luật để làm cơ sở pháp lý tổ chức thực hiện
trong toàn xã hội; Khả năng lãnh đạo sử dụng quyền lực của Nhà nước và phát huy
vai trò các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể tổ chức thực hiện thắng lợi đường
lối đã đề ra. Vấn đề này có tính quyết định, là thước đo thực tiễn năng lực
cầm quyền của Đảng; Khả năng lựa chọn, bồi dưỡng, giáo dục và quản lý nhằm đảm
bảo năng lực, đạo đức và tư cách của đội ngũ cán bộ trong toàn hệ thống chính
trị; Khả năng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn một
cách thường xuyên, liên tục và thực chất để không ngừng hoàn thiện đường lối
lãnh đạo; Khả năng gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh của mọi
tầng lớp nhân dân và huy động được sự ủng hộ, chung sức của quần chúng nhân dân
trong sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Năng lực lãnh đạo, năng lực cầm
quyền của Đảng được thể hiện qua các nội dung, kết quả sau:
Thứ nhất, đề ra và từng bước bổ sung, hoàn
thiện đường lối đổi mới một cách đúng đắn, vận dụng sáng tạo, hình thành ngày
càng rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khẳng định chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi
hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt của cách mạng và những diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta vẫn kiên định và kịp thời có định hướng
tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận
điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng và trong
Nhân dân.
Thứ hai, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ,
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội, tập trung trí tuệ của cán bộ,
đảng viên và Nhân dân trong quá trình ban hành đường lối lãnh đạo của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, đề ra chủ trương và biện pháp xây dựng, chỉnh
đốn Đảng gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, kiện toàn hệ thống chính
trị. Xây dựng và triển khai thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; kiện toàn cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo tính kế thừa và phát triển. Đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, nâng cao
trình độ và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; ngăn chặn sự sa sút, yếu
kém của nhiều tổ chức cơ sở đảng; bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và phong
cách công tác. Công tác kiểm tra việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, việc giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên và xử lý
kỷ luật đảng có nhiều tiến bộ.
Thứ tư, tiếp tục hoàn chỉnh quan điểm và bổ
sung chủ trương, giải pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; lãnh đạo xây dựng quy chế phát huy quyền
làm chủ của Nhân dân, trước hết là ở cơ sở, ban hành và đưa vào thực hiện có hiệu
quả quy chế dân chủ ở cơ sở; kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị
và cải cách chính sách tiền lương, trợ cấp xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực do hệ thống một đảng
cầm quyền tạo nên, lại tiềm ẩn những yếu tố làm nảy sinh một số hạn chế, nguy
cơ, đó là:
Thứ nhất, bệnh chủ quan, kiêu ngạo, tự mãn,
duy ý chí, vô kỷ luật; bệnh hám danh, tham lam vật chất, ưa hưởng thụ vẫn còn tồn
tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng phê phán:
“Tự cao tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi
mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe
khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng,
không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”(3).
Thứ hai, một số cán bộ, đảng viên có chức, có
quyền tham nhũng tài sản công, biến quyền lực công thành tài sản riêng, phục vụ
cho lợi ích của mình, gia đình mình; tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; tình trạng
chạy chức, chạy quyền, lợi ích nhóm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đã đến mức báo động.
Thứ ba, có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ
còn hạn chế hoặc mang tính hình thức “Chưa thật sự phát huy dân chủ trong Đảng,
phát huy vai trò giám sát, tham gia của Nhân dân vào công tác xây dựng Đảng”(4).
Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhận định: năng
lực cầm quyền, nhất là việc ban hành và thực thi cơ chế kiểm soát quyền lực
trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Việc
thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương của Đảng thành pháp luật chưa đầy đủ,
kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực
tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị
quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng bao biện,
làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng còn xảy ra ở
một số nơi. Đó là những vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và
quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, thiếu
kiểm tra, giám sát để xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm kéo dài. Trong khi đó,
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ, ngành chưa
có chuyển biến rõ rệt; tham nhũng, lãng phí vẫn còn diễn biến phức tạp.
Như vậy, trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền, công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn phải gắn kết chặt chẽ với xây dựng Nhà nước và hệ
thống chính trị. Đây cũng là quan điểm được tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh
trong Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị.
Trong bối cảnh, điều kiện hiện nay, cần tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng thông qua việc củng cố sức mạnh
chính trị, sức mạnh tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng. Phải đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng; thường
xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu
cơ quan, đơn vị. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền
lực một cách hiệu quả. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm, các biểu
hiện suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển
hóa".
Theo
đó, để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước tình hình mới, các cấp ủy,
tổ chức đảng cần quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó có các
giải pháp quan trọng sau đây:
Một là, nâng
cao năng lực dự báo và xây dựng các định hướng, tầm nhìn và chiến lược như
Cương lĩnh chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các chiến lược
quan trọng trong các ngành, lĩnh vực, khu vực quan trọng ở tầm chiến lược, khoa
học và tính khả thi cao. Không ngừng nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ và khả
năng vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn và đổi mới phương thức lãnh đạo.
Lý luận soi sáng cách mạng Việt Nam và nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Toàn Đảng phải kiên định lý luận đó và vận dụng,
phát triển sáng tạo để làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn, những quy luật phát triển
riêng của cách mạng Việt Nam.
Phải
tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhận thức những đặc trưng, quy luật của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhận thức rõ những đặc trưng của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân;
lý luận về văn hóa, con người, về xã hội văn minh, hạnh phúc, quản lý xã hội và
phát triển xã hội; nhận thức lý luận về chiến lược quốc phòng, an ninh, đối ngoại
trong điều kiện mới của thời đại. Phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý
chí. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện bảo
đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.
Hai là, phát huy khả năng lãnh đạo Nhà nước
trong việc thể chế hóa đường lối của Đảng thành pháp luật, làm cơ sở pháp lý để
tổ chức thực hiện trong toàn xã hội. Đây là vấn đề rất quan trọng, thể hiện rõ
vai trò, năng lực cầm quyền của Đảng. Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước và xã hội
chủ yếu qua vai trò của chính quyền nhà nước. Chính quyền nhà nước vững mạnh
thì Đảng càng vững mạnh.
Không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội gắn liền với
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng lãnh đạo, cầm quyền
thông qua đường lối, quyết sách được xây dựng trên cơ sở bảo đảm tính đúng đắn,
tính khoa học và hiện thực dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, phải đổi mới,
sáng tạo để bảo đảm phát triển nhanh và bền vững. Chống nguy cơ chủ quan, duy ý
chí, sai lầm về đường lối. Chú trọng việc cụ thể hóa, thể chế hóa đường lối
thành chính sách, pháp luật, chú trọng khâu tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục
đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, con người...,
đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(5).
Đồng thời, trong đột phá chiến lược nêu rõ: “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,
trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách - công cụ lãnh đạo, cầm quyền hữu hiệu trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ba là, củng cố khả năng lãnh đạo sử dụng quyền
lực của Nhà nước và phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội để tổ
chức thực hiện thắng lợi đường lối lãnh đạo của Đảng. Đây là vấn đề có tính quyết
định, là thước đo hiệu quả năng lực cầm quyền của Đảng. Đảng cầm quyền tức là nắm
chính quyền thông qua việc bổ nhiệm cán bộ, đảng viên của mình vào các vị trí
chủ chốt của hệ thống Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội để lãnh đạo Nhà
nước và các tổ chức này thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, quyết sách của
Đảng. Do đó, việc lựa chọn những cán bộ, đảng viên có năng lực, phẩm chất, uy
tín tốt là hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát và thực thi kỷ luật Đảng một cách
hiệu quả.
Bốn là, tăng cường công tác phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị nhằm đảm bảo
năng lực, phẩm chất đạo đức và tư cách của đội ngũ cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã có
nhiều bước đổi mới và thành công rất quan trọng của công tác cán bộ. Việc quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn cán bộ lãnh đạo đã được thực hiện bài bản,
công khai, dân chủ với quy trình năm bước. Cán bộ lãnh đạo cần bảo đảm tiêu chuẩn,
gương mẫu về đạo đức, lối sống, tiêu biểu về trí tuệ, có năng lực chỉ đạo thực
tiễn, có bản lĩnh chính trị vững vàng và có uy tín trong Đảng và trong Nhân
dân. Không để lọt những cán bộ chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, lợi
ích nhóm và những tiêu cực khác vào các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan nhà
nước. Có đội ngũ cán bộ lãnh đạo đủ năng lực, phẩm chất và uy tín thì năng lực
lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng được nâng cao, việc tổ chức thực
hiện, đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống trong thời kỳ mới sẽ có hiệu quả thiết
thực, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Năm là, nâng cao năng lực công tác kiểm tra,
giám sát, tổng kết thực tiễn một cách thực chất để không ngừng hoàn thiện đường
lối lãnh đạo. Đây chính là khâu đảm bảo chất lượng thực thi đường lối của Đảng.
Việc kiểm tra, giám sát một cách bài bản, hệ thống, định kỳ, thường xuyên và hiệu
quả sẽ đảm bảo sự tuân thủ các quy định của cán bộ, đảng viên cũng như chất lượng
quá trình thực hiện. Đồng thời, đây cũng là kênh phản hồi những vấn đề phát
sinh, vướng mắc trong thực tế triển khai để có điều chỉnh, xử lý kịp thời,
tránh việc triển khai hình thức, chiếu lệ hoặc sai lầm về đường lối.
Sáu là, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc,
phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân và huy động được sự ủng hộ, chung sức
của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn đòi hỏi phải nắm vững và thực hiện tốt các nguyên tắc, nhất là nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc đoàn kết, thống nhất, tự phê bình, phê bình
và gắn bó mật thiết với Nhân dân. Nghị quyết đại hội ĐBTQ lần thứ XIII nêu rõ
phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”(6). Đó chính là quyền làm chủ thật sự của Nhân dân, vì Nhân
dân, đồng thời cũng là điểm quan trọng trong phương pháp, phương thức lãnh đạo
của Đảng. Lãnh đạo, cầm quyền bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân
chủ chính là cách thức cầm quyền bền vững nhất, dựa trên việc đem lại lợi ích
và hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.
Để thực hiện tốt các
giải pháp trên, đòi hỏi phảiphát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả
hệ thống chính trị, kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng
tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, cần phảinâng
cao trình độ tư duy lý luận, trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất cho cán bộ,
đảng viên giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng có cơ sở, căn cứ để nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước nhanh, bền vững và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét