Hà Nội không bất ngờ

Đầu tháng 12-1972, tại Paris, Mỹ đã tự ý sửa đổi 69 điều trong dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Phái đoàn ta kiên quyết phản đối. Hội nghị lâm vào bế tắc. Ngày 13-12-1972, Mỹ tuyên bố: “Hành động duy nhất để đạt được mục đích là đẩy mạnh ném bom, buộc miền Bắc Việt Nam phải chấp nhận giải pháp do Mỹ đưa ra”.

Ngày 14-12-1972, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta, đe dọa nếu không tiếp tục đàm phán sau 72 giờ, miền Bắc sẽ phải gánh hậu quả nghiêm trọng. Cùng ngày, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân lập kế hoạch Chiến dịch Linebacker II sử dụng máy bay B-52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương hòng “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”, xoay chuyển thế cờ trên bàn đàm phán ở Paris.

Đầu năm 1972, đồng chí Phạm Xuân Ẩn (bí số X6) phân tích nguồn tin và dự báo: “Mỹ sẽ ném bom miền Bắc nhằm phong tỏa cảng Hải Phòng”. Đồng chí Đặng Trần Đức (Ba Quốc), cán bộ điệp báo của ta tại Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo ngụy, cũng đã thu thập và báo cáo tin: Mỹ ném bom miền Bắc không phải để kéo dài chiến tranh mà là để gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris.

Tình báo quốc phòng trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”

Đại tướng Võ Nguyên Giáp kiểm tra công tác nắm địch tại Trung đoàn 75 Trinh sát kỹ thuật, đêm 20-12-1972. Ảnh tư liệu 

Ngoài nguồn tin điệp báo chiến lược, công tác hỏi cung tù binh cũng góp phần quan trọng. Tháng 6-1972, thông qua hỏi cung phi công Mỹ, Cục Tình báo đã nắm được tin: Mỹ đang tổ chức hiệp đồng giữa máy bay B-52 và các loại máy bay khác để chuẩn bị đánh Hà Nội. Cục Tình báo cũng nắm được nội dung liên lạc giữa B-52 với lực lượng yểm trợ, khu vực tiếp nhiên liệu trên không, trên đường bay từ Thái Lan và Guam vào Việt Nam. Từ những tin tức đó, ta đã nắm được quy mô, lực lượng không quân chiến lược B-52, thông số kỹ-chiến thuật, kế hoạch tập kích, đội hình tập kích, đường bay từ các căn cứ ở Guam và Utapao tiếp cận các mục tiêu đánh phá.

Trước đó, sau Tết Mậu Thân 1968, lực lượng điệp báo ở ngoài nước cũng tổ chức đánh vào sào huyệt, nơi xuất phát của máy bay B-52 tại các căn cứ không quân Mỹ ở Udorn và Utapao, làm hoang mang tinh thần của giặc lái. Cụ thể, cuối tháng 2-1968, hai tổ điệp báo chiến lược do tình báo quốc phòng thành lập lên đường sang Thái Lan, thực hiện kế hoạch tập kích sân bay Udorn và Utapao. Tháng 7-1968, các tổ đã tập kích sân bay Udorn, phá hủy 1 máy bay vận tải C-41, 2 máy bay F-4, 1 trực thăng, phá hủy đường băng, tiêu diệt và làm bị thương 42 tên lính. Tháng 8-1968, các tổ điệp báo tiếp tục tập kích sân bay Utapao, phá hủy 2 máy bay B-52, làm hỏng nặng 2 chiếc khác và đài chỉ huy bay khiến không quân Mỹ phải mất một tuần để khắc phục.

Ở trong nước, được sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, ta đã tiếp thu và sử dụng thành thạo các trang bị mới như máy thu đa hướng P347 (JupiterB), máy định hướng P359. Giữa năm 1971, trinh sát kỹ thuật bắt đầu nghiên cứu, nắm tính năng kỹ-chiến thuật cũng như những thông tin liên quan đến B-52. Tháng 7-1972, thông qua chặn thu điện liên lạc giữa phi công B-52 với đài chỉ huy, trinh sát kỹ thuật đã phát hiện ra bộ sóng quản lý đường bay, trong đó có đường bay của B-52. Qua đó, ta lập được đường bay của B-52 từ lúc cất cánh cho đến mục tiêu và bay về căn cứ. Ta cũng nắm chắc kế hoạch di chuyển của quan chức cấp cao Tập đoàn không quân số 7, số 8 và số 13 của Mỹ từ các căn cứ ở Thái Lan, Philippines và miền Nam Việt Nam, hoạt động di chuyển của máy bay tìm kiếm cứu nạn từ Đà Nẵng sang Udorn, Nakhon Phanom, điều chỉnh lực lượng không quân và điều kiện, yêu cầu bảo đảm vận hành máy bay B-52... Từ những tin tức đó, cơ quan tình báo quốc phòng báo cáo lên trên nội dung: “Không quân Mỹ đang chuẩn bị cho một đợt hoạt động lớn ra ngoài vĩ tuyến 20, chú ý Hà Nội, Hải Phòng”.

Ngày 17-12-1972, trinh sát kỹ thuật báo cáo: Bộ tư lệnh Thái Bình Dương dừng đi phép đối với tất cả phi công, phi công sẵn sàng chờ lệnh; ngày 18-12, trinh sát kỹ thuật tiếp tục báo cáo, Mỹ không chủ trương sử dụng lực lượng không quân trong hai ngày 16 và 17-12. Trên cơ sở đó ta nhận định: Đây là động thái báo hiệu Mỹ đang chuẩn bị cho một trận đánh lớn.

Chiến dịch diễn ra

Nói với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về vai trò của trinh sát kỹ thuật thuộc tình báo quốc phòng trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không”, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, người đảm nhiệm trực ban tác chiến phòng không tại Tổng hành dinh ngay ngày đầu tiên diễn ra chiến dịch, cho biết: Tin tức của tình báo, đặc biệt là trinh sát kỹ thuật có tác dụng rất lớn, giúp cả nước chủ động, không bị bất ngờ. Vị tướng già hồi tưởng: “Những tin tức về B-52 của Cục Tình báo luôn được báo cáo đầu tiên. Đến khi chiến dịch diễn ra, tôi nhớ như in là tin tức tình báo đã giúp ta đưa toàn quân vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất trước hai ngày. Trong chiến dịch, tin tức trinh sát kỹ thuật luôn báo sớm ít nhất 5 giờ trước khi B-52 đến”.

15 giờ 30 phút ngày 18-12-1972, trinh sát kỹ thuật báo cáo: B-52 đã cất cánh! Máy bay tiếp nhiên liệu KC-135 cũng đã cơ động từ căn cứ Clark, dự kiến B-52 sẽ đánh vào miền Bắc. Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh hồi tưởng: “Nhận được tin B-52 cất cánh từ Guam ra đánh miền Bắc, người tôi sởn gai ốc, lo lắm, nhưng phải trấn an bản thân cần phải bình tĩnh. Tin radar phòng không đến sau một lúc. Được sự phân công của đồng chí Vũ Lăng, Cục trưởng Cục Tác chiến, đồng chí Nguyễn Văn Ninh tiến hành đo, vẽ và khớp tin từ lực lượng trinh sát kỹ thuật và thông tin radar phòng không để biết thời điểm B-52 đến Hà Nội".

16 giờ 30 phút ngày 18-12-1972, trinh sát kỹ thuật thông báo hoạt động tiếp nhiên liệu trên không của các tốp B-52 đang ở khu vực Đông Nam Philippines. 17 giờ, tốp B-52 đầu tiên vào đến đảo Cồn Cỏ, bay ngoặt lên phía Bắc. Tiếp sau đó, lực lượng thu nhận đầy đủ và báo cáo kịp thời hoạt động của các tốp máy bay B-52 khi chúng đến cửa sông Hồng chuẩn bị tiếp cận mục tiêu.

Theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh, sau khi phân tích thông tin tình báo và tin radar, đồng chí đồ giải khoảng 19 giờ 30 phút, B-52 sẽ ném bom Hà Nội và báo cáo cấp trên. Được lệnh, đồng chí kéo còi báo động phòng không cho toàn thành phố; các đơn vị sẵn sàng chiến đấu. “Đứng về mặt phòng không mà chủ động báo cho nhân dân, chứ chưa nói Quân đội, vì Quân đội là nhanh nhất rồi; trước được 25 phút cho đến 30 phút là quý lắm”, Thiếu tướng Nguyễn Văn Ninh cho biết.

19 giờ 45 phút ngày 18-12-1972, cả Hà Nội rung lên, những tia chớp dọc ngang xé toạc bầu trời tĩnh lặng. Tiếng loa phát thanh, còi báo động, bom rơi, cao xạ nổ, trời đất rung chuyển. Máy bay địch đã vào tầm ngắm, lực lượng tên lửa phòng không của ta phóng những quả đạn đầu tiên mở màn chiến dịch. Trận quyết tử bắt đầu!

3 đóng góp của tình báo quốc phòng

Nhờ có được nguồn tin tổng hợp tình báo báo trước, nhất là tin của trinh sát kỹ thuật nắm cụ thể các đợt tập kích của B-52, quân và dân Hà Nội hoàn toàn không bất ngờ và đã bình tĩnh đánh trả, trong khi vẫn tiết kiệm đạn, bảo đảm công tác phòng không nhân dân, bảo đảm giao thông vận tải, không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam.

Theo Đại tá Đào An Việt, Phó chủ nhiệm Chính trị Tổng cục II, chiến công của tình báo quốc phòng trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” có thể khái quát trong 3 nội dung sau: “Thứ nhất, lực lượng điệp báo chiến lược đã nắm rất sớm ý định của đế quốc Mỹ về việc ném bom miền Bắc nhằm mục đích gây sức ép với ta tại bàn đàm phán Paris hòng buộc ta phải chấp nhận các điều kiện của Mỹ. Việc tình báo chiến lược của ta nắm được từ sớm âm mưu này giúp ta chuẩn bị lực lượng phòng không đủ sức đánh địch. Thứ hai, khi trực tiếp vào chiến dịch, trinh sát kỹ thuật đã sớm chặn thu và nắm được sớm (từ 5 đến 9 giờ đồng hồ) những hành động của không quân Mỹ trong chuẩn bị, tổ chức đội hình máy bay B-52 để ném bom Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc, giúp lực lượng phòng không của chúng ta có được thế chủ động đón đánh B-52. Thứ ba, từ các nguồn tin tình báo tổng hợp, kết hợp khai thác tù binh Mỹ, trong đó có phi công Mỹ, tình báo quốc phòng đã phối hợp cùng Quân chủng Phòng không-Không quân xây dựng và hoàn chỉnh cẩm nang đỏ về cách đánh B-52 ngay từ sớm, bảo đảm cho chúng ta có được chiến thuật và kỹ thuật chiến thắng được B-52, làm nên kỳ tích lịch sử "Điện Biên Phủ trên không’”.

Về “Điện Biên Phủ trên không”, giới quân sự phương Tây đã phải thốt lên: Việt Nam đánh thắng trên bộ, trên thủy thì còn hiểu được, nhưng Việt Nam đánh thắng ở trên không thì không thể hiểu được, vì đó là một cuộc chiến tranh công nghệ cao đầu tiên trên thế giới mà Mỹ phát động. Tại sao Việt Nam lại chiến thắng? Câu hỏi đó trong thời gian dài từng làm đau đầu giới chuyên gia quân sự phương Tây.