Thứ Hai, 16 tháng 9, 2019

Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Làm thất bại âm mưu các thế lực thù địch chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng


Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 sẽ được tổ chức trong năm 2020. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh và yêu cầu phải chuẩn bị và tổ chức thật tốt đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, đại hội đảng bộ các cấp cần chuẩn bị kỹ cả về nội dung báo cáo chính trị và công tác nhân sự. Đặc biệt, việc chuẩn bị nhân sự đại hội có vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là nhân tố bảo đảm cho thành công của đại hội và triển khai thực hiện nghị quyết của đại hội.
Trong chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xác định và nhấn mạnh, công tác nhân sự cần thực hiện phương châm bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững nguyên tắc, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; coi trọng chất lượng, hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, trước hết là người đứng đầu. Cấp ủy nhiệm kỳ 2020-2025 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Cùng với đó, báo cáo chính trị cần đánh giá đúng, trung thực, khách quan, toàn diện tình hình và kết quả thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2015-2020, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; đồng thời, xác định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhiệm kỳ tới sát tình hình thực tế, có tính khả thi cao, làm cơ sở để tổ chức thực hiện hiệu quả. Thông qua đại hội đảng bộ các cấp, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên; củng cố, tăng cường hơn nữa khối đại đoàn kết toàn dân tộc và niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để chuẩn bị cho Đại hội XIII của Đảng, từ đầu tháng 10-2018, các tiểu ban của đại hội (gồm: Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban Kinh tế-Xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ đại hội) đã được thành lập và sớm đi vào hoạt động, với tinh thần làm việc hết sức khẩn trương, nghiêm túc. Ngay sau khi được thành lập, từng tiểu ban đều do các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo tiến hành khảo sát tình hình thực tế; tổ chức họp nhiều lần để thống nhất từng nội dung, nhất là những nội dung quan trọng.
Công tác quy hoạch nguồn cán bộ cho Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị từ các nhiệm kỳ trước, đặc biệt là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII. Đến nay, phần việc này về cơ bản được hoàn thiện. Trung ương cũng đã thống nhất danh sách giới thiệu dự bầu Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII do tổ chức đảng các cấp, các ban, ngành Trung ương và các địa phương giới thiệu quy hoạch. Căn cứ kế hoạch tổng thể, những cán bộ trong diện quy hoạch được Trung ương và các cấp ủy quan tâm, tạo điều kiện cho đi đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công tác để rèn luyện, thử thách qua thực tiễn với nhiều cương vị công tác từ thấp đến cao. Đây thật sự là bước chuẩn bị chu đáo, chủ động từ sớm, từ xa của Trung ương, của các cấp ủy và hệ thống chính trị trong tiến hành công tác nhân sự khóa mới.
Như vậy, có thể khẳng định, công tác chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng đã và đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chuẩn bị chu đáo, công phu, bài bản; được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao; qua đó củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng; tạo không khí phấn khởi, đồng thuận trước thềm đại hội đảng các cấp.
Thế nhưng trên internet, mạng xã hội và một số “diễn đàn”, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Họ dựng chuyện và “quy chụp” rằng, “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIII là Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIII”… Theo họ (thực chất là những nguồn tin thất thiệt trên internet, mạng xã hội) thì không chỉ là nội dung văn kiện, mà danh sách Ủy viên Trung ương của Đại hội XIII cũng đã có…?
Đặc biệt, vấn đề nhân sự bị một số thế lực bên ngoài can thiệp, chỉ đạo, xuyên tạc. Họ tự “dựng lên” danh sách lãnh đạo cấp cao, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng... như thể họ là người trong cuộc. Họ “tung hô”, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIII của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác. Đặc biệt, họ trắng trợn dựng chuyện, xuyên tạc: “Đại hội đảng là hình thức; là một dịp tái cơ cấu cán bộ theo lối phe cánh lợi ích nhóm”. Trước việc Đảng, Nhà nước Việt Nam kiên quyết xử lý nghiêm minh, không có “vùng cấm” mọi sai phạm của cán bộ, đảng viên thì họ lợi dụng xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ đội ngũ cán bộ chủ chốt, kích động, gây chia rẽ đoàn kết trong Đảng. Nguy hiểm hơn, họ vu cáo, xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã “đổi màu”, không còn kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường đi lên CNXH.
Vậy, thực chất những luận điệu đó như thế nào? Có phản ánh đúng đời sống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam? Và mục tiêu của chúng là gì?
Trước hết cần khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Tất nhiên, cũng như các đại hội đảng trước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc xem xét, vận dụng lý luận phù hợp với tình hình thực tiễn của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; gắn kết giữa phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Cho đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIII đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Cũng như các đại hội trước, nhân sự Đại hội XIII đã được Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chuẩn bị chu đáo, công phu. Quy hoạch cán bộ và công tác đào tạo cán bộ theo quy hoạch đã và đang được triển khai đồng thời với công tác chuẩn bị về nội dung. Việc triển khai công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ chủ chốt theo quy hoạch được thực hiện bài bản, công khai, dân chủ, có chất lượng.
Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong hệ thống chính trị các cấp. Công tác chuẩn bị đại hội được phổ biến sâu rộng đến Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp. Dự thảo Báo cáo Chính trị sẽ được công bố công khai và lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Công tác nhân sự cấp ủy các cấp cũng là một trong những nội dung được lấy ý kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở. Công tác chuẩn bị đại hội các cấp được triển khai theo hệ thống tổ chức của mình, là sinh hoạt chính trị bình thường trong Đảng. Tuy nhiên, như đã thành thông lệ, càng gần đến Đại hội XIII của Đảng, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Vì vậy, mỗi chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội…, góp phần bảo đảm sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIII của Đảng.

"CHẠY BẰNG CẤP" - KHÔNG CHỈ LÀ SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG


Bằng cấp phần nào thể hiện trình độ kiến thức, tư duy, trí tuệ, năng lực của mỗi người và đó là một trong những tiêu chí quan trọng để cơ quan có thẩm quyền có thêm căn cứ đánh giá, tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ. Tuy nhiên, cũng chính vì tiêu chí này, thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã tìm mọi cách để “chạy bằng cấp” nhằm mục đích tiến thân với động cơ không lành mạnh.
 Vấn nạn làm “mọt ruỗng” văn hóa công quyền
Một trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra, đó là “chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội”. Trong 6 loại “chạy” trên, “chạy bằng cấp” rất đáng lên án, bởi nó không đơn thuần chỉ là sự suy thoái về đạo đức, lối sống, mà đó cũng là một trong những biểu hiện của suy thoái về chính trị và làm “mọt ruỗng” văn hóa công quyền. Vì những người “chạy bằng cấp” ngoài mục đích có “chỗ làm tốt, vị trí tốt, bổng lộc nhiều”, còn tự tạo cho mình một uy tín giả thông qua cái vỏ bọc có tấm bằng “cử nhân này, thạc sĩ nọ, tiến sĩ kia”. Đấy là chưa kể những người không học hành hẳn hoi, không qua quá trình đào tạo chỉn chu mà vẫn sở hữu những tấm bằng “danh chính ngôn thuận” (mà dân gian vẫn gọi là “học giả, bằng thật”) rồi “chui” được vào các cơ quan công quyền ung dung làm cán bộ lãnh đạo, quản lý! Mặt khác, những người sử dụng bằng cấp giả còn vô hình trung vi phạm pháp luật do sử dụng giấy tờ giả mạo.
Mới đây, GS, NGND Phạm Minh Hạc, Chủ tịch Hội Cựu giáo chức Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết: Năm 2004, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có đợt thanh tra và phát hiện được hơn 10.000 trường hợp dùng bằng giả, trong đó có một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức. Sau cuộc “tổng rà soát, thanh tra” này, rất nhiều cán bộ, công chức, viên chức bị kỷ luật, thuyên chuyển công tác, cho thôi việc và cách chức.
Những năm gần đây, vấn nạn “chạy bằng cấp” diễn ra tinh vi hơn, tính chất cũng trở nên phức tạp hơn, đối tượng đa dạng hơn. Số cán bộ, công chức “học giả, bằng thật”, mạo danh bằng cấp, sử dụng bằng cấp không đúng quy định không chỉ dừng lại ở cán bộ cấp xã, cấp huyện, mà còn liên quan đến cả cán bộ cấp cao hơn. Cách đây mấy năm, dư luận từng xôn xao và cơ quan chức năng Trung ương đã phải vào cuộc kiểm tra một số cán bộ tỉnh Phú Thọ và Yên Bái đã sử dụng bằng tiến sĩ ở trường đại học nước ngoài không được Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta công nhận. Một cán bộ từng là Thứ trưởng Bộ Y tế chỉ có chứng chỉ để được tham dự khóa học tiến sĩ ở nước ngoài, nhưng về nước lại kê khai là có bằng “tiến sĩ”. Một cán bộ cấp tỉnh ở Bình Định trước khi được bổ nhiệm đã ghi trong lý lịch cá nhân là có học vị “tiến sĩ”, nhưng khi tham gia danh sách ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV lại ghi là “thạc sĩ”, cũng khiến dư luận hoài nghi về động cơ chưa minh bạch này. Mới đây, việc ông Nguyễn Xuân Anh bị kỷ luật bằng hình thức cách chức Bí thư Thành ủy Đà Nẵng và cho thôi giữ chức Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân là “kê khai, sử dụng bằng cấp không đúng quy định, thiếu trung thực”.
Nhiều năm trở lại đây, năm nào các cơ quan chức năng cũng “khui” ra hàng chục vụ cán bộ, công chức sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định. Các cơ quan điều tra và bảo vệ pháp luật cũng đã phát hiện, khởi tố, xử lý rất nhiều vụ việc, đối tượng làm bằng cấp đại học giả. Thực tế đó cho thấy việc đăng ký, rà soát, quản lý bằng cấp ở nhiều cơ quan, tổ chức còn sơ hở và đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng “chạy bằng cấp” không được ngăn chặn từ gốc.
Một trong những nguyên nhân sâu xa là tâm lý xã hội vẫn còn sính bằng cấp, háo danh, nhiều người coi bằng cấp như là “mưu kế tiến thân” thuận lợi nên đã tìm mọi cách mong có được tấm bằng để làm “tấm bình phong” trong việc “chạy” vào bộ máy công quyền, thậm chí “chui sâu, leo cao” nhằm vụ lợi, vinh thân phì gia. Việc một số cơ quan, tổ chức xử lý nương nhẹ một số cán bộ, công chức sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định cũng không tạo ra sức răn đe nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm khác. 
Phải bịt các kẽ hở để ngăn đường “chạy bằng cấp”
Nhằm ngăn ngừa vấn nạn “chạy bằng cấp”, đã đến lúc chúng ta phải tìm cách “trị” tận gốc tình trạng này. Trước hết cần đổi mới quan niệm, tư duy về bằng cấp. Bằng cấp chỉ có giá trị khi người sử dụng phải được học hành, đào tạo nghiêm túc với một lượng kiến thức, trình độ, kỹ năng, chuyên môn, nghiệp vụ đã được quy chuẩn và luật hóa theo quy định.
Trong quá trình tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, các tổ chức, cơ quan, đơn vị chỉ nên xác định tiêu chí bằng cấp là điều kiện cần chứ không phải là tiêu chí quan trọng nhất, duy nhất, mà đòi hỏi phải trải qua sát hạch, kiểm tra, thi tuyển một cách thực chất, khách quan, công bằng, minh bạch để tìm kiếm, lựa chọn được những cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực toàn diện nhất bố trí vào cương vị tương xứng. Các cơ quan, tổ chức-cán bộ cần sớm nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí khoa học để đánh giá thực chất trình độ, trí tuệ, năng lực thực tế của đội ngũ cán bộ, công chức, làm cơ sở để tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm cán bộ một cách phù hợp, chính xác, bảo đảm đạt cả ba mục tiêu là “được người, được việc, được tổ chức”.
Bên cạnh đó, phải phòng chống, ngăn chặn cho được tình trạng một bộ phận cán bộ lạm dụng quyền lực để tranh thủ cho con em mình đi học, đi đào tạo nhằm “hợp pháp hóa” bằng cấp, sau đó lại cố tình “giữ chỗ, giữ ghế” nhằm chờ thời cơ thuận lợi thì “thế chỗ, nhường ngôi” cho người thân, người nhà của mình. Vì bấy lâu nay, vấn nạn kê khai, sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định cũng một phần bắt nguồn từ một bộ phận người thân, người nhà của cán bộ lãnh đạo, quản lý muốn “nối nghiệp cha ông” không phải do năng lực, tài cán và cống hiến của mình, mà chủ yếu xuất phát từ tấm bằng “cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ” hào nhoáng bên ngoài.
Một giải pháp có ý nghĩa căn cơ hơn là tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức. Phải làm sao để những người làm việc trong bộ máy công quyền luôn đề cao ý thức tự trọng, đức tính liêm sỉ, có động cơ phấn đấu lành mạnh, nỗ lực tiến thân bằng tinh thần cầu thị, thực hiện phương châm “5 thật”, đó là “học thật, bằng thật, năng lực thật, làm thật, kết quả thật” để cống hiến công sức, tài năng, trí tuệ, tâm huyết của mình xây dựng tổ chức, cơ quan, đơn vị ngày càng vững mạnh, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được phân công.
Mới đây, phát biểu tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Đảng bộ TP Hà Nội, đồng chí Trần Quang Cảnh, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội sau khi trích lại câu nói của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Nếu đã trót ít nhiều nhúng chàm rồi thì sớm tự giác gột rửa”, đã khuyến cáo cán bộ, đảng viên nào hiện đang kê khai, sử dụng bằng cấp giả thì khẩn trương báo cáo Ban Tổ chức Thành ủy và Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Hà Nội xin rút lui, thậm chí xin từ chức.
Ý kiến đề xuất nêu trên là xác đáng. Vì khi tự giác khai báo thành thật với cơ quan chức năng, cán bộ, công chức có bằng cấp giả vừa được “rút lui trong danh dự”, vừa góp phần giữ uy tín cho tổ chức, cơ quan, đơn vị mình. Còn nếu ai đó “học giả, bằng thật” hay sử dụng bằng cấp mạo danh mà vẫn cố tình quanh co che giấu, biện minh thì nhất định phải xử lý nghiêm khắc hơn. Đã đứng trong hàng ngũ của Đảng và làm việc trong bộ máy công quyền, cán bộ, đảng viên, công chức không bao giờ được phép sử dụng bằng cấp giả, bằng cấp không đúng quy định. Vì đó không chỉ là hành vi gian dối đối với Đảng, Nhà nước, mà còn làm đảo lộn các giá trị văn hóa, đạo đức công vụ, gây xói mòn niềm tin trong nhân dân.

ĐỘC LẬP DÂN TỘC GẮN LIỀN VỚI CNXH LÀ MỤC TIÊU XUYÊN SUỐT CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Những ngày vừa qua, nhân sự kiện kỷ niệm 74 năm Cách mạng Tháng Tám, trên trang mạng Tiếng Dân, Trung Nguyễn đã đăng bài viết xuyên tạc bản chất của Cách mạng Thám Tám, Y cho rằng: Dân tộc Việt Nam theo Việt Minh làm cách mạng lật đổ chế độ phong kiến nhưng không hề có ý định xây dựng một nhà nước “xã hội chủ nghĩa”.
Phải khẳng định ngay rằng điều đó hoàn toàn bịa đặt sai sự thật, nhằm mục đích chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc được thể hiện: Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập toàn diện và vững chắc.
Nghĩa là phải đảm bảo cho các dân tộc quyền cơ bản: quyền được sống trong hoà bình, độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc; độc lập dân tộc gắn với sự thống nhất quốc gia, sự vẹn toàn lãnh thổ đất nước; độc lập dân tộc gắn với quyền tự quyết dân tộc; gắn với ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Đó cũng chính là mục tiêu nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi mới 15 tuổi, Người đã sớm hiểu biết và rất đau sót trước nỗi thống khổ vì mất độc lập của dân tộc Việt Nam trước ách đô hộ của thực dân Pháp, từ đó đã hình thành chí lớn ở Người là đánh đuổi thực dân Pháp để giải phóng đồng bào: “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”[1].
Khi đặt chân tới nước Pháp, tháng 6/1919, Hồ Chí Minh đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến Hội nghị Vécxây bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tại Đại hội Tua (30/12/1920), sau khi bỏ phiếu tán thành việc ra nhập Quốc tế Cộng sản, trả lời người tốc ký Đại hội:
“Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?
Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa…Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[2]. Năm 1921, sau khi gặp Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Người lại khẳng định: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”[3].
Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng, Người viết: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[4].
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về tới địa đầu Tổ quốc (cột mốc biên giới Việt - Trung 108, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị xác định phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trên hết: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm sau cũng không đòi lại được”[5].
Ngày 2/9/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, khẳng định chủ quyền của dân tộc Việt Nam: “… Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”[6]. Ngày 20/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người lại tiếp tục khẳng định: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[7]. Lời kêu gọi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1966), Hồ Chí Minh lại tiếp tục khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”[8].
Chúng ta đều biết rằng: Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống tốt đẹp, đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết cộng đồng, ý chí kiên cường bất khuất không cam chịu làm nô lệ, không chấp nhận nghèo hèn... Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ phát huy cao độ “truyền thống quý báu” của dân tộc, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thành sức mạnh vô địch đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay, công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong hoàn cảnh mới càng cần khơi dậy, phát huy mạnh mẽ truyền thống quý báu và tinh thần quật cường của dân tộc; chú trọng đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, để nhân dân ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu đó không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà vừa là giai cấp lại vừa là dân tộc. Nó chứng tỏ ở Việt Nam chỉ có Đảng và giai cấp công nhân mới là đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc, mới xây dựng được mặt trận Đại đoàn kết dân tộc để thực hiện được mục tiêu nói trên. Những lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái với tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với đạo lý và truyền thống dân tộc.


[1] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.13.
[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh  - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2006, t. 1, tr. 111-112.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh  - Biên niên tiểu sử, Nxb. CTQG, H. 2006, t. 1, tr. 173.
[4] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, t. 4, tr. 64.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2000, t. 7, tr. 113.
[6] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 6, tr. 587.
[7] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 4, tr. 534.
[8] HCM: Toàn tập, Nxb. CTQG, H. 2011, tập 15, tr. 131.

VÌ SAO CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ GIA TĂNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM?


VÌ SAO CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, CƠ HỘI CHÍNH TRỊ GIA TĂNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM?
Những năm gần đây, khái niệm “xã hội dân sự” xuất hiện trên các diễn đàn, báo chí, truyền thông xã hội với tần suất ngày càng nhiều hơn. Sở dĩ được thảo luận nhiều, vì trong vòng hơn hai thập niên qua, “xã hội dân sự” được các thế lực thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Một số học giả trên thế giới có quan điểm chống cộng rất đề cao vai trò của “XHDS” trong các cuộc “cách mạng sắc màu” lật đổ chế độ XHCN. Giữa những năm 80 của thế kỷ XX, ngay sau khi khởi xướng cải tổ với việc M. Goóc-ba-chốp chủ trương “công khai hóa” và “dân chủ hóa”, các tổ chức đoàn thể phi chính thức và các ấn phẩm tuyên truyền cho tự do hóa tư sản dưới nhiều hình thức đã mọc lên “như nấm sau mưa” ở Liên Xô. Ngày 28-12-1987, xã luận đăng trên báo Sự thật cho biết, Liên Xô khi đó đã có hơn 30.000 tổ chức, đoàn thể phi chính thức. Do thái độ ủng hộ của M. Goóc-ba-chốp, ngày càng có nhiều tổ chức đoàn thể xã hội chống đối Đảng, chính quyền Xô-viết được công khai hóa, hợp pháp hóa. M. Goóc-ba-chốp không những cho phép các đoàn thể phi chính thức tồn tại mà còn cổ vũ thành lập các đảng phái, từng bước thực hiện chế độ đa đảng. Các đảng đối lập ra đời và sau đó đã giành được chính quyền tại một loạt địa phương dưới cái gọi là “bầu cử tự do” là hệ quả trực tiếp của chính sách nêu trên. Những tổ chức này trắng trợn xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ, hạ bệ các nhà lãnh đạo Liên Xô trước đây, phủ nhận thành tựu của chủ nghĩa xã hội, ngang nhiên hô hào chống chế độ và Nhà nước Xô-viết. Đây là một trong những nhân tố trực tiếp dẫn đến sự tan rã của Liên Xô.
Tại Ðông Âu ngay từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, ở một số nước đã hình thành các công đoàn, hội có xu hướng tách khỏi quản lý của nhà nước, đối lập với chính quyền, hoạt động với danh nghĩa là “tổ chức XHDS” nhân danh bảo vệ công nhân, bảo vệ các quyền dân sự. Thông qua việc lôi kéo quần chúng, với sự hỗ trợ từ nước ngoài, một số tổ chức Công giáo, được kích hoạt thêm bởi các chính sách “công khai hóa”, “dân chủ hóa” và chính sách đối ngoại với đồng minh của M. Goóc-ba-chốp, những tổ chức này nhanh chóng chuyển hóa thành tổ chức chính trị đối lập, đóng vai trò trọng yếu trong việc hạ bệ uy tín của nhà nước, thúc đẩy hình thành chế độ đa đảng và giành chính quyền thông qua cái gọi là “bầu cử dân chủ”. Các cuộc “cách mạng đường phố” tại các nước khu vực Trung Ðông - Bắc Phi hay “cách mạng nhung”, “cách mạng màu” ở một số nước thuộc không gian hậu Xô-viết thời gian qua cũng cho thấy vai trò của các cơ quan đặc biệt nước ngoài, các NGO trong việc hỗ trợ các tổ chức XHDS trong nước lôi kéo, kích động quần chúng lật đổ các chính thể hợp pháp, gây nên tình trạng khủng hoảng chính trị, thậm chí có nước còn lâm vào cảnh chia rẽ, xung đột triền miên, lãnh thổ bị chia cắt lâu dài.
Chúng ta không phủ nhận vai trò nhất định của các tổ chức xã hội, hiệp hội, quỹ, diễn đàn,... nhất là khả năng tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội tại cộng đồng hay nhóm xã hội cụ thể; tập hợp nguyện vọng đa dạng của các tầng lớp trong xã hội phản ánh đến Đảng và Nhà nước; trực tiếp đứng ra cung ứng một số dịch vụ xã hội do Nhà nước ủy quyền, hoạt động trong khuôn khổ quy định pháp luật. Trên thực tế, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng thiết lập các tổ chức xã hội đa dạng theo ngành nghề, lợi ích, nhu cầu, nhân đạo, hữu nghị, sở thích... và không ngừng hoàn thiện quy định pháp luật để phát huy vai trò của các tổ chức này thật sự có ích cho xã hội, cho người dân. Các tổ chức NGO nước ngoài hoạt động tại nước ta thật sự có đóng góp cho cộng đồng, phát triển xã hội, tôn trọng pháp luật Việt Nam đều được tôn trọng, khuyến khích.
Nhưng cần thấy rõ rằng, ở nhiều quốc gia, nhất là những nước đang phát triển, sự hình thành các tổ chức của “XHDS” thường chịu sự tác động của nhiều nhân tố, trong đó có các lực lượng chính trị từ bên ngoài thông qua nhiều hình thức và con đường khác nhau. Vậy chúng ta cần nhận thức về “XHDS” như thế nào?
Cùng với thực tế tồn tại và phát triển ngày càng phong phú của các tổ chức hội quần chúng, thuật ngữ “XHDS”, “tổ chức XHDS” được thảo luận, bàn luận khá sôi nổi ở nước ta. Tuy nhiên, đây là vấn đề chính trị, xã hội rất phức tạp, còn nhiều nhận thức khác biệt, thậm chí đối lập nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận. Hiện nay, đang tồn tại hai khuynh hướng nhận thức phổ biến về vấn đề XHDS: Một là, tuyệt đối hóa, đề cao quá mức vai trò của “XHDS”, cho rằng cần đẩy nhanh sự phát triển của “XHDS” ở Việt Nam, đồng nhất quá trình này với thực hiện dân chủ hóa, xem đây là “liều thuốc vạn năng” cho khắc phục những giới hạn của quản lý nhà nước và giải quyết tiêu cực trong đời sống xã hội phát sinh từ cơ chế thị trường; hai là, coi “XHDS” mang tính tiêu cực, “đối lập” với Nhà nước XHCN, là vấn đề nhạy cảm, nên né tránh, ngại đề cập và không khuyến khích nghiên cứu, tìm hiểu, thậm chí dựa vào các tổ chức xã hội hoạt động theo kiểu “bất tuân dân sự”, gây nên tình trạng vô chính phủ, bất ổn chính trị - xã hội ở nhiều nước trên thế giới rồi bài xích, phủ nhận sạch trơn vai trò các hội, quỹ, diễn đàn trong tham gia quản lý phát triển xã hội. Việc chưa thống nhất nhận thức khiến cho cách tiếp cận, ứng xử đối với vấn đề XHDS hiện nay của các cơ quan chức năng đang khá lúng túng. 
QUÂN ĐỘI ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "XÃ HỘI DÂN SỰ" ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; được Đảng, bác Hồ sáng lập và rèn luyện, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng. Với chức năng của đội quân công tác, Quân đội cần thực hiện tốt các giải pháp:
Thứ nhất, cần nhận thức đầy đủ về XHDS và có cách “ứng xử” phù hợp với vấn đề “XHDS”. Phải thẳng thắn bác bỏ và phê phán, đấu tranh kiên quyết với các quan điểm khuyến khích, cổ vũ XHDS với ý đồ thúc đẩy hình thành các tổ chức chính trị đối lập. Hiện nay, nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn liên quan đến XHDS chưa được nghiên cứu thấu đáo, hiệu lực và công cụ quản lý của Nhà nước, ý thức pháp luật của người dân còn có những hạn chế. Do đó, nếu chúng ta buông lỏng, thả nổi cho sự hình thành, phát triển “XHDS” sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy phức tạp, khó kiểm soát, nhất là dưới góc độ quản lý nhà nước, cũng như bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và bảo vệ an ninh quốc gia.
Thứ hai, kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách, biện pháp hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy, ảnh hưởng tiêu cực của XHDS mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng chống phá cách mạng Việt Nam. Cần tổ chức nghiên cứu bài bản, có hệ thống về XHDS, các yếu tố của XHDS, nhất là làm rõ khái niệm, bản chất của XHDS; XHDS và các yếu tố cấu thành, biểu hiện cụ thể của XHDS; các hình thức của XHDS gắn với điều kiện lịch sử - cụ thể, nhất là chế độ chính trị, truyền thống văn hóa, trình độ phát triển kinh tế - xã hội; cấu trúc của XHDS và quan hệ của XHDS với nhà nước, thị trường, tôn giáo, mạng xã hội, gia đình; vai trò, ưu thế và giới hạn, mặt tiêu cực của XHDS; yếu tố ngoại sinh và nội sinh của XHDS; các hình thức lợi dụng XHDS của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho Đảng, Nhà nước chủ động có chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quản lý các tổ chức xã hội, các NGO, vừa phát huy mặt tích cực, vừa định hướng hoạt động lành mạnh phù hợp với thể chế chính trị, đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước, triệt tiêu các yếu tố có thể bị lợi dụng để hình thành lực lượng chính trị đối lập, gây bất ổn chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt công tác tư tưởng, tuyên truyền nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân không bị các thế lực thù địch kích động, lôi kéo thông qua danh nghĩa tổ chức XHDS.
Thứ ba, trong điều kiện có sự tồn tại khách quan của một số loại tổ chức có tính chất “XHDS”, cần tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm phát huy đầy đủ vai trò của các tổ chức này, hạn chế những tác động tiêu cực của nó và có các biện pháp quản lý phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, phù hợp với cơ chế vận hành của thể chế chính trị, giữ vững bản chất của chế độ. Sự quản lý và định hướng có hiệu quả, bằng pháp luật của Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường dân chủ, lành mạnh cho sự phát triển hài hòa của toàn xã hội. Mặt khác, cần củng cố, đổi mới, phát huy tính tích cực và chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội để làm tốt chức năng đoàn kết, tập hợp, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội, bảo vệ quyền lợi của nhân dân trước tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường và toàn cầu hóa.
Đồng thời, quán triệt tinh thần Đại hội XII của Đảng: “Kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội trong từng chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1), định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, hiệp hội, đoàn thể ở Việt Nam phải gắn liền với việc xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; gắn với đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Thứ tư, làm tốt công tác phối kết hợp với các lực lượng nòng cốt các cấp( nhất là công an) căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ cụ thể được giao, vận dụng các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề “XHDS” xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó, vấn đề cấp bách hiện nay là tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước đối với các tổ chức hội và NGO Việt Nam, không để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng tác động, chuyển hóa thành tổ chức XHDS theo tiêu chí phương Tây.
Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng khác đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận, ngăn chặn hoạt động truyền bá tư tưởng, thổi phồng, tuyệt đối hóa vai trò của XHDS theo mô hình, tiêu chí của phương Tây, cổ vũ thành lập các tổ chức chính trị đối lập, các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc của tổ chức “XHDS”.
Thứ năm, Tích cực tuyên truyền, vận động các nhân sĩ, trí thức, học giả đang sinh hoạt tại các hội, liên hiệp hội, tổng hội nâng cao cảnh giác trước luận điệu của các thế lực thù địch về cái gọi là “hình mẫu lý tưởng” của “XHDS” phương Tây, cũng như tích cực tham gia đấu tranh tư tưởng - lý luận. Đồng thời, vạch rõ những điểm không phù hợp (cả về lý luận và thực tiễn) của “XHDS” theo hình mẫu phương Tây đối với xã hội Việt Nam; vạch rõ mưu đồ chính trị của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị thông qua việc lợi dụng vấn đề “XHDS” để tác động, chuyển hóa chế độ chính trị tại Việt Nam. Bên cạnh đó, sử dụng các biện pháp, phương tiện ngăn chặn, vô hiệu hóa các con đường, cách thức truyền bá vấn đề “XHDS” theo hình mẫu phương Tây vào Việt Nam, đặc biệt là thông qua các phương tiện truyền thông xã hội, hợp tác, trao đổi về văn hóa, khoa học, giáo dục - đào tạo... Đấu tranh, ngăn chặn, xử lý kịp thời hoạt động của các thế lực thù địch bên ngoài câu kết, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối trong nước thành lập các tổ chức phản động dưới danh nghĩa, vỏ bọc XHDS./.
NTK.HN.17.9.19

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2019

"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" TRONG CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG


Vấn đề “tự diễn biến” xét từ góc độ là sự suy thoái về mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống dẫn đến “tự chuyến hóa” trong tổ chức, con người, trước hết là trong tổ chức đảng, tổ chức bộ máy Nhà nước, đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Điều này đã từng diễn ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu trước đây.

 Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” do tác động của “diễn biến hòa bình” đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy Nhà nước… Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa”.

Nhận diện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay được đề cập ở đây là quá trình “tự diễn biến” theo chiều hướng suy thoái. Và từ “tự diễn biến” đến một mức độ nào đó sẽ chuyển sang “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, có thể từng người đến đội ngũ. Nguy hiểm hơn là từ “tự chuyển hóa” con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên có thể dẫn đến “tự chuyển hóa” của cả một tổ chức, nhất là tổ chức đảng và hệ thống chính trị, nếu chúng ta không có những biện pháp phòng, chống hữu hiệu.
“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên hiện nay có thể được biểu hiện ở cả trong nhận thức chính trị, đạo đức, lối sống, tư tưởng, niềm tin và ý chí quyết tâm hành động với các biểu hiện cụ thể, chẳng hạn: Suy giảm về nhận thức, về tư tưởng chính trị, ngày càng xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, xa rời lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xa rời Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xa rời đường lối của Đảng. Suy giảm niềm tin vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt. Suy giảm về phẩm chất đạo đức, lối sống, ngày càng xa rời những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức, lối sống XHCN, trượt dần sang đạo đức, lối sống tư sản, quay về với những thói hư, tật xấu của đạo đức, lối sống phong kiến…
“Tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên có thể diễn ra trước hết trong mỗi con người cán bộ, đảng viên với các mức độ và biểu hiện cụ thể khác nhau về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Và nếu không được phát hiện, phòng, chống kịp thời sẽ dần dần lan rộng theo nhiều chiều hướng: Từ cán bộ cấp thấp đến cán bộ cấp cao; từ cán bộ cấp cao xuống cán bộ cấp thấp; từ một số ít cán bộ, đảng viên đến số đông, cán bộ, đảng viên; từ cá nhân mỗi cán bộ, đảng viên đến tổ chức mà cá nhân cán bộ, đảng viên đó công tác, sinh hoạt./.

Tác hại của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên cũng rất lớn. Tác hại đó không chỉ đối với vai trò của cán bộ, đảng viên mà còn đối với vai trò và sự lãnh đạo của Đảng; vai trò và sự quản lý, điều hành của bộ máy Nhà nước, của chính quyền các cấp; vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội và đối với sự tồn vong của chế độ XHCN ở nước ta.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con người cán bộ được biểu hiện ở chỗ: Cán bộ sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất cách mạng, dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không còn giữ được vai trò là “gốc của mọi công việc”, cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến chất, sự chuyển hóa của cán bộ.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong con người đảng viên được biểu hiện ở chỗ: Đảng viên sẽ dần dần bị suy giảm về bản chất cách mạng, dần dần xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng, xa rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, không còn khả năng tổ chức, tập hợp quần chúng quán triệt và thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không còn giữ được vai trò là chiến sĩ tiên phong của Đảng, cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến chất, sự chuyển hóa của đảng viên.
Tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn biểu hiện ở chỗ: Từ những hạn chế, yếu kém của cán bộ, đảng viên sẽ làm cho nhân dân suy giảm và mất dần niềm tin vào cán bộ, đảng viên, từ đó mà dẫn đến suy giảm và mất dần niềm tin vào vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, vai trò và sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với xã hội, vào tính ưu việt của chế độ XHCN. Từ đó, nhân dân sẽ không tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không quyết tâm phấn đấu để thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều đó sẽ hạn chế việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Một số giải pháp phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên
Một là, thường xuyên tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và những hạn chế không thể tránh khỏi trên con đường phát triển. Giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Nhận thức rõ những hạn chế, bất cập không thể tránh khỏi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế. Đồng thời, nhận thức đúng đắn, có cơ sở lý luận và thực tiễn về bản chất của chủ nghĩa tư bản. “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội” như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức quán triệt triển khai thực hiện tốt trong thực tế công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm đến nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn các hình thức, biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên phù hợp với nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng và đối tượng giáo dục trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ. Chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là đội ngũ cán bộ nòng cốt, chuyên trách về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng về cả số lượng, chất lượng và cơ cấu; về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác; về thực hiện tốt các chế độ, chính sách. Không ngừng nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là tính sắc bén, tính thuyết phục cao trong đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Quan tâm bảo đảm các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thông tin, tài liệu cho hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, khả năng, điều kiện cụ thể.
Ba là, phải từng bước thông qua đường lối, chủ trương, chính sách và công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực tiễn để từng bước hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là ở vùng sâu, vùng cao, vùng xa, những căn cứ cách mạng trước đây và những gia đình, những cán bộ, đảng viên, những người có nhiều công lao đóng góp cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc với những chế độ, chính sách phù hợp.
Bốn là, chăm lo xây dựng nhân tố con người cán bộ, đảng viên, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng “diến biến hòa bình”. Nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trước sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, nhất là trước sự cám dỗ của đồng tiền, của lối sống sa đọa. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, vừa “hồng” vừa “chuyên” như Bác Hồ đã dạy.
Năm là, cần phải tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn góp phần phát triển một cách sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền kịp thời, có định hướng đúng đắn nhằm cung cấp thông tin chính thống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bảo đảm cho việc tuyên truyền, giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách có cơ sở khoa học, thuyết phục.

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019


CÙNG HÀNH ĐỘNG

Hoạt động ngang ngược bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian vừa qua, đã gây quan ngại sâu sắc với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc, để bảo vệ lợi ích quốc gia, các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế đã lên án mạnh mẽ:

Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho rằng: Việt Nam kiên quyết phản đối việc tàu Địa chất Hải Dương 8 tiếp tục các hành động vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên vùng biển của Việt Nam…

Philippines đã gửi công hàm phản đối sau khi phát hiện 113 tàu Trung Quốc hoạt động gần đảo Thị Tứ thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Và trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Lorenzana cho rằng, Trung Quốc hành động khác với những tuyên bố của họ về Biển Đông và "bắt nạt" Philippines khi chiếm bãi cạn Scarborough.

Trong thông cáo chung sau cuộc họp thường niên ngày 01/8/2019, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã bày tỏ quan ngại về việc cải tạo đất, các hoạt động và sự cố nghiêm trọng ở Biển Đông làm xói mòn lòng tin, gia tăng căng thẳng và có thể làm suy yếu hòa bình, an ninh và ổn định trong khu vực.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ hôm 20/7 tuyên bố, việc Trung Quốc cải tạo và quân sự hóa các tiền đồn tranh chấp ở Biển Đông cùng với những nỗ lực khác nhằm khẳng định yêu sách hàng hải phi pháp ở vùng biển này như sử dụng lực lượng dân quân hàng hải để khiêu khích, đe dọa, áp chế các nước khác là phá hoại hòa bình và an ninh khu vực.

Trong tuyên bố chung 3 nước Anh, Pháp, Đức bày tỏ lo ngại tình hình Biển Đông bất ổn, mất an ninh trong khu vực, kêu gọi các bên thực hiện các biện pháp giảm căng thẳng, chú ý quyền của của những quốc gia ven biển trong vùng biển của họ và quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông.

Tuyên bố của các nước trong khu vực và quốc tế trong thời gian qua đã tạo nên làn sóng phản đối mạnh mẽ các hành động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng biển của Việt Nam. Để gìn giữ nền hoà bình, ổn định trong khu vực, hơn lúc nào hết các nước trong khu vực và trên thế giới phải cùng nhau hành động và hành động hơn nữa./. LVK

CẦN CẢNH GIÁC VỚI THÔNG TIN MẠNG

          Nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI, với sự bùng nổ của cách mạng khoa học công nghệ, thông tin, trong đó có sự phát triển mạnh mẽ của in-tơ-net. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của in-tơ-net, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để đăng tải thông tin xấu độc, bịa đặt, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề làm “đổi trắng thay đen” và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch.
          Trong những năm gần đây, đặc biệt là cuối năm 2018, đầu năm 2019, hoạt động của các thế lực thù địch và các tổ chức, cá nhân chống đối có nhiều diễn biến phức tạp, leo thang, nguy hiểm trên không gian mạng, công khai ý đồ lật đổ chính quyền “trước đây là tuyên truyền về nhân quyền, dân chủ, nhưng hiện nay trên không gian mạng, các thế lực thù địch đang bày tỏ một ý đồ rất rõ rệt là phải tập hợp được lực lượng và chờ đợi để lật đổ chính quyền”. Phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch đang thay đổi theo hướng manh động, liều lĩnh, kết hợp giữa phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, kích động xu hướng ly khai Đảng, bỏ Đảng gắn với hoạt động biểu tình, bạo loạn, khủng bố, ám sát cán bộ khi có cơ hội… Môi trường hoạt động chủ yếu là không gian mạng, chúng lợi dụng vào các trang mạng xã hội như facebook, youtube, zalo kết hợp với các báo đài ở bên ngoài, sử dụng các đối tượng trong nước để thu thập thông tin, trả lời phỏng vấn về các vấn đề nhạy cảm, phức tạp để phát tán thông tin, tài liệu, video tạo ra các chiến dịch truyền thông nhằm tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tấn công trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của nhà nước và hệ thống pháp luật của Việt Nam. Chúng xuyên tạc, bôi nhọ, hạ uy tín lãnh đạo của Đảng, công khai bày tỏ quan điểm đối lập, khêu gợi hận thù chế độ, ca ngợi chế độ cũ, khai thác tâm lý bức xúc của người dân, gây chia rẽ trong quần chúng nhân dân… hoạt động tuyên truyền của các thế lực thù địch đã tác động thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nhiều trường hợp cán bộ, Đảng viên suy thoái đạo đức hoặc mất cảnh giác đã hưởng ứng tham gia tụ tập biểu tình gây mất an ninh trật tự, phát ngôn, trả lời phỏng vấn báo đài nước ngoài với nội dung xấu, hưởng ứng phong trào chống phá Đảng, bỏ Đảng…từ đây, nhằm tạo ra trong mắt nhân dân và cộng đồng quốc té một xã hội Việt Nam bất ổn về chính trị, một Nhà nước bị chia rẽ, một bộ máy công quyền tham nhũng, quan liêu.
          Từ thực tế đó, chúng ta cần phải phát huy vai trò đấu tranh của các cấp, các ngành, tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức, trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cao của đội ngũ cán bộ, Đảng viên và quần chúng nhân dân. Phải tạo ra nhận thức đúng đắn, nhận diện được đầy đủ, khoa học, khách quan về tính hai mặt của in-tơ-net và các trang mạng xã hội; nhận biết đầy đủ âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, trang bị những kiến thức cần thiết để mỗi cán bộ, Đảng viên, quần chúng nhân dân có thể tự sàng lọc, tiếp cận những thông tin bổ ích, chính thống, tạo ra một hệ thống “miễn dịch” trước những thông tin xấu độc của các thế lực thù địch.
bg2505

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2019

Thấy gì qua sự việc lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của Lực lượng công an giao thông


Những ngày qua, báo chí đăng tải sự việc chị Phạm Thị H (SN 1997, trú tại huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa) bị xử lý hành chính với số tiền 7.5 triệu đồng vì đã đã xúc phạm danh dự, uy tín của lực lượng CSGT đang làm nhiệm vụ.

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG THÔNG TIN BỊA ĐẶT TRÊN MẠNG XÃ HỘI


Cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, mạng xã hội nói chung và Internet nói riêng đã mang đến cho người dân lượng thông tin khổng lồ, cho phép tìm kiếm thông tin dễ dàng; gặp gỡ, giao lưu, gắn kết cộng đồng, trao nhận, chia sẻ tình cảm; tìm kiếm việc làm, quảng cáo, kinh doanh và giải trí. Mạng xã hội là mối quan hệ giữa con người với xã hội trên nền tảng Internet, mang lại những tiện ích giúp cho phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống, trao đổi thông tin trong cộng đồng xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực thì mạng xã hội cũng để lại nhiều hệ lụy nguy hiểm, nguy cơ khó lường, đó là vấn nạn tin giả, tin có nội dung thiếu lành mạnh, phản giáo dục, bôi xấu, vu cáo, phản động, kích động bạo lực, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chống phá công công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019

Đừng “lập lờ đánh lận con đen”
Việc Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu với đảng viên trẻ tiêu biểu toàn quốc vừa qua; trong đó có nhắn nhủ họ phải trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Đó là nhắn nhủ và yêu cầu của người đứng đầu Đảng và Nhà nước hoàn toàn đúng về lý luận và thực tiễn.
Thế nhưng, có người lại phê phán, họ cho rằng, tại sao lại đặt Đảng lên trên Tổ quốc? Tổ quốc đã có hàng nghìn năm, mà Đảng chưa tròn 90 tuổi? Cần khẳng định đó là sự “lập lờ đánh lận con đen”.
Trước hết, họ đã đồng nhất Tổ quốc với dải đất hình chữ S, đồng nhất Tổ quốc với điều kiện tự nhiên, lịch sử. Nếu vậy, tại sao vẫn dải đất ấy, vẫn điều kiện tự nhiên, lịch sử ấy mà khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lại không có tên trên bản đồ thế giới? Vấn đề đặt ra là khi ấy ai mới là người làm chủ dải đất hình chữ S đấy? Có phải chế độ phong kiến Việt Nam hay thực dân Pháp? Nếu phong kiến thì tại sao lại không có tên Việt Nam trên bản đồ thế giới? Lúc này có gọi là Tổ quốc Việt Nam được không?
Thứ hai, để cấu thành tổ quốc, ngoài điều kiện tự nhiên, lịch sử thì yếu tố cơ bản không thể thiếu là vấn đề chính trị - xã hội, hay kiến trúc thượng tầng. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo nhân dân ta đoàn kết đấu tranh chống sự xâm lược của thực dân Pháp, đập tan chế độ phong kiến, lập nên nhà nước công nông, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ấy có quốc kỳ, quốc ca riêng, có hiến pháp và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, được cộng đồng quốc tế công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nhà nước ấy. Nhà nước công nông ấy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có quyền bình đẳng với các quốc gia - dân tộc trên thế giới. Việt Nam lại có tên trên bản đồ thế giới. Đấy mới là Tổ quốc Việt Nam hoàn chỉnh có đầy đủ hai yếu tố của một tổ quốc là (1). Về phương diện tự nhiên, lịch sử và (2). Về phương diện chính trị - xã hội. Thiếu một trong hai yếu tố trên thì không thể gọi là tổ quốc.

Như vậy, không có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền từ tay thực dân Pháp thì không có Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, nói phải trung thành với Đảng là để Tổ quốc mãi trường tồn. Khi nói trung thành với Tổ quốc được hiểu là phải có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia - dân tộc. Tất nhiên, Tổ quốc ấy để phục ai? Phục vụ nhân dân nên phải trung thành với nhân dân, phụng sự nhân dân bằng mọi điều kiện, khả năng của mình. Đấy mới là người đảng viên chân chính. Vậy thì, việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khi đề cập đến đạo đức của người cán bộ, đảng viên nói chung, đảng viên trẻ - người chủ tương lai của dân tộc phải trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân là phù hợp cả về lý luận thực tiễn và văn hóa, đạo đức. Xin đừng “lập lờ đánh lận con đen”./.

Gửi cho lãnh đạo Trung Hoa

Tổ cha lãnh đạo Trung Hoa.
Bọn mày chuyên giở những trò tiện nhân
Biển Đông dễ cũng mấy lần
Bọn mày cướp bóc đuổi dân lưới chài.
Việt Nam có bờ biển dài
Có đảo lớn nhỏ ở ngoài biển khơi.
Hoàng Sa sừng sững giữa trời.
Mày dùng vũ lực giết người cướp không.
Trường Sa biển đảo mênh mông.
Mấy ngàn năm trước dân không có mày.
Thời phong kiến Việt Nam đây.
Đưa dân ra đảo dựng xây trú đồn.
Vượt bao sóng dập mưa dồn
Con dân đất Việt mãi còn vươn khơi.
Đất, Biển, Đảo và bầu trời.
Việt Nam độc lập rạng ngời non sông.
Cùng chung dòng chảy Mê Kông.
Chúng mày cho chặn uốn dòng nước trôi.
Láng giềng lịch sử lâu đời
Bao phen sóng gió nhưng rồi cũng qua.
Chóp bu lãnh đạo Trung Hoa.
Bọn mày chuyên giở những trò lưu manh.
Cậy mình ở thế đàn anh.
Có tý tiềm lực nên thành kiêu căng.
Lịch sử đã chứng minh rằng
Mấy đời Hán, Tống hung hăng cũng tàn.
Đừng cậy thế mạnh làm càn.
Biển Đông không phải ao làng nhà bay.
Khôn hồn thì hãy bỏ ngay.
Ý định cướp biển nước này nghe không.
Dân tao không sợ mày đông
Bởi là “Nhân nghĩa” rộng lòng tha cho.
Việt Nam yêu chuộng tự do.
Độc lập, tự chủ chăm lo hòa bình.
Vài lời nhắn nhủ thân tình.
Gửi qua Trung Quốc triều đình nghe đi./.
Kết quả hình ảnh cho hải dương 8
Kết quả hình ảnh cho lãnh đạo trung quốc